- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Đội ngũ giáo viên - nhân tố quan trọng trong sự chuyển đổi mạnh mẽ của hệ thống giáo dục ở Phần Lan
Xem mẫu
- ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN - NHÂN TỐ QUAN TRỌNG TRONG
SỰ CHUYỂN ĐỔI MẠNH MẼ CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở PHẦN LAN
HOÀNG LÊ MAI PHƯƠNG
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Tóm tắt: Hệ thống giáo dục của Phần Lan là một trong những hệ thống giáo
dục tiên tiến nhất và luôn dẫn đầu các nước OECD về thành tích giáo dục.
Khi xem xét các nguồn lực giáo dục lớn mạnh của Phần Lan có thể thấy một
yếu tố quan trọng hơn cả trong sự thành công của nền giáo dục Phần Lan -
đó chính là đội ngũ giáo viên xuất sắc. Nghiên cứu tập trung phân tích những
chính sách của Phần Lan nhằm tạo nên sức ảnh hưởng của đội ngũ giáo viên
như xây dựng vị trí danh giá của nghề giáo viên trong xã hội; xây dựng các
tiêu chuẩn, chương trình lựa chọn đầu vào và đào tạo đội ngũ giáo viên; xây
dựng công cụ, thẩm quyền và trách nhiệm mà giáo viên được giao trong hoạt
động giảng dạy.
Từ khoá: đào tạo, giáo viên, giáo dục, Phần Lan.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với trình độ giáo dục cao, Phần Lan được coi là một trong những xã hội có học
thức cao nhất thế giới. Hơn 98% tham gia các lớp học mầm non; 99% hoàn thành giáo
dục cơ bản bắt buộc; và 94% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Tỷ lệ hoàn thành
trong trường phổ thông dạy nghề cũng đạt gần 90%. Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua,
Phần Lan đã nổi lên dẫn đầu các nước OECD về thành tích giáo dục khi luôn đứng đầu
trong nhiều kì đánh giá học sinh quốc tế PISA. Làm thế nào mà một quốc gia có một hệ
thống giáo dục tầm thường trong những năm 1980 vươn lên đứng đầu chỉ trong vài thập
kỷ? Qua nghiên cứu có thể thấy rằng, kỳ tích chuyển mình này xuất phát từ những thay
đổi chính sách, thay đổi về triết lý giáo dục và yếu tố đặc biệt quan trọng và nổi bật hơn
hẳn các quốc gia khác đó chính là: đội ngũ giáo viên xuất sắc.
Vậy xã hội Phần Lan nhìn nhận nghề giáo viên ra sao? Việc đào tạo và phát triển
chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ở Phần Lan được thực hiện như thế nào? Và những
công cụ và đặc quyền mà ngành giáo dục Phần Lan đã dành cho đội ngũ giáo viên là gì?
2. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan hệ thống giáo dục của Phần Lan
Phần Lan có một hệ thống giáo dục tiên tiến: theo kết quả của các cuộc kiểm tra
PISA, kết quả học tập của học sinh Phần Lan độ tuổi 15 luôn được đánh giá là nước
xuất sắc nhất. Các trường học ở Phần Lan không chỉ đứng đầu về trắc nghiệm của tổ
chức OECD mà còn thành công trong việc giáo dục các học sinh yếu kém và làm giảm
mức chênh lệch học tập giữa nam sinh và nữ sinh. Các trường ở Phần Lan có độ chênh
lệch kiến thức rất nhỏ. Các học sinh yếu luôn có cơ hội vươn lên.
396
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Hệ thống giáo dục Phần lan được thiết kế tương đối đơn giản, thuận tiện cho việc
lựa chọn và thay đổi nguyện vọng của người học. Khả năng chuyển đổi con đường học
tập được đảm bảo theo triết lý học tập suốt đời. Hệ thống giáo dục của Phần Lan hiện
nay bao gồm:
Các chương trình cho trẻ nhỏ dưới 2 tuổi (cho trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi) và
chương trình cho trẻ độ tuổi mầm non (hoặc mẫu giáo cho trẻ đến sáu tuổi);
Chương trình giáo dục cơ bản toàn diện bắt buộc kéo dài chín năm (bắt đầu từ
lúc bảy tuổi và kết thúc ở tuổi mười lăm);
Giáo dục đại học và dạy nghề sau phổ thông bắt buộc; giáo dục đại học (đại
học và đại học khoa học ứng dụng); và giáo dục cho người lớn (suốt đời, liên tục). Sau
thời gian giáo dục cơ bản chín năm tại một trường học phổ thông hỗn hợp, học sinh ở
độ tuổi 16 có thể chọn tiếp tục học tại trường đại học (lukio) hoặc theo học một trường
dạy nghề (ammattikoulu), cả hai thường mất ba năm theo học.
