Xem mẫu
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
70 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
ĐÔI NÉT VỀ VĂN HÓA KINH DOANH CỦA VIỆT NAM
TRONG LỊCH SỬ
Nguyễn Thế Anh
Học viện Chính trị khu vực IV
TÓM TẮT
Việt Nam vốn là nước có truyền thống nông nghiệp, đa phần dân số làm nghề
nông, với nền kinh tế tự túc tự cấp, trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài, người
nông dân Việt Nam chỉ loanh quanh sau lũy tre làng, bản thân nghề kinh doanh
không được coi trọng trong các xã hội phong kiến Việt Nam.
Mặc dù hoạt động kinh doanh là nghề không được coi trọng và phát triển rất
chậm trong xã hội phong kiến, song không vì thế mà người Việt Nam không có văn
hóa kinh doanh truyền thống. Coi trọng chữ tín, thái độ hòa nhã cũng như sự phê
phán thói gian dối, lừa đảo… là những giá trị biểu hiện văn hóa kinh doanh truyền
thống của dân tộc.
Nếu văn hoá là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội,
thì văn hoá kinh doanh chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh
doanh của một quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, muốn
đảm bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh của quốc gia, hơn lúc
nào hết, chúng ta cần có sự tìm hiểu và nghiên cứu thấu đáo về lĩnh vực này, để có
thể góp phần định hướng đúng đắn cho kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
1. Đặt vấn đề Ở Việt Nam, vấn đề văn hóa kinh doanh
bắt đầu được nghiên cứu từ đầu thập niên
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, các nhà
90 của thế kỷ XX. Các công trình trên đã đi
nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến vai trò của
vào nghiên cứu văn hoá kinh doanh ở nhiều
văn hoá trong kinh doanh. Có nhiều cách hiểu
khía cạnh khác nhau với những nội dung
khác nhau về văn hóa kinh doanh, chủ yếu tập
khác nhau. Tuy nhiên các công trình hầu
trung hai xu hướng: xu hướng thứ nhất, coi như không quan tâm đến văn hóa kinh doanh
chủ thể của văn hóa kinh doanh chính là các truyền thống của người Việt Nam. Có thể, đa
doanh nghiệp, do đó văn hóa kinh doanh là phần các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này
văn hoá doanh nghiệp (corporate culture) hay đều cho rằng, trong lịch sử Việt Nam nghề
còn gọi là văn hóa tổ chức (organizational kinh doanh không được phát triển; vì vậy, văn
culture). Xu hướng thứ hai, đang ngày càng hóa kinh doanh truyền thống Việt Nam không
phổ biến hơn khi coi kinh doanh là hoạt động có gì để bàn.
có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội, Vậy thì, Việt Nam chúng ta có văn hóa
nên văn hóa kinh doanh là một phạm trù ở kinh doanh truyền thống hay không? Truyền
tầm cỡ quốc gia và mang tính lịch sử, còn văn thống của giới doanh nhân Việt Nam đã có
hoá doanh nghiệp chỉ là một thành phần trong tự bao giờ và như thế nào? Tại sao Việt Nam
văn hóa kinh doanh. không có những nhà đại tư sản?
- nguyễn thế anh 71
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định thể duy trì và phát triển công việc kinh doanh.
