- Trang Chủ
- Bảo hiểm
- Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Phần 2 - TS. Nguyễn Thị Minh
Xem mẫu
- Chương 4:
Sự ra ĐỜI, PHÁT TrIểN BHYT ở VIỆT NaM
1. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân những
năm đầu đổi mới
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. đại hội vi đã đánh giá, phân tích chỉ
rõ nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội từ nhiều
năm trước, đề ra các định hướng lớn đưa đất nước vượt khó khăn,
thách thức.
để ổn định tình hình và đưa cách mạng nước ta tiếp tục đi
lên. nghị quyết đại hội xác định “đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh
vực”, “trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế”, giữ
vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới. Phải đổi mới tư duy, “trước hết là tư duy kinh
tế”, “từ đổi mới tư duy mà có chủ trương chính sách mới”, đồng
thời “đổi mới về tổ chức, về cán bộ” để thực hiện tốt những nhiệm
vụ đã đề ra.
Tình hình kinh tế sau vài năm đầu đổi mới gặp vô vàn khó
khăn. Từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách đổi mới
bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân
145
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
dân dần dần được cải thiện, lòng tin của nhân dân vào công cuộc
đổi mới tăng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực. Lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào,
dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu,
trốn thuế, xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và công
dân... Xu hướng chạy theo buôn bán nhiều hơn sản xuất, thương
mại hóa tràn lan, xâm nhập vào cả các cơ quan văn hóa, y tế, giáo
dục...; kỷ luật, kỷ cương và pháp luật không nghiêm, bất công xã
hội tăng lên.
việc thực hiện chính sách xã hội tuy có một số tiến bộ nhưng
chưa được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều
thiếu sót. đời sống của một bộ phận nhân dân so với 05 năm trước
ổn định hơn, có được cải thiện nhưng nhìn chung còn khó khăn,
vẫn có khoảng trên dưới 10% hộ nông dân còn thường xuyên khó
khăn, túng thiếu. Ở những vùng hay bị thiên tai, một số vùng núi
và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, ở những nơi có nhiều gia
đình thuộc diện chính sách, các gia đình neo đơn thì tỷ lệ trên còn
cao hơn. một bộ phận không nhỏ nhân dân ta còn sống dưới nhu
cầu tối thiểu. khó khăn gay gắt và mức sống bị giảm sút nhiều
nhất là ở những đối tượng mà nguồn thu nhập chính dựa vào tiền
lương và trợ cấp xã hội.
Trong tình hình đổi mới, chống quan liêu bao cấp, đẩy mạnh
cơ chế thị trường, ngành y tế nói chung và bệnh viện nói riêng gặp
nhiều khó khăn, bất cập do cơ chế cũ cần xóa bỏ và cơ chế mới
chưa hình thành, các cơ sở khám, chữa bệnh (kCB) lâm vào tình
trạng khó khăn trầm trọng về kinh phí duy trì hoạt động, không có
146
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
điều kiện để củng cố và phát triển. Tâm lý người bệnh cũng dần
thay đổi và trở nên thực dụng hơn, đòi hỏi chăm sóc y tế thiết thực,
nhanh chóng và có hiệu quả, để có nhiều thời gian đầu tư cho hoạt
động kinh tế. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu có một số tiến
bộ nhưng còn nhiều vấn đề phải giải quyết. đa số các bệnh viện
từ Trung ương đến tỉnh, huyện xuống cấp nhiều. Bệnh sốt rét phát
triển ở một số huyện, xã miền núi. kinh phí của nhà nước không
đủ cho nhu cầu của y tế, nhưng chưa có những hình thức và biện
pháp thích hợp để giải quyết. vệ sinh môi trường như cung cấp
nước sạch, giải quyết chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường
sống là những vấn đề tồn tại lớn.
Trong khi đó, chi phí khám, chữa bệnh ngày một tăng do áp
dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật y tế, các trang thiết bị máy
móc hiện đại đắt tiền sử dụng trong chẩn đoán, điều trị. việc sử
dụng các biệt dược, thuốc men đắt tiền, đa dạng trong điều trị cũng
là một trong các nhân tố làm tăng nhanh chi phí khám, chữa bệnh.
Các cơ sở khám, chữa bệnh ở nước ta đứng trước những khó khăn
rất lớn do nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng, trong khi đó
khả năng tài chính nhà nước cấp cho ngành y tế tăng không kịp
với tình hình trượt giá và lạm phát. ngân sách nhà nước dành cho
y tế chỉ đủ để trả lươg duy trì và vận hành bộ máy hoạt động của
các cơ sở y tế. Các cơ sở y tế tiếp tục xuống cấp, đời sống cán bộ,
nhân viên y tế gặp nhiều khó khăn.
do thiếu kinh phí cho hoạt động y tế, nhà nước phải giảm
phát triển sự nghiệp y tế, giường bệnh không tăng, nhu cầu kCB
nhiều mặt bị cắt giảm, kìm hãm sự phát triển y học: các dịch vụ y
tế giảm nhanh dẫn đến tình trạng bệnh nhân tự chi trả dịch vụ
147
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
kCB, nảy sinh nhiều tiêu cực trong y tế và nhân dân; lãng phí lao
động xã hội; y tế ở nông thôn chưa được chăm sóc tốt; các tuyến
y tế bị phá vỡ, người bệnh “tràn” lên tuyến trên, làm cho y tế các
tuyến hoạt động kém hiệu quả, luôn thụ động đối phó với yêu cầu
trước mắt. Cũng một phần do thiếu kinh phí nên y học chuyên sâu
phát triển chậm, chưa phục vụ đắc lực cho nhu cầu phòng bệnh,
chữa bệnh cho nhân dân. Tình hình sức khỏe, bệnh tật của nhân
dân có nhiều vấn đề đáng lo ngại. những tiêu cực trong y tế làm
xói mòn lương tâm và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ y tế.