Giáo dục ở Phần Lan là một hệ thống giáo dục không thu học phí và trợ cấp bữa
ăn đầy đủ phục vụ cho học sinh, sinh viên toàn thời gian. Phần Lan tạo điều kiện cho tất
cả các học sinh không phân biệt xuất thân từ đâu, tất cả hệ thống giáo dục từ nhà trẻ đến
đại học đều miễn phí cả sách giáo khoa, sách tham khảo, tiền xe bus... Ngân sách chi
cho giáo dục do Nhà nước và Tòa Thị chính của các thành phố đảm nhiệm.
Giáo dục Phần Lan vận hành theo một triết lý giáo dục độc đáo, thể hiện ở quan
điểm coi học sinh và giáo viên là hai chủ thể quan trọng nhất của nhà trường do đó phải
được quan tâm và tôn trọng hết mức.
Sự ưu ái học sinh thể hiện ở chỗ ngành giáo dục phải làm cho nhà trường trở
thành thiên đường của trẻ em. Do vậy ở Phần Lan lũ trẻ không phải chịu bất cứ một sức
ép nào trong học tập như những vấn đề cạnh tranh, xếp hạng giỏi kém trong học tập và
các kỳ sát hạch thi cử. Luật pháp Phần Lan quy định không được dùng cách xếp hạng
hoặc cho điểm để đánh giá các học sinh trước lớp 6. Nhiệm vụ của giáo viên là làm cho
học sinh hào hứng học tập, say mê hiểu biết, quan tâm tập thể và xã hội. Học sinh Phần
Lan chỉ có một kỳ thi duy nhất sau 12 năm học là kỳ thi đại học, cạnh tranh cũng rất
quyết liệt nhưng khi ấy học sinh đã trưởng thành. Người ta cố gắng không để học sinh
cạnh tranh với nhau quá sớm.
Chủ thể quan trọng thứ hai của giáo dục là giáo viên cũng phải được sống trong
môi trường ít sức ép nhất. Thầy cô giáo phải được xã hội tôn trọng hết mức. Do vậy, đối
với giáo viên, nhà trường áp dụng nguyên tắc không so sánh, không xếp thứ hạng hoặc
cho điểm các giáo viên, không tổ chức thi tay nghề giảng dạy, cũng không làm bản nhận
xét đánh giá giáo viên. Để đảm bảo chất lượng giáo dục, Bộ Giáo dục Phần Lan nêu yêu
cầu cực cao đối với chất lượng giáo viên, chỉ tuyển những người có tinh thần hết lòng
phụng sự nhân dân và đạo đức nghề nghiệp cao thượng và hơn nữa còn tạo điều kiện tốt
nhất để tiếp tục đào tạo họ. Ngành giáo dục thiết lập một hệ thống dựa trên tinh thần
trách nhiệm, cho phép giáo viên được quyền tự do nhất định trong việc giảng dạy. Học
397
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Sinh cũng được quyền tự chọn phương thức học tập của mình. Giáo viên lên lớp bình
quân 3 tiết mỗi ngày (so với 7 tiết ở Mỹ), do đó có nhiều thời gian để sáng tạo bài giảng
truyền được cảm hứng cho học sinh.
2.2. Vị trí của nghề giáo viên trong xã hội Phần Lan
Giáo dục luôn là một phần không thể thiếu của văn hóa và xã hội Phần Lan, và
các giáo viên ở đây nhận được sự tôn trọng và tin tưởng vô cùng lớn. Phần Lan coi việc
giảng dạy là một nghề nghiệp cao quý và có thanh thế - giống như y tế, luật hoặc kinh
tế, và được thực hiện bởi mục đích đạo đức chứ không phải lợi ích vật chất.
Đội ngũ giáo viên đóng vai trò chính giúp Phần Lan dẫn đầu quốc tế hiện nay về tỷ
lệ biết chữ và các lĩnh vực khoa học, toán học. Cho đến những năm 1960, trình độ giáo
dục của Phần Lan vẫn ở mức khá thấp. Chỉ có 1 trong số 10 người Phần Lan trưởng thành
hoàn thành hơn 9 năm giáo dục cơ bản; việc đạt được trình độ đại học không phổ biển.