rằng, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
2.2. Văn hóa kinh doanh
dân tộc Việt Nam, để tồn tại trong dòng chảy
khắc nghiệt của lịch sử, người Việt đã phải Văn hóa gắn liền với sự tồn tại của con
chọn gìn giữ và phát triển văn hóa làng xã để người. Thước đo giá trị nhân bản của con
tự bảo vệ; điều này giúp người Việt không bị người là văn hóa, là những hành động gắn
đồng hóa, không bị thôn tính và điều này có liền với chân, thiện, mỹ. Theo nghĩa đó, một
tác động rất lớn đến sự phát triển của nghề hoạt động của con người được đánh giá là
kinh doanh ở Việt Nam. Để tìm hiểu hoạt có hàm lượng văn hóa cao khi nó gắn bó với
động kinh doanh và văn hóa kinh doanh của những giá trị chân, thiện, mỹ (tất nhiên những
người Việt Nam trong lịch sử, trước hết chúng chuẩn mực của chân, thiện, mỹ có tính chủ
ta cần làm rõ về khái niệm kinh doanh và văn quan, việc xem xét những giá trị đó phải căn
hóa kinh doanh. cứ vào hoàn cảnh cụ thể; song, bao giờ nó
2. Khái niệm văn hóa kinh doanh cũng có những chuẩn mực chung nhất trong
từng xã hội và chuẩn mực mang tính phổ quát
2.1. Khái niệm kinh doanh
đối với toàn nhân loại). Nói cách khác, những
Ngày nay, kinh doanh được hiểu là loại hoạt động nào càng hướng đến cái đúng, cái
hình hoạt động kinh tế đặc thù trong quá trình tốt, cái đẹp đem lại những giá trị tích cực cho
sản xuất, khai thác, chế biến, buôn bán hàng cộng đồng thì hoạt động đó càng biểu hiện rõ
hóa và dịch vụ với chức năng cơ bản là tìm tính nhân bản, tính văn hóa.
kiếm những nhu cầu của xã hội chưa được
đáp ứng và tập hợp những nguồn lực cần Khi nói văn hóa kinh doanh (hay kinh
thiết để đáp ứng các nhu cầu đó. Luật Doanh doanh có văn hoá) là nói đến một vấn đề
nghiệp Việt Nam xác định: “Kinh doanh là cốt lõi, mang tính bản chất của kinh doanh
việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các đó là vấn đề đạo đức của người kinh doanh.
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất Nói cách khác kinh doanh có văn hoá là kinh
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ doanh phải có đạo đức. Đạo đức cầu người
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”1 kinh doanh không phải là vấn đề trừu tượng,
mà rất cụ thể: tính trung thực, giữ chữ tín
Còn trong quan niệm truyền thống, kinh
đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống, không
doanh được hiểu đơn giản là cách làm giàu
chạy theo lợi ích của cá nhân hay nhóm người
của con người trên thương trường, là hành vi
buôn bán để kiếm lợi. Tuy nhiên, dù hiểu khái để làm ăn đối trá, lừa đảo, chụp giật, “đánh
niệm này theo nghĩa truyền thống hay hiện quả” bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả việc loại
đại thì một điều chắc chắn là trong mỗi hoạt trừ đối thủ trên thương trường.
động kinh doanh tối thiểu phải có hai nhân Vì vậy, văn hóa kinh doanh của một xã
vật tham gia là chủ thể kinh doanh và khách hội, về thực chất, là sự phản ánh thực tiễn
hàng - đối tượng của chủ thể kinh doanh đó. hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội đó.