Có không ít nơi người bệnh bị phân biệt đối xử, tạo ra những bất
công xã hội, làm cho người dân ngày càng giảm lòng tin đối với
cơ sở kCB.
Theo thống kê 05 năm 1986-1990, nhu cầu khám, chữa bệnh
của một cán bộ công nhân viên tại chức bình quân là 2,5 lần/năm,
của người nghỉ hưu, mất sức là 16 lần/năm, chí phí kCB bình quân
cho một người/năm lúc đó khoảng 50.000đ. Trong khi đó ngân
sách nhà nước cấp cho ngành y tế hàng năm có hạn. Từ 1991, mặc
dù đầu tư của ngân sách nhà nước tăng nhanh (từ 130 tỷ đồng năm
1991 đến 650 tỷ đồng năm 1992) nhưng so với nhu cầu chi phí
thực tế của ngành y tế cũng mới chỉ đáp ứng được từ 50 - 54%,
do vậy ngân sách y tế bị thiếu hụt rất lớn.
Thực hiện chủ trương đổi mới trên lĩnh vực y tế với phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” theo tinh thần nghị
quyết đại hội vi của đảng. để bổ sung nguồn kinh phí và giảm
bớt sức ép căng thẳng của các cơ sở khám, chữa bệnh, ngày
24/04/1989, hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành
Quyết định số 45/HĐBT cho phép các cơ sở khám, chữa bệnh thu
148
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
một phần viện phí. ngày 15/06/1989, liên Bộ y tế - Tài chính ban
hành Thông tư số 14 hướng dẫn thực hiện Quyết định số
45/hđBT nêu rõ: “Ở những nơi có điều kiện, có thể áp dụng thử
chế độ bảo hiểm sức khỏe hoặc ký hợp đồng khám, chữa bệnh với
các tổ chức y tế trong quốc doanh và ngoài quốc doanh, lập các
quỹ bảo trợ y tế địa phương hoặc y tế cơ sở giúp đỡ người bệnh
không có khả năng trả một phần viện phí”. đó là những dấu hiệu
quan trọng ban đầu của quá trình đổi mới, tìm tòi một giải pháp
phù hợp đòi hỏi của thực tiễn công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân.
do nhiều năm được nhà nước bao cấp, nên ngành y tế lúng
túng trước cơ chế thu một phần viện phí. Biểu hiện rõ nhất là công
suất giường bệnh các tuyến đều thấp. vào thời điểm này, có địa
phương công suất giường bệnh tuyến huyện chỉ đạt 30%, ở tuyến
thành phố đạt 50 - 60% kế hoạch năm.
đánh giá về tình hình công tác bảo vệ sức khỏe những năm
đầu đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII ngày 14/01/1993 đã chỉ rõ về những
vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân
dân: “... Những năm gần đây, Ngành Y tế có nhiều biểu hiện xuống
cấp, có mặt khá nghiêm trọng. Công tác vệ sinh phòng bệnh kém,
chưa quan tâm đầy đủ các hoạt động mang tính quần chúng. Y tế
cơ sở suy yếu. Nhiều bệnh viện xuống cấp cả về cơ sở vật chất, tổ
chức quản lý, điều trị và tinh thần phục vụ.
Một số chủ trương như thu viện phí, cho các cơ sở y tế nhà
nước KCB ngoài giờ... tuy có giải quyết được một phần khó khăn,
nhưng lại làm nảy sinh những vấn đề mới, những tiêu cực, việc
149
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
thu viện phí còn tùy tiện, gây nhiều khó khăn, phiền hà cho nhân
dân, nhất là cho những bệnh nhân nghèo. Các cơ sở y tế tư nhân
phát triển nhanh, giúp cho nhân dân KCB thuận lợi hơn, nhưng
quản lý không chặt chẽ nên cũng gây ra những ảnh hưởng xấu
đến việc chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Những biểu hiện tiêu cực trên đây đã làm tổn hại đến đạo
lý, uy tín của Ngành Y tế và đạo đức của người thầy thuốc dưới
chế độ ta, gây bất bình trong nhân dân”.
những nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trong
công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân được Ban Chấp hành Trung
ương nêu ra là: “Ngành Y tế chậm đổi mới. Công tác quản lý
còn nhiều yếu kém, ít quan tâm đến các giải pháp xã hội như
giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe, tuyên truyền vệ sinh phòng
bệnh. Chưa động viên tốt các tiềm năng của cộng đồng, của nền
y học cổ truyền dân tộc; chưa có các biện pháp hữu hiệu để
ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực. Các cấp bộ đảng và chính
quyền còn xem nhẹ việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác chăm sóc
sức khỏe. Cơ cấu các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội chưa
chú trọng tổ chức và vận động nhân dân tham gia các phong
trào vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khỏe.