Lúc đó, trình độ học vấn của quốc gia được so sánh với Malaysia hay Peru, và tụt lại phía
sau so với các nước láng giềng Bắc Âu (Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển). Ngày nay,
Phần Lan đã công nhận giá trị của đội ngũ giáo viên và tin tưởng những đánh giá chuyên
môn của họ trong nhà trường. Nếu không có đội ngũ giáo viên xuất sắc chắc chắn rằng
Phần Lan không thể có được những thành tựu quốc tế như hiện nay.
Trong giới trẻ Phần Lan, giảng dạy đã trở thành nghề được ngưỡng mộ nhất trong
cuộc thăm dò ý kiến thường xuyên của sinh viên tốt nghiệp trung học phổ thông. Việc
trở thành một giáo viên tiểu học ở Phần Lan là một quá trình rất cạnh tranh, và chỉ
những người tốt nhất và sáng giá nhất của Phẩn Lan mới có thể hoàn thành những ước
mơ nghề nghiệp đó. Mỗi năm, hàng ngàn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông nộp
đơn tại phòng đào tạo giáo viên ở 8 trường đại học Phần Lan. Thông thường việc hoàn
thành bậc trung học phổ thông và vượt qua một kỳ thi tuyển đại học nghiêm ngặt vẫn
chưa đủ, các ứng viên được chọn phải là những người có số điểm cao nhất và kỹ năng
giao tiếp tốt. Hàng năm chỉ có khoảng 1 trong số 10 ứng viên được nhận vào học để trở
thành một giáo viên tiểu học ở Phần Lan.
Có hai giai đoạn trong quá trình lựa chọn đào tạo giáo viên tiểu học. Thứ nhất,
một nhóm các ứng viên được lựa chọn dựa trên kết quả trúng tuyển kỳ thi đại học, bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông, và các hồ sơ liên quan đến thành tích bên ngoài nhà
trường. Trong giai đoạn thứ hai:
Ứng viên hoàn thành một bài thi viết về những cuốn sách sư phạm được chỉ định.
Các ứng viên tham gia một hoạt động lâm sàng được quan sát trong các tình
huống học đường, nơi mà sự tương tác và kỹ năng giao tiếp xã hội được đưa vào.
Các ứng viên lọt vào tốp đầu được phỏng vấn và giải thích lý do họ quyết định
trở thành giáo viên. Những ứng viên có năng lực này sẽ hoàn thành chương trình đào
tạo giáo viên nghiêm khắc với chi phí của chính phủ.
398
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Cho đến giữa những năm 1970, các giáo viên tiểu học được đào tạo tại các trường
cao đẳng sư phạm còn các giáo viên trung học và phổ thông được học tại các khoa bộ
môn ở các trường đại học Phần Lan. Vào cuối những năm 1970, tất cả các chương trình
đào tạo giáo viên đều chuyển đổi thành quy mô đại học. Đồng thời, nội dung khoa học
và phương pháp nghiên cứu giáo dục bắt đầu được đưa vào để làm phong phú thêm
chương trình đào tạo giáo viên. Ngày nay, đào tạo giáo viên dựa trên nghiên cứu tức là
nó phải được hỗ trợ bởi những kiến thức khoa học và tập trung vào quá trình tư duy và
kỹ năng nhận thức được sử dụng trong nghiên cứu. Yêu cầu đầu vào hiện nay cho công
việc giáo viên ở các trường học phổ thông Phần Lan là tấm bằng thạc sỹ. Các giáo viên
mầm non và mẫu giáo cũng phải có bằng cử nhân.
Tiền lương không phải là lý do chính khiến cho những bạn trẻ mong muốn trở
thành giáo viên ở Phần Lan. Mức lương giáo viên ở Phần Lan rất gần với mức lương
trung bình của quốc gia. Điều quan trọng hơn cả tiền lương chính là những yếu tố như
thanh thế xã hội cao, sự tự chủ chuyên môn trong nhà trường, và các đặc tính của việc
giảng dạy như một dịch vụ cho xã hội và hàng hóa công cộng. Vì vậy, những người trẻ
Phần Lan xem việc dạy học như một nghề nghiệp ngang tầm với các ngành nghề khác
nơi mà mọi người làm việc một cách độc lập và dựa trên các kỹ năng và kiến thức khoa
học họ có được trong trường đại học.
2.3. Đào tạo giáo viên ở Phần Lan
Chỉ số quốc tế cho thấy Phần Lan là một trong những xã hội tri thức tiên tiến nhất.
Các trường học đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi Phần Lan từ một
quốc gia công nghiệp - nông nghiệp truyền thống sang một nền kinh tế tri thức đổi mới
hiện đại. Điều này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự cải thiện đáng kể trong
cách thức đào tạo đội ngũ giáo viên ở Phần Lan.