Hai nhân vật này luôn ràng buộc, gắn bó, quy Cho nên, những hoạt động kinh doanh của
định lẫn nhau. Khách hàng cần hàng hóa, dịch người Việt Nam trong xã hội truyền thống ít
vụ của chủ thể kinh doanh để thỏa mãn nhu nhiều vẫn được phản ánh bởi văn hóa kinh
cầu của mình. Còn chủ thể kinh doanh lại cần doanh truyền thống của họ. Theo đó, có thể
khách hàng mua hàng hóa hay dịch vụ của khẳng định, văn hóa kinh doanh Việt Nam đã
mình để có thể thu được lợi nhuận, nhờ đó có được hình thành từ lâu đời và phát triển theo
sự phát triển của xã hội, của thực tiễn hoạt
1
Điều 4, Luật Doanh Nghiệp 2014, số: 68/2014/QH13,
Hà Nội ngày 26/11/2014. động kinh doanh ở Việt Nam.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
72 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3. Văn hóa kinh doanh của Việt Nam văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo giữa nước ta
trong lịch sử với các nước trong khu vực. Tại đây, tư tưởng
3.1. Đôi nét về hoạt động kinh doanh ở Nho giáo và văn hóa Hán – Đường đã được
Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc truyền bá liên tục vào nước ta chủ yếu thông
qua hoạt động của bộ máy thống trị và tầng
Năm 179 TCN, Triệu Đà là Vua nước lớp quan lại. Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu
Nam Việt (một chính quyền cát cứ ở Nam là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hóa
Trung Hoa) đánh bại triều An Dương Vương, Hán ở Việt Nam.3
thống trị Âu Lạc. Từ đó các triều đại phong
kiến Trung Hoa thay nhau cai trị trên đất Các chính quyền phong kiến phương
nước ta. Thời kỳ này thường được gọi là thời Bắc, mặc dù đã cố gắng tìm mọi cách để đồng
Bắc thuộc. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan hoá người Việt, song về căn bản trong suốt
quân Nam Hán xâm lược, xác lập nền độc lập thời Bắc thuộc vẫn không thể nào trực tiếp
tự chủ một cách vững chắc, chấm dứt 1117 với tay tới và can thiệp làm biến đổi được cơ
năm đô hộ của các triều đại phong kiến Trung cấu xóm làng cổ truyền của người Việt. Các
Hoa. Trong hơn 10 thế kỷ (179 TCN – 938) xóm làng dựa trên cơ sở công xã nông thôn
không chỉ có Bắc thuộc mà còn có cả chống vẫn tồn tại như thế giới riêng của người Việt,
Bắc thuộc; có sự tồn tại thường xuyên của là nơi nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa
chính quyền đô hộ và xen vào đó trong một của văn hoá truyền thống làm cơ sở cho cuộc
số thời gian ngắn, có những chính quyền tự đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.
chủ - thành quả của các phong trào đấu tranh 3.2. Đôi nét về hoạt động kinh doanh
giải phóng của dân tộc ta. trong các triều đại phong kiến Việt Nam
Theo các tư liệu lịch sử ghi lại, trong Năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân
thời kỳ Bắc thuộc ở Việt Nam có một vùng Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra thời
đất được coi là trung tâm kinh tế thương mại kỳ phong kiến dân tộc tự chủ ở Việt Nam.
lớn có tính quốc tế, đó là Luy Lâu, Long Biên Trong chế độ phong kiến trung ương tập
thuộc vùng Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc quyền ở nước ta, cơ sở vật chất của xã hội
Ninh. Tuy nhiên, do chính quyền đô hộ độc dựa vào kinh tế nông nghiệp, ruộng đất là
quyền nắm giữ và kiểm soát nên giao thương nguồn tư liệu sản xuất chính, địa tô phong
giữa người Việt Nam và người nước ngoài kiến là nguồn sống, nguồn bóc lột chủ yếu
gặp không ít khó khăn. Hàng Việt Nam bán ra của nhà nước phong kiến. Vì vậy, các triều
nước ngoài thường là các loại lâm thổ sản quý, đại phong kiến khi nắm quyền luôn có chính
đồ mỹ nghệ... Hàng nhập từ nước ngoài vào sách “trọng nông”, “khuyến nông”, tu sửa
Việt Nam thường là thuốc men, đồ sắt2… Thời đê điều, mở mang thủy lợi, phát triển khai
kỳ này, hệ thống thuyền buôn Trung Quốc hoạt hoang. Đặc biệt, theo quan niệm “dĩ nông vi
động mạnh đã nối kết Việt Nam với nhiều quốc bản, dĩ thương vi mạt”, từ đó đi tới tư tưởng
gia Đông Nam Á. Hệ thống giao thông, giao “trọng nông, ức thương”. Trong xã hội, người
thương đã phát triển, nối liền cácđịa phương dân chỉ xác định có bốn nghề: sĩ, nông, công,
trong một huyện, quận và nối thông cả 3 quận
thương; trong đó chỉ có hai nghề sĩ và nông là
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
được xã hội đề cao: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo
Cùng với quá trình giao lưu hội nhập, trao chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Hai nghề còn lại
đổi kinh tế là quá trình tiếp xúc và hội nhập là công và thương thì ít được chú trọng hơn.