Đầu tư của Nhà nước còn hạn chế. Không kịp thời có chính sách
hỗ trợ cho y tế cơ sở ở nông thôn khi thực hiện cơ chế khoán
mới trong nông nghiệp. Tâm lý ỷ lại, hậu quả của nhiều năm
thực hiện các chính sách bao cấp còn khá phổ biến. Kinh tế phát
triển chậm, dân số tăng nhanh, hậu quả chiến tranh và thiên tai
nặng nề, là những khó khăn đối với sự nghiệp chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân”.
150
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
Thực hiện Quyết định 45 của hội đồng Bộ trưởng, các
bệnh viện khắc phục được một phần nào khó khăn. nhưng thực
tế giải pháp thu một phần viện phí chỉ đáp ứng được một phần
nhu cầu khám, chữa bệnh của một số đối tượng, chủ yếu là
những người có thu nhập khá. Còn đại bộ phận những người có
thu nhập thấp không được bao cấp như trước, khi ốm đau không
có điều kiện tài chính để được khám, chữa bệnh, đặc biệt đối
với những trường hợp bệnh nặng chi phí cao. người có công với
cách mạng, người hưu trí mất sức, người thu nhập thấp, người
nghèo là các đối tượng gặp nhiều khó khăn nếu chẳng may ốm
đau, bệnh tật.
Làm gì và làm như thế nào để thực hiện chủ trương nhà
nước và nhân dân cùng làm trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ
nhân dân là câu hỏi lớn đặt ra trong thời điểm lúc đó. yêu cầu
của thực tiễn đã tới lúc đòi hỏi phải đổi mới tư duy, nhanh chóng
cần có cơ chế chính sách mới cho tất cả các bệnh viện trong cả
nước. Qua kinh nghiệm của thế giới, rất ít nước để cho một
người phải gánh chịu mọi chi phí về khám, chữa bệnh, nhất là
những lúc ốm đau (trừ những người có khả năng muốn chữa
bệnh theo yêu cầu) mà thường là nhiều người góp tiền để giúp
01 người qua hình thức BhyT, coi đó là nghĩa vụ của mọi người
với đồng loại và rồi đến lúc mình ốm lại được mọi người giúp
đỡ. Cùng một nguyên lý như vậy, không một nhà nước nào lại
bao cấp toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh, làm như vậy sẽ dẫn
đến trì trệ, xuống cấp, gây ra tình trạng ỷ lại. Các nước có nền
kinh tế phát triển, phần nhà nước đầu tư cho y tế không quá
60%, còn 40% là qua BhyT.
151
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
Xuất phát từ ý nghĩ như vậy, một số cấp ủy, chính quyền và
y tế địa phương đã mạnh dạn tìm cách tháo gỡ khó khăn để duy trì
hoạt động của bệnh viện địa phương bằng cách vận động, quyên
góp trong nhân dân dưới nhiều hình thức để có thêm nguồn tài
chính cho y tế phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh cho dân và hướng
tới tổ chức BhyT. đặc biệt là ở các nơi dân cư còn nghèo đã xuất
hiện giải pháp này sớm nhất như huyện sông Thao (vĩnh Phú),
krôngBông (đắc Lắc), Cầu ngang (Trà vinh)...
năm 1987, nhằm quán triệt nghị quyết đại hội đảng lần thứ
vi, nghiên cứu đường lối đổi mới của đảng, vụ y tế - Ban khoa
giáo Trung ương đã nghiên cứu từ thực tiễn phong trào “Nhà nước
và nhân dân cùng làm” và giới thiệu đề án thí điểm bảo hiểm sức
khỏe do Bs.Trần khắc Lộng, Phó vụ trưởng vụ y tế chủ trì. Tạp
chí Thông tin khoa giáo số tháng 4/1987 của Ban khoa giáo Trung
ương đã công bố bài viết của Bs.Trần khắc Lộng nêu vấn đề phải
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong y tế, thực hiện phương châm
nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động tiềm năng của xã hội,
tiến tới bảo hiểm sức khỏe nhân dân… được lãnh đạo Ban khoa
giáo cho phép bàn với Bộ y tế xin phép hội đồng bộ trưởng triển
khai tổ chức thí điểm ở một số vùng miền để tổng kết, rút kinh
nghiệm tiến tới tổ chức chính sách BhyT ở việt nam.
Theo đề nghị của Bộ Trưởng Bộ y tế, ngày 26/10/1990, hội
đồng Bộ trưởng ra Thông tri số 3504/KG chỉ đạo uBnd các tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương, Bộ y tế tổ chức thí
điểm BhyT và yêu cầu chỉ đạo chặt chẽ, từ đó tổng kết đúc rút
kinh nghiệm để tổ chức BhyT phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
nước ta.