Các tiêu chuẩn chung cho đào tạo giáo viên ở Phần Lan khá cao
Ở Phần Lan, tất cả các giáo viên phải có trình độ thạc sỹ. Các giáo viên tiểu học
tập trung vào việc giảng dạy, trong khi các giáo viên ở cấp cao hơn tập trung vào những
nghiên cứu của họ ở một môn học cụ thể như toán học cũng như là phương pháp sư
phạm, bao gồm các kiến thức nội dung sư phạm cụ thể cho từng môn học.
Đào tạo giáo viên hướng đến mục tiêu phát triển cân đối năng lực cá nhân và
chuyên môn của giáo viên. Đặc biệt tập trung vào việc xây dựng kỹ năng tư duy sư
phạm cho phép các giáo viên quản lý quá trình giảng dạy phù hợp với kiến thức giáo
dục hiện đại và thực tiễn. Các ứng viên tham gia đào tạo giáo viên tiểu học sẽ được đào
tạo ở 3 lĩnh vực chính: (1) Lý thuyết về giáo dục, (2) Kiến thức sư phạm, và (3) Phương
pháp giảng dạy môn học và thực hành. Mỗi sinh viên phải hoàn thành một luận văn thạc
sỹ. Các giáo viên tiểu học tương lai thường hoàn thành luận văn của họ trong lĩnh vực
giáo dục. Các giáo viên trung học chọn một chủ đề trong chuyên môn của mình [11].
399
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Hiện nay, các trường đại học Phần Lan cung cấp một chương trình học hai cấp.
Chương trình bằng cử nhân 3 năm bắt buộc được theo sau bởi chương trình bằng thạc sỹ
hai năm. Hai bằng cấp này được cung cấp trong các chương trình đa ngành bao gồm các
nghiên cứu đối với ít nhất hai vấn đề. Các nghiên cứu được định lượng theo các đơn vị tín
chỉ trong hệ thống tích lũy và chuyển đổi tín chỉ châu Âu (ETCS) được sử dụng ở 46 quốc
gia châu Âu. ETCS được dựa trên giả định rằng 60 tín chỉ đo lường khối lượng công việc
của một sinh viên toàn thời gian trong một năm học, và mỗi tín chỉ ECTS đại diện cho
khoảng 25-30 giờ học. Việc đào tạo giáo viên đòi hỏi 180 tín chỉ ECTS cho bằng cử nhân
sau đó là 120 tín chỉ ECTS cho bằng thạc sỹ. Để hoàn thành xuất sắc bằng thạc sỹ sư
phạm (bao gồm cả bằng cử nhân) thông thường phải mất từ 5 đến 7 năm rưỡi [5].
Sự chuẩn bị tốt về nội dung và phương pháp sư phạm
Ở Phần Lan, chương trình học đảm bảo cân bằng giữa kiến thức và kỹ năng về cả
lý thuyết và thực hành cho giáo viên. Nó cũng giúp giáo viên tương lai có cái nhìn
chuyên môn sâu sắc về giáo dục từ một vài góc độ, bao gồm tâm lý và xã hội học giáo
dục, lý thuyết chương trình giảng dạy, đánh giá, giáo dục theo nhu cầu đặc biệt, và kiến
thức sư phạm trong lĩnh vực chuyên môn đã lựa chọn. Tất cả tám trường đại học Phần
Lan đều có chiến lược và chương trình đào tạo giáo viên của riêng họ và được hợp tác
trên toàn quốc để đảm bảo sự gắn kết, nhưng được điều chỉnh theo địa phương để đảm
bảo sử dụng tốt nhất nguồn lực của trường đại học và các nguồn lực khác.
Như một quy luật chung, đào tạo giáo viên tiểu học bao gồm 60 tín chỉ ECTS về
các nghiên cứu sư phạm và ít nhất là hơn 60 tín chỉ ECTS cho các khóa học khác trong
các ngành khoa học giáo dục. Luận văn thạc sĩ đòi hỏi nghiên cứu độc lập, việc tham
gia vào các hội thảo nghiên cứu, và cuối cùng là trình bày một nghiên cứu giáo dục. Tỷ
trọng tín chỉ dành cho công việc nghiên cứu này ở tất cả các trường đại học thông
thường là 40 tín chỉ ECTS. Chương trình giảng dạy đào tạo giáo viên đổi mới ở Phần
Lan kỳ vọng rằng các ứng viên giáo viên tiểu học có thể hoàn thành một phần lớn tín
chỉ trong khoa học giáo dục và tổng cộng 60 tín chỉ ECTS cho các nghiên cứu bộ môn
nhỏ bao gồm trong khung chương trình giảng dạy quốc gia cho nhà trường cơ bản [7].