2
GS,TS. Nguyễn Trí Dĩnh – PGS,TS. Phạm Thị Quý 3
Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh
(chủ biên). Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb Thống kê, (chủ biên), Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam,
Hà Nội, 2004, tr.263 Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.367
- nguyễn thế anh 73
Đặc biệt, nghề thương vốn không được xã hội thống trị, nuôi dưỡng và củng cố nền thống trị
coi trọng và thường có định kiến, thậm chí của nhà nước phong kiến. Phạm vi hoạt động
miệt thị: “buôn gian, bán lận”, “thật thà cũng của nó cũng chỉ quanh quẩn ở các nước láng
thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ giềng như Trung Quốc, Ja-va, Xiêm La,…
chồng”. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, xã hội
Thái độ của xã hội đối với bốn nghề trên phong kiến Việt Nam có những tiến bộ về thủ
được thể hiện trong một bức tranh di cảo tìm công nghiệp và thương mại. Thời gian này
được ở Bắc Ninh. Bức tranh vẽ bốn người thể những làng, phường thủ công nghiệp, như gốm
hiện cho bốn nghề khác nhau trong xã hội: Bát Tràng (Hà Nội), dệt Thổ Hà (Bắc Giang),
nghề sĩ được thể hiện qua hình vẽ một ông dệt Phú Xuân (Thừa Thiên)... đã được mở ra.
thầy đồ mặt mũi quắc thước, râu dài đang trầm Trong các phường thủ công nghiệp đã diễn ra
ngâm viết chữ nho; thể hiện cho nghề nông là sự phân hóa chủ thợ (ở Phú Xuân đã có những
một nam nông dân khỏe mạnh, đĩnh đạc; thể xưởng dệt thuê 13 thợ). Những hình thức bao
hiện cho nghề công là một phụ nữ gầy gò ốm mua sản phẩm, thuê mướn nhân công đã xuất
yếu, mặt nhăn nhúm, tay đang in từng tờ tiền hiện, đánh dấu những mầm mống manh nha
vàng mã. Nghề thương được thể hiện bằng của chủ nghĩa tư bản.
hình ảnh một người đàn ông có nét mặt tinh Cũng trong thời gian này, một số thành thị
quái đang ấn chiếc chạc trâu vào tay người phong kiến đã trở nên phồn thịnh, như Thăng
nông dân. Chiếc chạc đó nối với con trâu đực Long, Phố Hiến, Hội An,... nhiều người nước
gầy gò, sừng doãng (trâu sừng doãng là loại ngoài đã đến đây sinh sống làm cho các hoạt
trâu ương bướng, khó bảo, không chịu cày động buôn bán trao đổi trở nên khá sầm uất.
bừa nên chỉ nuôi để lấy thịt) – ý ám chỉ người Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các
buôn trâu lừa người mua – “buôn gian, bán quốc gia phương Tây, như Bồ Đào Nha, Tây
lận”4. Bức di cảo trên thể hiện rất rõ sự kỳ thị Ban Nha, Hà Lan,... đã tạo ra những điều kiện
đối với nghề kinh doanh, đồng thời cũng là thuận lợi cho việc thúc đẩy sản xuất, canh tân
một bằng chứng cho thấy vì sao trong lịch sử đất nước. Tuy nhiên, đến thế kỷ XIX, nhà
người Việt Nam không khuyến khích đi vào Nguyễn đã thực hiện những chính sách kìm
hoạt động kinh doanh, vì sao nghề kinh doanh hãm giao lưu kinh tế, thi hành chính sách
ở Việt Nam chậm phát triển. thuế khóa nặng nề. Thậm chí, vì sợ nông dân
Trong khoảng 5 thế kỷ (từ thế kỉ XI – tụ tập khởi nghĩa, Nhà nước phong kiến thời
XVI), nền kinh tế hàng hóa Việt Nam đã ra Minh Mạng còn ra chính sách cấm họp chợ.