152
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
2. Vĩnh Phú xây dựng Quỹ khám, chữa bệnh nhân đạo
tự nguyện ở Bệnh viện huyện Sông Thao
Bệnh viện huyện sông Thao vĩnh Phú là huyện khởi xướng
thành lập Quỹ bảo hiểm khám chữa bệnh nhân đạo có sự chỉ đạo của
giám đốc sở y tế vĩnh Phú. Công việc đã triển khai và đi vào hoạt
động được một thời gian thì chủ trương thí điểm BhyT được công
bố. Tháng 05/1989, theo đề nghị của Bộ y tế, sở y tế vĩnh Phú (sau
này chia tách thành Phú Thọ và vĩnh Phúc) và Thường vụ huyện ủy
sông Thao đã bàn bạc và thống nhất chỉ đạo tổ chức thí điểm Bảo
hiểm y tế theo đề án hướng dẫn chung .. Là công việc hoàn toàn mới
nên huyện uỷ sông Thao cùng với lãnh đạo sở y tế dưới sự chỉ đạo
của Tỉnh ủy và uBnd tỉnh đã nghiên cứu tham khảo tài liệu về
BhyT, các định hướng của Trung ương, cùng với hoàn cảnh thực
tiễn của địa phương để xây dựng dự án và quy chế hoạt động.
sông Thao là một huyện vùng rừng núi, chiêm trũng, cách
biệt với tỉnh bởi con sông hồng, đi lại hết sức khó khăn. khi đó,
huyện có 41 xã, dân số 27 nghìn người. Trong đó có 17 xã có đồng
bào công giáo. đời sống nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Thu
nhập bình quân đầu người không nổi 200 kg thóc/năm. kinh phí
định mức theo giường bệnh thấp, trả lương cho CBCnv y tế đã
khó khăn, nhưng tiền phụ cấp, tiền trực cho cán bộ, nhân viên còn
khó khăn hơn. Làm thế nào để nâng được định mức giường bệnh
lên và làm thế nào để chăm sóc tốt hơn sức khỏe cho người bệnh,
đặc biệt với những người nghèo là những suy nghĩ trăn trở của
Ban lãnh đạo Trung tâm y tế sông Thao.
ngày 22/08/1989, huyện ủy sông Thao ban hành Nghị
quyết số 56/NQ-HU thành lập Ban vận động xây dựng Quỹ bảo
153
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
hiểm khám, chữa bệnh nhân đạo, do đồng chí nguyễn văn Lịch,
Phó Bí thư Thường trực huyện ủy làm Trưởng ban, đồng chí Phó
Chủ tịch phụ trách khối vhXh làm Phó Trưởng ban và bác sỹ Tô
hạ, giám đốc TTyT huyện sông Thao làm Phó Trưởng ban
Thường trực, cùng với một số thành viên đại diện các ngành hữu
quan như công đoàn, nông dân, phụ nữ, thanh niên, thông tin văn
hóa, tài chính...
Bước đầu huyện sông Thao làm điểm tại 03 xã Tuy Lộc,
Phương Xá, sai ngạ. đó là 03 xã đông dân, điều kiện kinh tế có
khá hơn, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền xã
chặt chẽ và thống nhất cao. Cách vận động là phân tích cho nông
dân rõ kinh phí của nhà nước dùng cho y tế còn nhiều khó khăn.
Cho nên phải huy động thêm sức dân để chăm lo sức khỏe cho
mình và cho cộng đồng. mức đóng góp tỷ lệ thuận với mức được
hưởng, quy định cụ thể cho các mức khác nhau. Tất cả những
nội dung đó đều được đưa xuống tận thôn, xóm để người dân họp
thảo luận, đề đạt ý kiến, nguyện vọng, thống nhất thực hiện. sau
một tuần tuyên truyền vận động tại 03 xã, Ban Chỉ đạo mở hội
nghị rút kinh nghiệm và triển khai ra 11 xã khác cùng với tất cả
các cơ quan đóng trên địa bàn huyện. Từ tháng 08/1989 đến
tháng 11/1990, huyện sông Thao phát hành loại phiếu cho cá
nhân với mức mua là 1.200 đồng và 600 đồng. mức bảo hiểm tối
đa là 20.000 đồng cho phiếu 1.200 đồng và 10.000 đồng cho
phiếu 600 đồng. Phiếu cá nhân chỉ dùng cho chính người có
phiếu. sau khi nghiên cứu xem xét nhu cầu của bà con nông dân,
từ tháng 12/1990, Ban Chỉ đạo Bảo hiểm khám, chữa bệnh sông
Thao phát hành loại phiếu theo hộ gia đình với 03 loại: loại hộ
154
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
độc thân mức mua 2.000 đồng, được hưởng bảo hiểm gấp 10 lần,
loại 2-4 khẩu mức mua 4.000 đồng, được hưởng bảo hiểm gấp
10 lần, loại từ 05 khẩu trở lên mức mua 5.000 đồng, được hưởng
bảo hiểm gấp 12 lần. Quyền lợi và trách nhiệm thực hiện là 12
tháng kể từ ngày mua bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm đảm bảo tiền
thuốc, vật tư dạng thuốc cho bệnh nhân điều trị nội trú. kết quả
sau 03 đợt thực hiện từ tháng 08/1989 đến 31/12/1991, tỷ lệ
người mua bảo hiểm cá nhân bằng 4,59% dân số trong huyện và
mua theo hộ gia đình bằng 7,4% dân số. Tổng thu cả 03 đợt là
16.960.660 đồng, tổng chi là 8.580.432 đồng, còn dư 8.380.220
đồng (bằng 49,9%).