Đào tạo giáo viên bộ môn cũng theo các nguyên tắc giống như đào tạo giáo viên
tiểu học nhưng nó được sắp xếp khác nhau. Một giáo viên bộ môn tương lai tập trung
vào lĩnh vực mà anh ấy hoặc cô ấy sẽ giảng dạy (ví dụ như toán học hay âm nhạc). Đối
với bộ môn chính này sẽ đòi hỏi 90 tín chỉ ECTS cho việc nghiên cứu nâng cao. Ngoài
ra, môn học thứ hai sẽ yêu cầu đủ 60 tín chỉ ECTS.
Có hai cách chính để trở thành một giáo viên bộ môn. Trước tiên, hầu hết sinh
viên sẽ hoàn thành bằng thạc sĩ với một bộ môn chính và một hoặc hai bộ môn phụ. Sau
đó, các sinh viên ứng tuyển tại sở đào tạo giáo viên với bộ môn tập trung của họ. Một
năm học (60 tín chỉ ECTS) sẽ được dành cho các nghiên cứu sư phạm, tập trung vào các
chiến lược giảng dạy môn học theo định hướng [7]. Một cách khác để trở thành một
giáo viên bộ môn là ứng tuyển trực tiếp vào chương trình đào tạo giáo viên để học một
400
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
bộ môn. Thông thường, sau năm học thứ hai của các nghiên cứu bộ môn, sinh viên bắt
đầu các nghiên cứu sư phạm trong ngành giáo dục.
Những bài giảng trong ngành đào tạo giáo viên Phần Lan được bố trí để phản ánh
các nguyên tắc sư phạm được chuẩn bị cho các giáo viên để thực hành trong lớp học của
mình. Mặc dù mỗi giảng viên đại học có đầy đủ quyền tự chủ sư phạm, nhưng mỗi sở
đào tạo giáo viên ở Phần Lan vẫn phải có một bài giảng chi tiết và thường ràng buộc với
chiến lược nhằm nâng cao chất lượng chương trình giáo dục của nó. Phương pháp sư
phạm tập trung vào bộ môn và những lĩnh vực nghiên cứu của nó, ví dụ, giáo dục khoa
học giáo dục đã được nâng cao trong các trường đại học của Phần Lan. Chiến lược học
tập hợp tác và dựa trên vấn đề, thực hành phản xạ và giáo dục có hỗ trợ của máy tính đã
phổ biến ở tất cả các trường đại học của Phần Lan.
Tích hợp lý thuyết, nghiên cứu và thực hành
Cam kết của Phần Lan đối với việc đào tạo giáo viên dựa trên nghiên cứu có
nghĩa rằng những lý thuyết giáo dục, phương pháp nghiên cứu và thực hành đều đóng
vai trò quan trọng trong chương trình giảng dạy. Chương trình đào tạo giáo viên được
thiết kế một cách có hệ thống từ các cơ sở tư duy giáo dục đến các phương pháp nghiên
cứu giáo dục và sau đó đến các lĩnh vực cao hơn của các ngành khoa học giáo dục. Mỗi
sinh viên từ đó xây dựng sự hiểu biết về tính hệ thống, tính chất liên ngành của thực
hành giáo dục. Sinh viên Phần Lan cũng được tìm hiểu các kỹ năng để thiết kế, thực
hiện và trình bày nghiên cứu ban đầu về các khía cạnh thực hành hay lý thuyết của giáo
dục. Một yếu tố quan trọng của đào tạo giáo viên dựa trên nghiên cứu của Phần Lan là
việc đào tạo thực hành trong các trường học, đây là một thành phần quan trọng của
chương trình giảng dạy, tích hợp với nghiên cứu và lý thuyết.
Thực hành giảng dạy được tích hợp vào cả nghiên cứu lý thuyết và phương pháp
luận. Qua chương trình năm năm, các ứng cử viên nâng cao từ thực hành cơ bản đến
thực hành nâng cao và sau đó đến thực hành chính thức. Trong mỗi giai đoạn, sinh viên
quan sát bài học của các giáo viên giàu kinh nghiệm, thực hành giảng dạy dưới sự quan
sát của các giáo viên giám sát, và cung cấp những bài học độc lập với các nhóm học
sinh khác nhau dưới sự đánh giá của các giáo viên giám sát và các giáo sư, giảng viên
Sở đào tạo giáo viên [3].