đời và phát triển không ngừng có tác dụng Vì vậy, thương nghiệp và thủ công nghiệp rơi
phần nào trong việc thúc đẩy sức sản xuất vào khủng hoảng, bế tắc và không có cơ hội
phát triển; tuy vậy nó vẫn ở vào địa vị phụ để phát triển.
thuộc trong toàn bộ nền sản xuất lúc bấy Như vậy, trong xã hội phong kiến Việt
giờ, mang nặng tính chất tự nhiên, tự cung Nam, từ quốc sách của Nhà nước cho đến
tự cấp, tức là vẫn mang tính chất của một tâm lý người dân đã càng làm cho yếu tố
nền kinh tế hàng hóa giản đơn. Kinh tế hàng “trọng nông ức thương” trở nên sâu đậm
hóa hoàn toàn nằm trong phạm vi ảnh hưởng và cản trở việc hình thành kinh doanh trở
của những quan hệ sản xuất phong kiến. Nền thành một ngành độc lập, không phụ thuộc
công thương nghiệp Việt Nam hoạt động hầu vào nông nghiệp. Các ngành sản xuất công
như chỉ để phục cho nhu cầu của giai cấp nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển
hơn thời kỳ trước. Sự thành công bước đầu
4
PGS,TS. Nguyễn Bá Dương và TS. Đức Uy (chủ
biên), Giáo trình Tâm lý học kinh doanh, Viện Đại học của một số nhà kinh doanh người Việt, cùng
Mở, Hà Nội, 2007, tr.130. với việc tiếp thu những tư tưởng mới, đã cải
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
74 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
thiện đáng kể hình ảnh doanh nhân và nghề - Không biết tiết kiệm, người Việt Nam
kinh doanh trong con mắt người Việt. Thời kỳ tuy nghèo nhưng không biết tận dụng những
này đã xuất hiện một tầng lớp tư sản dân tộc, thứ mình có, thường hoang phí;
giành lại được độc quyền thương mại từ tay - Khinh nội hoá với tâm lý chung là sính
tư sản nước ngoài và bắt đầu gây dựng lòng hàng ngoại.
tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương mại
và ngoại thương đều phát triển nhanh chóng. Trong khi đó, gia đình đại doanh nhân
Thậm chí, theo học giả Đào Duy Anh, ngay Trịnh Văn Bô luôn có câu dặn dò con cháu
từ những năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam, của mình là: “kiếm được một đồng, các con
dưới tên là xứ Đông Pháp, đã đứng thứ hai thế hãy giữ lại 7 hào cho gia đình và 3 hào để làm
giới về xuất khẩu gạo, chỉ sau Myanma. từ thiện”5. Đây có thể nói là bằng chứng của
việc doanh nhân Việt thể hiện trách nhiệm xã
Cũng vào thời kì này ta có những doanh hội của mình đầu thế kỷ 20.
nhân lớn, làm được nhiều điều cho gia đình,
đất nước và xã hội như Lương Văn Can, Bạch Như vậy, trong văn hóa kinh doanh cổ
Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trương Văn Bền truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù hợp
(trong đó đặc biệt quan trọng là vai trò của cụ với kinh doanh có phần ít hơn những yếu tố
Lương Văn Can trong việc cổ xúy người Việt tiêu cực. Nhận diện chính xác những yếu tố
làm giàu, trau dồi kiến thức và kinh doanh). này sẽ giúp chúng ta lý giải được phần nào
những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam
Lương Văn Can, một nhà cách mạng, trong những giai đoạn tiếp sau.
đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới
doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, 4. Nhận diện văn hóa kinh doanh
khi phân tích nguyên nhân không phát triển truyền thống Việt Nam
của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt Nhìn chung, mặc dù xã hội phong kiến
Nam nói chung, đã đưa ra 10 điểm, đó là: không coi trọng hoạt động kinh doanh buôn
- Người mình không có thương phẩm, tức bán, nhưng để duy trì cuộc sống hàng ngày
là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín; thì hoạt động mua bán, kinh doanh nhỏ lẻ,
manh mún của người dân vẫn diễn ra. Vì vậy,
- Không có thương hội, tức là không biết chúng ta chỉ có thể nhận diện được văn hóa
liên kết với nhau trong kinh doanh; kinh doanh của thời kỳ này qua những hoạt
- Không có tín thực, tức là không biết giữ động mua bán ở chợ làng trên khắp các miền
chữ tín; quê, bởi mọi giao dịch mua bán, trao đổi của
- Không có kiên tâm, ít theo đuổi một người dân đều tiến hành ở chợ.
việc gì đến cùng; Chợ Việt Nam có lẽ được hình thành từ
- Không có nghị lực, dễ làm khó bỏ; thời lập quốc. Trong tâm thức người dân Việt,
chợ Việt Nam không chỉ là nơi trao đổi hàng
- Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng hóa, sản phẩm trong cộng đồng và giữa các
vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng cộng đồng người Việt với nhau mà chợ còn
cao các nghề khác; song hành với tiền trình của lịch sử dân tộc;
- Không có thương học, tức là không có mang đậm dấu ấn văn hóa đặc sắc... Chỉ cần
kiến thức về kinh doanh; nhìn vào chợ quê, người ta cũng có thể thấy
đời sống kinh tế của người dân trong làng.
- Kém đường giao thiệp, do xã hội Việt
Nam luôn đóng cửa với thế giới bên ngoài
nên hễ ra ngoài là dễ bị lạc lõng, không hoà
5
Tọa đàm: Vai trò gia đình doanh nhân VN trong phát
triển kinh tế và hội nhập vào ngày 10/9/2013 tại Văn
nhập được; Phòng VCCI Hà Nội.
- nguyễn thế anh 75
Chợ làng chính là mô hình thu nhỏ của nền của cả người bán lẫn người mua. Người bán
kinh tế tự cung tự cấp. Người bán hàng và luôn muốn tạo dựng mối quan hệ với những
khách hàng đều là dân trong một làng hoặc từ người khách hàng quen thuộc, bởi “quen mặt
các làng xung quanh. Hàng hóa bán ở chợ hầu đắt hàng”.
hết là những sản phẩm “cây nhà, lá vườn”. Người buôn bán cũng phải biết giữ đạo
Chợ cũng là nơi lưu giữ tổng thể những đức trong kinh doanh. Việc làm ăn theo kiểu
nét văn hóa cũng như tục lệ của người dân “ăn xổi ở thì”, “treo đầu dê bán thịt chó”, “bán
Việt. Bên cạnh việc trao đổi mua bán thông mướp đắng giả làm bầu”, “bán mạt cưa giả
thường, chợ xưa còn là nơi giao lưu tình cảm làm cám” là những hành vi dối trá bị cả xã hội
anh em, bạn bè, là nơi trao đổi thông tin về tẩy chay, lên án.