Qua thực tế làm điểm ở 03 xã và nhân diện rộng trên quy
mô toàn huyện, cán bộ và nhân dân nhận thức được bảo hiểm
khám, chữa bệnh là một chủ trương đúng, cần thiết, phù hợp tình
hình thực tiễn. nhân dân thấy rõ lợi ích của bảo hiểm là mọi
người chủ động lo kinh phí cho mình đi bệnh viện từ khi còn
khỏe. so sánh 03 nguồn: nguồn ngân sách của nhà nước, nguồn
viện phí và nguồn thu từ bảo hiểm khám, chữa bệnh lúc đó, thì
nguồn kinh phí của bảo hiểm chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 46%,
nguồn thu viện phí là 16,38%, nguồn định mức nhà nước cấp là
37,2%. Bảo hiểm khám, chữa bệnh mang lại giá trị cao về mặt
kinh tế, ý nghĩa nhân đạo giúp đỡ lẫn nhau của mọi người trong
cộng đồng, đóng góp nguồn tài chính quan trọng để mua thuốc,
mua vật tư y tế phục vụ bệnh nhân.
Tiếp theo sông Thao, huyện vĩnh Lạc, vĩnh Phú cũng tiến
hành triển khai thí điểm bảo hiểm khám, chữa bệnh ở 04 xã (vũ
dy, Tứ Trung, ngũ kiên, Bình dương). Ngày 09/11/1990,
155
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
UBND tỉnh Vĩnh Phú ra Quyết định số 752/QĐ-UB thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng Quỹ BhyT tỉnh vĩnh Phú. Ông nguyễn
kim Trân, Phó Chủ tịch uBnd tỉnh làm Trưởng ban, Bs.
nguyễn kim Chất, giám đốc sở y tế, Phó ban Thường trực, các
thành viên khác thuộc hội nông dân, Liên đoàn Lao động, hội
Phụ nữ tỉnh. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ chỉ đạo thí điểm có kết
quả ở huyện sông Thao và huyện vĩnh Lạc về xây dựng Quỹ
BhyT; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện,
sơ kết rút kinh nghiệm ở điểm chỉ đạo, báo cáo uBnd tỉnh và
Bộ y tế trước khi mở rộng ở các địa phương trong tỉnh. Tình hình
thực hiện thí điểm ở sông Thao đã cho thấy nhờ có nguồn quỹ
đóng góp của nhân dân mà nhiều người mắc phải những căn bệnh
nặng đã được chữa trị kịp thời. nguồn Quỹ khám, chữa bệnh
BhyT cũng đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cấp các cơ sở
khám, chữa bệnh, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh tốt hơn,
được nhân dân tin tưởng. Công suất hoạt động của Trung tâm y
tế tăng đáng kể.
năm 1991, thực hiện Nghị quyết 04 của Hội đồng Nhân
dân tỉnh Vĩnh Phú, mô hình “Quỹ Bảo hiểm y tế” đã được triển
khai ở 78 xã và các cơ sở quan trọng trong toàn tỉnh, qua một thời
gian thực hiện đã thu được những kết quả nhất định. Phó Chủ tịch
hội đồng Bộ trưởng nguyễn khánh đã về thăm, kiểm tra đánh giá
tình hình. Bộ trưởng Bộ y tế trong một báo cáo trước Chính phủ
chuẩn bị cho việc hoạch định chính sách BhyT năm 1991 đã nhận
định: “việc thí điểm mô hình BhyT ở vĩnh Phú và ở các địa
phương khác đã cho kết quả rất tốt, đáng khích lệ, cho phép mở ra
một chính sách mới trong việc khám, chữa bệnh của toàn dân”.
156
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
3. Thí điểm xây dựng Quỹ Bảo hiểm sức khỏe ở Hải
Phòng
Trong cuộc họp giao ban của Ban giám đốc sở y tế hải
Phòng giữa năm 1989, bài báo “Hiểu và thực hiện đúng việc thu
một phần viện phí để tiến tới bảo hiểm khám chữa bệnh” của
Bộ trưởng Bộ y tế Phạm song (đăng trên báo nhân dân số ra ngày
01/06/1989) được đưa ra bàn luận sôi nổi. Bài báo nêu tình hình
khó khăn về kinh phí, sự cần thiết thu viện phí tại các bệnh viện
và trong tương lai vấn đề BhyT cần được đặt ra. Ban giám đốc
sở y tế hải Phòng đã trao đổi và đi đến thống nhất đăng ký với
Bộ y tế nghiên cứu triển khai vấn đề này.
nhận thức của lãnh đạo sở y tế hải Phòng khi đó là cần
sớm cụ thể hóa chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm”
theo tinh thần nghị quyết đại hội vi của đảng. Theo đó, cần
phải hiểu chăm lo sức khỏe cho nhân dân là trách nhiệm của các
cấp chính quyền, đồng thời cũng là nhiệm vụ của mỗi người.
Làm tốt Bảo hiểm sức khỏe sẽ tăng cường được mối quan hệ
cộng đồng, tương thân tương ái, đẩy mạnh nền y tế nhân dân.
Làm tốt chủ trương này sẽ có Quỹ Bảo hiểm sức khỏe thường
trực, giải quyết được khó khăn cho người nghèo khi đau ốm,
cũng như những khó khăn của bệnh viện về thu viện phí. Ban
Lãnh đạo sở y tế hải Phòng cũng lường đến trở ngại lớn nhất là
sự hiểu biết về công tác bảo hiểm còn hạn chế, nên việc đưa ra
chủ trương này chưa chắc đã được sự hưởng ứng rộng rãi của
các ngành, các cấp, và mọi tầng lớp nhân dân. Câu hỏi được đặt
ra là nếu chờ thuận lợi mới làm thì biết đến bao giờ? vấn đề mấu
chốt là có cán bộ nhiệt tình, hiểu biết về quản lý kinh tế và thấy
157
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
được lợi ích của vấn đề, có quyết tâm cao, với tinh thần vừa làm,
vừa tìm hiểu, khó khăn đến đâu giải quyết đến đó.