Có hai bài thực tập chính trong các chương trình đào tạo giáo viên ở Phần Lan.
Thứ nhất là một phần đào tạo lâm sàng phụ được diễn ra trong các cuộc hội thảo và các
lớp nhóm nhỏ tại Sở Giáo dục, nơi sinh viên thực hành các kỹ năng giảng dạy cơ bản
trước mặt đồng nghiệp của họ. Thứ hai là bài thực hành giảng dạy chính diễn ra chủ yếu
ở các trường đào tạo giáo viên đặc biệt được quản lý bởi các trường đại học, trong đó có
chương trình giảng dạy và thực hành tương tự các trường công lập. Một vài sinh viên
cũng thực hành trong một mạng lưới các trường đặc thù được lựa chọn. Các sinh viên
được đào tạo giáo viên tiểu học dành khoảng 15% thời gian học tập dự định của họ
(khoảng 40 tín chỉ ECTS) để thực hành giảng dạy trong các trường học. Trong việc đào
401
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
tạo giáo viên bộ môn, thực hành giảng dạy chiếm khoảng một phần ba của chương trình
giảng dạy [3].
2.4. Học tập và phát triển chuyên môn
Giáo viên Phần Lan sở hữu bằng thạc sĩ có quyền tham gia học sau đại học để
phát triển chuyên môn của họ. Nhiều giáo viên tận dụng các cơ hội để theo đuổi nghiên
cứu tiến sĩ trong giáo dục, thường là đồng thời trong khi dạy học. Đối với nghiên cứu
tiến sĩ trong giáo dục, sinh viên phải hoàn thành các nghiên cứu nâng cao trong các
ngành khoa học giáo dục. Điều này có nghĩa là các giáo viên bộ môn có nhiều thay đổi
về trọng tâm chuyên môn của họ từ trọng tâm vào học thuật ban đầu, ví dụ, hóa học
sang giáo dục, do đó, họ không chỉ hiểu được bộ môn chuyên môn của họ, mà còn hiểu
cách để có thể giảng dạy tốt hơn.
Ở Phần Lan, giáo dục tại chức cũng được quan tâm và có những thay đổi đáng kể.
Các chính quyền thành phố, là người giám sát của các trường tiểu học, trung học và phổ
thông, có trách nhiệm cung cấp các cơ hội học tập cho giáo viên dựa trên nhu cầu của
họ. Trong khi một số thành phố của Phần Lan tổ chức chương trình tại chức thống nhất
cho tất cả các giáo viên, thì ở những thành phố khác, nó phụ thuộc vào cá nhân các giáo
viên hoặc quyết định của hiệu trưởng các trường về số lượng và những loại hình phát
triển chuyên môn cần thiết và các can thiệp như vậy sẽ được tài trợ. Mặc dù trường học
được tài trợ một cách công bằng, chính phủ trung ương vẫn có những ảnh hưởng nhất
định đến các quyết định ngân sách được thực hiện bởi các thành phố hay trường học. Do
đó, một số trường học được phân bổ cho việc phát triển chuyên môn và cải tiến trường
học nhiều hơn những trường khác.
Nhiệm vụ hàng năm của các giáo viên là dành ra ba ngày cho việc lập kế hoạch và
phát triển chuyên môn. Theo một cuộc khảo sát quốc gia Phần Lan, các giáo viên dành
khoảng bảy ngày làm việc trung bình mỗi năm để phát triển chuyên môn, khoảng một
nửa đã được rút ra từ thời gian cá nhân của giáo viên. Khoảng hai phần ba giáo viên tiểu
học và trung học tham gia vào phát triển chuyên môn hàng năm.
Để khuyến khích các giáo viên tham gia phát triển chuyên môn, chính phủ Phần
Lan đang có kế hoạch tăng ngân sách phát triển chuyên môn và tìm phương án để yêu
cầu tất cả các giáo viên phải tham gia vào việc đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành được tài
trợ bởi chính quyền. Ngân sách nhà nước hàng năm phân bổ khoảng 30 triệu USD để
phát triển chuyên môn của giáo viên và hiệu trưởng các trường thông qua các hình thức
giáo dục trước đại học và giáo dục thường xuyên hay khóa học nâng cao bồi dưỡng
nghiệp vụ khác nhau [6]. Chính phủ xác định trọng tâm của công tác đào tạo phải dựa
trên nhu cầu phát triển giáo dục quốc gia hiện nay, và việc đào tạo được ký hợp đồng để
cung cấp dịch vụ trên cơ sở cạnh tranh.