tình hình gia đình, chòm xóm. Vì vậy, chợ
Từ xa xưa, người Việt đã biết tìm hiểu
chính là một nét văn hóa kinh doanh truyền
tâm lý của người bán hàng và người mua
thống - “văn hóa kẻ chợ”;và đã sinh ra câu
hàng: “bán hàng nói thách, làm khách trả
thành ngữ “thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì kẻ chợ”
rẻ”. Người buôn bán cũng nhận thức rõ việc
để vạch một nét chuẩn cấp độ trong phép so
cần phải có nét mặt tươi tắn, lời nói nhỏ
sánh. Nhưng lịch sử của phố thì có sau lịch
nhẹ, hòa nhã, khéo léo thì mới có thể thu hút
sử của chợ, bởi chợ là “người mẹ” của phố,
được khách mua hàng. Vì vậy, người ta vẫn
người mẹ ấy ra đời từ quê. Văn hóa chợ quê
truyền nhau những câu như: “bán hàng chiều
có từ trước công nguyên, khi loài người có
khách”, “bán rao chào khách”, bởi lời nói rất
nhu cầu trao đổi hàng hóa.
quan trọng đối với người mua hàng - “lời nói
Chợ còn là nơi thể hiện rất rõ đặc điểm quan tiền, thúng thóc”.
tâm lý tiêu dùng của người Việt truyền thống:
Một nét văn hóa quan trọng khác là buôn
do ít có điều kiện ra khỏi lũy tre làng, người
bán nhưng phải biết tiết kiệm, từ ngày xưa
Việt có thói quen mua bán nhỏ, thích mua bán
ông bà ta đã dạy: “buôn tàu, bán bè không
tại chợ, “tiện đâu mua đấy”. Người dân trong
bằng ăn dè hà tiện”. “Hà tiện mới giàu, cơ
làng chỉ tin cậy những gì quen thuộc, e ngại
cầu mới có”, “năng nhặt chặt bị”… nghĩa là
những điều xa lạ; do hiểu biết về hàng hóa còn
phải tiết kiệm, phải biết dùng số vốn đã tích
hạn chế, nên người Việt Nam truyền thống có
lũy được đầu tư cho công ăn việc làm để sinh
tâm lý “ăn chắc, mặc bền”.
thêm đồng lời nữa. Bởi vì, “tiền trong nhà
Khi tìm hiểu một số câu tục ngữ, ca dao tiền chửa, tiền ra cửa tiền đẻ” còn nếu không
nói về công việc buôn bán của người Việt, thì cũng chỉ là “tiền dư thóc mục”.
chúng ta cũng có thể nhận diện được một số
Trong hoạt động sản xuất, nhiều làng nghề
nét văn hóa kinh doanh của người Việt Nam
thủ công của Việt Nam cũng có những quy
trong xã hội truyền thống. Mặc cho xã hội kỳ
định nghiêm ngặt về đạo đức nghề nghiệp, về
thị, bản thân những người làm nghề buôn bán
chữ tín đối với khách hàng – đó cũng là một
đã tự xây dựng những chuẩn mực cho nghề
nét văn hóa kinh doanh truyền thống.
của mình. Buôn bán thì phải có lãi, nhưng họ
cũng bảo nhau “ăn lãi tùy chốn, bán vốn tùy Khó có thể nói nhiều về văn hóa kinh
nơi” để còn giữ mối khách làm ăn lâu dài. doanh truyền thống khi bản thân nghề kinh
Hoặc “trong vốn thì nài, ngoài vốn thì buôn” doanh không được coi trọng và phát triển
làm sao để vừa thu được lợi nhuận, vừa không rất chậm trong xã hội phong kiến Việt Nam.
làm mất khách. Câu “thuận mua vừa bán” trở Tuy nhiên, không vì thế mà người Việt Nam
thành kết quả lý tưởng và là tiêu chí cho mọi không có văn hóa kinh doanh truyền thống.