đồng chí Bùi Thành Chi, Trưởng phòng hành chính - Tổng
hợp của sở y tế hải Phòng lúc đó được Ban giám đốc giao nhiệm
vụ khẩn trương nghiên cứu ,tiếp thu đề án nàyđể triển khai thí điểm
ở hải Phòng. hội nghị cử thêm đồng chí Lê đình Cúc, Phó giám
đốc sở y tế và một số cán bộ khác cùng tham gia.
Trong phương án: “những công tác y tế cấp bách” trình với
Thường vụ Thành ủy, Bảo hiểm sức khỏe cũng được đặt ra và được
Ban Thường vụ Thành ủy, thường trực uBnd phê duyệt, được
đưa vào nghị quyết của Thành ủy, hđnd thành phố.
ngày 29/08/1989, Ban Thường vụ Thành ủy họp dưới sự chủ
trì của Bí thư Thành ủy Lê danh Xương, bàn toàn diện về công
tác y tế và cho phép triển khai Bảo hiểm sức khỏe ở hải Phòng.
ngày 23/09/1989, Quyền Chủ tịch uBnd thành phố Cao văn, ký
Quyết định số 976/TCCQ thành lập Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe
hải Phòng, làm nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển Bảo hiểm
sức khỏe trên địa bàn toàn thành phố. đồng chí Bùi Thành Chi
được thành phố bổ nhiệm là giám đốc Trung tâm.
ngày 27/09/1989, Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe thành phố
triển khai công tác với sự có mặt của giáo sư Phạm song, Bộ
trưởng Bộ y tế; Bs Trần khắc Lộng Phó vụ trưởng vụ y tế Ban
khoa giáo trung ương; Quyền Chủ tịch uBnd thành phố Cao
văn; Phó Chủ tịch uBnd thành phố nguyễn Thị Bảy; đại diện
các cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa phương; các đồng
chí lãnh đạo các quận huyện; Ban giám đốc sở y tế và các đơn vị
trong toàn ngành y tế hải Phòng.
158
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
Trung tâm Bảo hiểm sức khỏe hải Phòng bắt tay vào triển
khai làm thí điểm. khi đó có ý kiến nên triển khai đại trà, song
ngành y tế đã thận trọng chọn phương án thực hiện ở phạm vi một
huyện để rút kinh nghiệm. huyện Thủy nguyên được chọn làm
thí điểm. để phát huy sự tập trung chỉ đạo tối đa và sự thống nhất
cao trong lãnh đạo huyện, nhân một cuộc họp của Ban Thường vụ
huyện ủy, các cán bộ bảo hiểm đã “đột kích” xin hội nghị dành
cho một số thời gian để làm việc. sau khi trao đổi một số ý kiến
ngắn, Ban Thường vụ đã nhất trí thực hiện công tác Bảo hiểm sức
khỏe và yêu cầu sở y tế giúp đỡ.
Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy nguyên được uBnd huyện
quyết định thành lập ngày 28/12/1989, sau 03 tháng Trung tâm
Bảo hiểm sức khỏe hải Phòng ra đời, được chọn triển khai thí
điểm Bảo hiểm sức khỏe tự nguyện. huyện Thủy nguyên lúc
bấy giờ có 36 xã, thị trấn với 25 vạn dân, có 36 trạm y tế. Buổi
đầu thành lập còn bỡ ngỡ về phương pháp chỉ đạo, quản lý và
phát hành thẻ bảo hiểm. nhưng được uBnd huyện hỗ trợ cho
03 triệu đồng tiền mặt cùng với Bảo hiểm sức khỏe thành phố
cấp cho 02 vạn thẻ đã in nội dung sẵn và một xe Babetta, nhờ đó
chi nhánh đã có kinh phí và phương tiện xuống các xã vận động
nhân dân mua thẻ Bảo hiểm sức khỏe. Bệnh viện huyện Thủy
nguyên được mượn làm trụ sở của chi nhánh. Trong một tháng
làm điểm tại xã đông sơn, Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy
nguyên đã thực hiện các bước hoạt động: kết hợp với Ban Tuyên
giáo huyện ủy xây dựng chương trình tuyên truyền vận động,
phát trên loa đài của xã liên tục vào các giờ nghỉ trưa và tối của
nhân dân; họp với đảng bộ, các đoàn thể nhân dân, uBnd xã
159
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
về mục đích, ý nghĩa và quyền lợi của người có thẻ Bảo hiểm
sức khỏe; quy định mức mua mỗi thẻ cá nhân là 3.000 đồng, nếu
gia đình từ 02 người trở lên mua thì giảm dần cho 1/3 số tiền.