2.5. Công cụ của giáo viên: Giáo trình và công tác đánh giá
Trong quá trình cải cách giáo dục của Phần Lan, giáo viên đã yêu cầu nhiều quyền
tự chủ và trách nhiệm để đánh giá chương trình giảng dạy và học sinh. Các thẩm quyển
402
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
và quyền tự chủ chuyên môn mà các giáo viên có được ở Phần Lan là một yếu tố quan
trọng trong việc giải thích tại sao rất nhiều người trẻ tuổi Phần Lan xem việc giảng dạy
là một công việc tương lai được ngưỡng mộ nhất của họ.
Trong khi các khung chương trình giảng dạy quốc gia cho trường cơ bản và các
tài liệu tương tự đối với giáo dục trung học phổ thông cung cấp hướng dẫn cho các giáo
viên, thì việc lập kế hoạch chương trình giảng dạy là trách nhiệm của nhà trường và
chính quyền. Các chương trình giảng dạy cấp trường được phê duyệt bởi cơ quan giáo
dục địa phương còn các giáo viên và hiệu trưởng các trường đóng một vai trò quan
trọng trong việc thiết kế chương trình giảng dạy. Quá trình đào tạo giáo viên đã cung
cấp cho họ các kiến thức về chương trình giảng dạy tiên tiến và các kỹ năng lập kế
hoạch phát triển.
Cùng với thiết kế chương trình giảng dạy, các giáo viên đóng một vai trò quan
trọng trong việc đánh giá học sinh. Trường học Phần Lan không sử dụng bài kiểm tra
tiêu chuẩn để xác định thành tích của học sinh. Có ba lý do chính cho điều này. Thứ
nhất, trong khi việc đánh giá được căn cứ trên các chương trình giảng dạy quốc gia, thì
chính sách giáo dục ở Phần Lan ưu tiên cho giáo dục cá nhân và sáng tạo. Do đó sự tiến
bộ của từng học sinh trong trường được đánh giá dựa vào tiến độ và khả năng cá nhân
của chúng hơn là dựa trên các chỉ số thống kê. Thứ hai, các nhà phát triển giáo dục nhấn
mạnh rằng chương trình giảng dạy, giảng dạy và học tập nên trở thành quá trình thực
hành của giáo viên trong trường học hơn là việc làm bài kiểm tra. Đánh giá học sinh
trong các trường học của Phần Lan được đưa vào trong quá trình giảng dạy và học tập
và được sử dụng để cải thiện hoạt động của cả giáo viên và học sinh trong suốt năm học.
Thứ ba, việc xác định thành tích học tập của học sinh ở Phần Lan được xem như là một
trách nhiệm của nhà trường, chứ không phải là người đánh giá bên ngoài. Trường học
Phần Lan chấp nhận rằng có thể có một số hạn chế về khả năng so sánh khi giáo viên
làm tất cả việc chấm điểm của học sinh. Đồng thời, Phần Lan tin rằng các vấn đề liên
quan đến kiểm định tiêu chuẩn bên ngoài - việc thu hẹp các chương trình giảng dạy,
giảng dạy để kiểm tra, và cạnh tranh không lành mạnh giữa các trường học - có thể khó
giải quyết hơn. Kể từ khi giáo viên Phần Lan phải thiết kế và tiến hành các đánh giá dựa
trên chương trình giảng dạy thích hợp với sự tiến bộ học sinh, thì việc đánh giá lớp học
và đánh giá dựa trên trường học là những bộ phận quan trọng của giáo dục và phát triển
chuyên môn.
Mặc dù công việc của giáo viên Phần Lan chủ yếu là giảng dạy ở lớp học, nhưng
nhiều nhiệm vụ của họ vẫn nằm bên ngoài lớp học. Về hình thức, thời gian làm việc của
giáo viên ở Phần Lan bao gồm giảng dạy lớp học, chuẩn bị cho lớp học, và hai giờ một
tuần lập kế hoạch học tập với các đồng nghiệp [9]. Từ một quan điểm quốc tế, giáo viên
Phần Lan dành ít thời gian để giảng dạy hơn là giáo viên ở nhiều quốc gia khác [9]. Ví
dụ, một giáo viên trung học điển hình ở Phần Lan dạy chỉ ít hơn 600 giờ mỗi năm,
tương ứng với khoảng bốn giờ học 45 phút một ngày [8]. Trong khi đó tại Hoa Kỳ, một
giáo viên cùng cấp dành 1.080 giờ để giảng dạy hơn 180 ngày học [8]. Điều này có
403
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
nghĩa rằng một giáo viên trường trung học tại Hoa Kỳ, trung bình dành khoảng gấp đôi
thời gian để giảng dạy lớp học so với đồng nghiệp của mình tại Phần Lan.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là giáo viên ở Phần Lan làm việc ít hơn là ở
những nơi khác. Một phần quan trọng trong công việc giáo viên Phần Lan được dành
cho việc cải thiện thực hành lớp học, cải thiện trường học và làm việc với cộng đồng.