cuộc giao dịch mua bán. Điều này sẽ đảm bảo Trên thực tế, những nét văn hóa truyền thống
cho sự cân bằng lợi ích dẫn đến sự hài lòng của dân tộc, như trọng chữ tín, yêu chuộng sự
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
76 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
chân thật, thái độ hòa nhã, sự mềm dẻo, linh đời với công ty của mình. Còn người Hàn
hoạt... đã được người Việt xưa vận dụng trong Quốc thì làm việc rất chăm chỉ và có một ý
các hoạt động kinh doanh thể hiện qua các chí quyết tâm cao cho công việc, họ được
câu tục ngữ nói về nghề kinh doanh. Thêm mệnh danh là “những người Đức của châu
nữa, chính thái độ kỳ thị nghề kinh doanh, sự Á”. Những người Hoa ở hải ngoại thì tạo nên
bài xích những kẻ lừa đảo, làm ăn gian dối,... một mạng lưới về kinh tế, văn hoá theo gia
cũng là sự biểu hiện của văn hóa kinh doanh tộc và đồng hương mà từ đó tạo nên sức mạnh
của dân tộc. Sự phản ứng đối những hành vi của cộng đồng trên đất khách quê người. Ở
lừa đảo, gian dối trong kinh doanh chính là phuơng tây, họ rất thực dụng, còn những ông
sự cảnh báo, sự trừng phạt của xã hội buộc chủ người Anh nổi tiếng với phong cách quý
những người làm kinh doanh phải điều chỉnh tộc, phớt AngLe.
những hành vi của mình nếu muốn được xã Vì vậy, muốn có một nền kinh tế phát
hội chấp nhận. triển bền vững thì Việt Nam nên tìm ra đâu
5. Thay lời kết là điểm mạnh của mình, đâu là nhược điểm
cần tránh trong giao thương quốc tế, để tạo
Trong số các quốc gia cùng chịu ảnh
nên một bản sắc riêng của giới doanh nhân
hưởng của học vấn Nho giáo: Trung Quốc,
Việt Nam. Chúng ta cần phải biết phát huy
Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Đài Loan,
những lợi thế của bản thân, của dân tộc, xem
Singapore... thì nước ta là kém phát triển
trong kho tàng văn hoá dân tộc, trong tục ngữ,
nhất, điều đó do nhiều nguyên nhân nhưng
ca dao có những điểm nào là tốt đẹp, hay ho,
chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục được
những gì là truyền thống của dân tộc, đâu là
bằng chính những gì chúng ta đang có, đó là
tính cách nổi bật của người Việt Nam ta, để
sự thông minh, cần cù, khéo léo của người
đem áp dụng vào kinh doanh và cuộc sống.
Việt.
Chúng ta cần học hỏi ở những vị doanh nhân
Ở từng quốc gia phát triển về kinh tế, đều tiền bối của dân tộc như: Bạch Thái Bưởi,
có một nền văn hoá kinh doanh riêng. Như Nguyễn Sơn Hà, Lương Văn Can, Đặng Lê
ở Nhật Bản, từ ông chủ đến nhân viên đều Nguyên Vũ... để xây dựng một nền văn hóa
cần cù, nghiêm túc trong công việc, những kinh doanh mang bản sắc Việt Nam trong thời
công nhân Nhật có truyền thống gắn bó suốt kỳ hội nhập quốc tế hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh: Văn hóa kinh doanh của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
2. Nguyễn Hoàng Ánh: Văn hóa kinh doanh Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập, Tạp chí Hoạt động
Khoa học số 550, tháng 03/2005.
3. Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng: Kinh tế Việt Nam thăng trầm và đột phá, Nxb Tri Thức, Hà Nội,
2010.
4. Đỗ Minh Cương: Văn hóa kinh doanh và Triết lý kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Vương Quân Hoàng: Văn minh làm giàu và nguồn gốc của cải, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
6. Nguyễn Thị Ngọc Oanh: Tìm hiểu hoạt động kinh doanh và văn hóa kinh doanh cổ truyền của người Việt
Nam, Tạp chí Triết học, số 03/2010.
7. Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hân: Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2001.
nguon tai.lieu . vn