Thẻ cá nhân mỗi năm mua một lần liên tục đến năm thứ 04 nếu
không sử dụng kCB lần nào thì cấp miễn phí thẻ năm đó, gia
đình mua liên tục 02 năm thì đến năm thứ 03 được cấp thẻ miễn
phí; khám bệnh ở bệnh viện và trạm y tế xã đông sơn không mất
tiền khám nhưng thuốc chữa ngoại trú phải mua. nằm điều trị ở
trạm y tế được từ 05-07 ngày không mất tiền thuốc chữa bệnh và
giường nằm. Ở bệnh viện huyện thì chữa bệnh không mất tiền,
bệnh nhân chuyên khoa hoặc quá nặng chuyển sang thành phố
chữa bệnh, được Bảo hiểm sức khỏe thành phố thanh toán toàn
bộ viện phí. Tai nạn giao thông, tự tử, chó dại cắn, dịch vụ thẩm
mỹ bản thân, bệnh nhân tự túc, Quỹ Bảo hiểm sức khỏe không
thanh toán.
nói về nỗi khổ của người cán bộ Bảo hiểm sức khỏe khi đi
tuyên truyền vận động, Bs.vũ Quang điềm, nguyên giám đốc
Trung tâm y tế Thủy nguyên đã có lần kể lại đây là việc làm khó
khăn nhất, vất vả nhất, đôi lúc khổ nhục bởi những lời mỉa mai:
“có tiền tôi mời thầy thuốc về nhà chữa bệnh hoặc đi bệnh viện
tự trả viện phí, cần gì mảnh giấy của các người ...”, thậm chí họ
không thèm tiếp, khát nước họ không cho uống hoặc xua chó
trong nhà ra đuổi cắn. đội quân vận động là cả ban giám đốc,
cán bộ các khoa phòng của bệnh viện chia ra các mũi vào từng
đội sản xuất, từng nhà để vận động mua thẻ bảo hiểm sức khỏe.
Trời mưa to, gió lớn là lúc người dân không ra đồng, ở nhà, đoàn
cán bộ vận động phải che mưa đi chân đất vào từng nhà, có người
160
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
bị ngã bẩn hết quần áo, có người bị chó cắn rách quần áo, chảy
máu phải về tiêm phòng dại. người nhận tấm thẻ bảo hiểm sức
khỏe đầu tiên của huyện Thủy nguyên là Chủ tịch đào Xuân
Thạo. Qua một tháng vất vả đội nắng, dầm mưa mới phát hành
được 30% số dân trong xã mua bảo hiểm sức khỏe. khi có thẻ
bảo hiểm sức khỏe mọi người đua nhau đi kCB tại trạm y tế xã,
và bệnh viện. Bệnh nhân vào nằm điều trị thì đòi hỏi thuốc nhiều,
thuốc ngoại theo ý thích không theo phác đồ điều trị. nếu không
được thì nói xấu là “lừa đảo lấy tiền, cho ít thuốc đểu...”. đáng
buồn là có người có chức sắc, có học nhưng cũng nói năng thiếu
trách nhiệm. Thầy thuốc, y tá phải cực nhọc, chỉ còn biết nhẫn
nhục chịu đựng. kết thúc 01 tháng thí điểm, uBnd huyện đã tổ
chức sơ kết và mời đại diện 36 xã gồm Bí thư, Chủ tịch uBnd,
Trưởng trạm y tế xã, Chủ nhiệm hTX, các ban, ngành của huyện
nghe báo cáo kết quả đã làm ở huyện đông sơn, uBnd huyện
quyết định phát hành thẻ bảo hiểm sức khỏe trên cả 36 xã và các
cơ quan xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện.
ngày 30/03/1990, đoàn đại biểu Quốc hội do gs.Tâm đan,
Phó Chủ nhiệm ủy ban y tế - Xã hội của Quốc hội làm Trưởng
đoàn đến tìm hiểu về Bảo hiểm sức khỏe hải Phòng. đoàn đã gặp
Chủ tịch, Phó Chủ tịch uBnd thành phố, hoan nghênh cách làm
của hải Phòng và mong muốn hải Phòng rút ra được nhiều kinh
nghiệm cho cả nước.
Từ kết quả ban đầu của Quỹ Bảo hiểm sức khỏe Thủy
nguyên, ngày 18/05/1990, Chủ tịch uBnd TP.hải Phòng đào an
ký Chỉ thị số 30/CT-vX của uBnd thành phố về việc phát triển
Bảo hiểm sức khỏe ra toàn thành phố. sau Chỉ thị của uBnd
161
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
thành phố lần lượt các quận nội thành, thị xã kiến an, đồ sơn và
các huyện an Lão, an hải, Tiên Lãng và hàng trăm cơ quan, xí
nghiệp, trường học tham gia.
ngày 09-10/11/1990, đồng chí nguyễn khánh, ủy viên
Trung ương đảng, Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) kiểm tra tình hình thực hiện công tác Bảo hiểm sức khỏe của
TP. hải Phòng.
để có cơ sở thực tế cho việc quyết định chủ trương chính
sách Bảo hiểm sức khỏe trên phạm vi cả nước, đồng chí nguyễn
khánh trực tiếp tìm hiểu tình hình thực hiện Bảo hiểm sức khỏe ở
huyện Thủy nguyên, Bệnh viện hữu nghị việt Tiệp; nghe cán bộ
chính quyền và y tế các địa phương khác như an Lão, Lê Chân,
hồng Bàng, ngô Quyền báo cáo tình hình đã và đang thực hiện.