Bởi vì giáo viên Phần Lan đảm nhận trách nhiệm quan trọng cho chương trình giảng
dạy và đánh giá, cũng như thử nghiệm và cải tiến phương pháp giảng dạy, nên một số
khía cạnh quan trọng nhất trong công việc của họ được thực hiện bên ngoài lớp học.
3. KẾT LUẬN
Hầu hết các nghiên cứu về kết quả giáo dục xuất sắc của Phần Lan đều nhận ra
rằng đội ngũ giáo viên xuất sắc đóng vai trò rất quan trọng. Những chính sách, hoạt
động tăng cường chất lượng đội ngũ giáo viên của Phần Lan có thể chỉ ra như sau:
Sự phát triển của các chương trình đào tạo giáo viên nghiêm ngặt, dựa trên
nghiên cứu để chuẩn bị cho giáo viên về nội dung, phương pháp sư phạm, và lý thuyết
giáo dục, cũng như khả năng làm nghiên cứu riêng của họ;
Hỗ trợ tài chính đáng kể cho việc đào tạo giáo viên, phát triển chuyên môn, chế
độ tiền lương hợp lý và công bằng, điều kiện làm việc được hỗ trợ;
Tạo ra một nghề được tôn trọng trong đó giáo viên có thẩm quyền và quyền tự
chủ đáng kể, bao gồm cả trách nhiệm cho việc thiết kế chương trình giảng dạy và đánh
giá học sinh và việc tự nâng cao thực hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Aho, E., Pitkänen, K. & Sahlberg, P. (2006). Policy development and reform principles
of basic and secondary education in Finland since 1968, Washington, DC: World Bank.
[2] Hannele NIEMI (2015), Teacher Professional Development in Finland: Towards a
More Holistic Approach, University of Helsinki, Institute of Behavioral Sciences
(Finland).
[3] 3. Jakku-Sihvonen, R. & Niemi, H. (Eds.) (2006), Research-based teacher education in
Finland: Reflections by Finnish teacher educators, Research Report 25. Turku: Finnish
Educational Research Association.
[4] Kumpulainen, T. (Ed.) (2008), Opettajat Suomessa 2008 [Teachers in Finland 2008],
Helsinki: Opetushallitus.
[5] Ministry of Education (2007). Opettajankoulutus 2020 [Teacher education 2020].
Committee Report 2007:44. Helsinki: Ministry of Education.
[6] Ministry of Education (2009). Ensuring professional competence and improving
opportunities for continuing education in education. Committee Report 2009:16.
Helsinki: Ministry of Education.
[7] OAJ (2008), Teacher education in Finland. Helsinki: The trade union of education in
Finland.
[8] OECD (2008). Education at a glance. Education indicators. Paris: OECD.
404
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
[9] Sirkku Kupiainen, Jarkko Hautamaki, Tommi Karjalainen (2009), The Finish education
system and Pisa, Ministry of Education Publications, Finland 2009:46.
[10] Tuula Asunta (2007), Developments in Teacher Education in Finland. In-service
Education and Training, Department of Teacher Education, University of Jyväskylä,
Finland.
[11] Westbury, I., Hansen, S-E., Kansanen, P. & Björkvist, O.(2005). Teacher education for
research-based practice in expanded roles: Finland’s experience. Scandinavian Journal
of Educational Research, 49(5), 475-485.
Title: TEACHING STAFF–THE CRUCIAL FACTOR IN DRASTIC CHANGE OF
FINLAND’S EDUCATION SYSTEM
Abstract: Finland’s education system is one of the most advanced educational systems and
always take the lead in OECD countries in educational achievements. In examining the strong
educational resources of Finland, we can see one key element that has impacted Finland’s
success above all others - that’s the excellent teaching staff. This article focuses on analyzing
the policies of Finland to make the impact of the teaching staff: constructing the teachers’s
prestigious position in Finnish society; building the standards, programs to select input and to
train teachers; constructing the tools, authority and responsibilities that teachers are assigned in
teaching activities.
Keywords: training, teacher, education, Finland.
ThS. HOÀNG LÊ MAI PHƯƠNG
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
ĐT: 0916.859.290, Email: hoanglemaiphuong@gmail.com
405
nguon tai.lieu . vn