đồng chí nguyễn khánh hoan nghênh và biểu dương các
cấp, các ngành của TP.hải Phòng có quyết tâm cao, cố gắng triển
khai công việc mới và khó khăn này. Trong điều kiện cụ thể, công
tác Bảo hiểm sức khỏe là cần thiết, ưu việt nhưng thực hiện không
phải là dễ dàng. đây thực sự là một phương thức mới, có ảnh
hưởng sâu rộng đến chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. vì
vậy, phải được nghiên cứu kỹ, đầy đủ và toàn diện nhất là trước
khi áp dụng trên phạm vi rộng ra cả nước.
đồng chí Phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nhắc nhở các
cấp, ngành hải Phòng tiếp tục nghiên cứu triển khai công tác Bảo
hiểm sức khỏe rộng rãi trong toàn dân. đồng thời, cơ quan Bảo
hiểm sức khỏe các cấp cần chấn chỉnh lại công tác quản lý, sử
dụng Quỹ sao cho đúng mục đích, đạt yêu cầu, tránh khuynh
hướng kinh doanh. đồng chí nguyễn khánh chỉ đạo: hải Phòng
162
- Chương 4: sự ra đời, pháT TriỂn BhYT ở việT nam
tiếp tục thí điểm triển khai công tác Bảo hiểm sức khỏe này trong
toàn dân và kịp thời rút kinh nghiệm báo cáo Bộ y tế, hội đồng
Bộ trưởng để sớm có những chủ trương chính sách phù hợp trên
phạm vi cả nước.
4. Mở rộng thí điểm BHYT tới các miền và một số ngành
Thí điểm BHYT tự nguyện ở Mỏ Cầy, Bến Tre
mỏ Cầy là một huyện lớn của tỉnh Bến Tre, diện tích tự
nhiên là 34.447 ha, dân số 175.725 người (12/1994). Trong kháng
chiến chống mỹ, mỏ Cầy là cái nôi của phong trào đồng khởi,
mặc dù chiến tranh qua đi, song hậu quả để lại cho nơi đây rất
nặng nề. sau tháng 04/1975, đời sống người dân rất nghèo, đa
số sống bằng nghề nông, đường sá giao thông khó khăn, trình độ
dân trí ở nông thôn còn thấp. Thực hiện Quyết định số 45/hđBT
của hội đồng Bộ trưởng về việc thu một phần viện phí, trước
nhu cầu bức thiết trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân, Tỉnh ủy, uBnd tỉnh Bến Tre đã sớm quan tâm chỉ đạo
việc thành lập Quỹ BhyT tự nguyện trên địa bàn địa phương.
để thực hiện nhiệm vụ trên, hội nghị hđnd tỉnh khoá vi lần
iii ngày 17/08/1990 quyết định thí điểm thành lập Quỹ BhyT
tự nguyện huyện mỏ Cầy, với sự chỉ đạo của sở y tế Bến Tre,
do đồng chí Phạm Thanh Phong, giám đốc sở y tế làm Trưởng
ban chỉ đạo. đồng thời, hội đồng quản trị BhyT huyện được
thành lập do đồng chí Lê văn Tâm, Phó Chủ tịch uBnd huyện
làm Trưởng ban; đồng chí Lương văn Chiến, giám đốc Trung
tâm y tế huyện làm Phó Trưởng ban Thường trực cùng với 11
thành viên là đại diện các ban, ngành, đoàn thể huyện. Tổ chuyên
163
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
trách BhyT được thành lập với 03 đồng chí, thuộc biên chế của
Trung tâm y tế huyện.
Tháng 09/1990, đề án xây dựng Quỹ BhyT tự nguyện
huyện mỏ Cầy được thông qua hđnd huyện và công tác vận
động tuyên truyền về BhyT được tiến hành rộng khắp trên mọi
phương tiện thông tin đại chúng trong toàn huyện. đồng thời, sở
y tế kết hợp với hội đồng Quản trị BhyT huyện cử nhiều đoàn
cán bộ xuống tận hộ gia đình để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và
triển khai công tác tuyên truyền, vận động. Tài liệu tuyên truyền
hỏi - đáp về quyền lợi BhyT, phạm vi bảo hiểm, trách nhiệm
của các cơ sở điều trị với bệnh nhân BhyT được phổ biến tới
các tầng lớp nhân dân. Tháng 12/1990, BhyT tự nguyện ở mỏ
Cầy triển khai bán phiếu trên phạm vi toàn huyện theo đề án
được hđnd phê duyệt. đề án nêu rõ, đối tượng phát hành phiếu
BhyT tự nguyện bao gồm tất cả cán bộ công nhân viên và nhân
dân có hộ khẩu thường trú trong huyện. Phạm vi bảo hiểm chỉ
thực hiện đối với trường hợp điều trị nội trú; mức độ quyền lợi
bảo hiểm được hưởng theo giá trị 02 loại phiếu: phiếu 4.000 đồng
được bảo hiểm cao nhất là 100.000 đồng; phiếu 2.000 đồng được
bảo hiểm cao nhất là 50.000 đồng. không bảo hiểm những hành
vi vi phạm pháp luật gây thương tích, những trường hợp thuộc
phạm vi bảo hiểm tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thẩm mỹ...
Thời gian sử dụng phiếu là 12 tháng và phiếu có giá trị sử dụng
sau khi mua 01 tháng.
Ngày 15/08/1992, Nghị định 299/HĐBT được ban hành,
ở Bến Tre thực hiện từ ngày 01/01/1993, BhyT tự nguyện mỏ
Cầy được sáp nhập vào chi nhánh BhyT huyện mỏ Cầy (diện
164
nguon tai.lieu . vn