- Trang Chủ
- Bảo hiểm
- Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Phần 1 - TS. Nguyễn Thị Minh
Xem mẫu
- Đổi mới & phát triển
bảo hiểm xã hội ở việt nam
1
- 2
- ÀÖÍI MÚÁI &
PHAÁT TRIÏÍN
bảo hiểm xã hội
ở việt Nam
3
- Chỉ đạo Biên soạn
TS. Nguyễn Thị Minh
Thứ trưởng, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Chủ Biên
TS. Dương Văn Thắng
Tổng Biên tập Tạp chí Bảo hiểm xã hội
Thư ký Biên soạn
và Tổ ChứC ThựC hiện nội dung
ThS. Dương Ngọc Ánh
Tham gia Biên soạn
CN. Hoàng Phó Ưởng
ThS. Nguyễn Hải Hồng
CN. Hoàng Thu Trang
CN. Nguyễn Thị Hương
ThS. Lê Công Minh Đức
CN. Nguyễn Thái Dương
ThiếT kế Bìa & Trình Bày
Trịnh Minh Quang
4
- LỜI GIỚI THIỆU
Là chính sách xã hội quan trọng bậc nhất, an sinh xã hội là tiêu
chí của tiến bộ, bình đẳng và công bằng xã hội, một trong những nhân
tố cơ bản thể hiện sự văn minh và phát triển của quốc gia.
đối với việt nam, từ nhiều năm qua, đảng và nhà nước ta
luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh
xã hội hướng về con người, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, hướng tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, an sinh xã hội càng
được coi trọng, trở thành một trong những nhân tố hàng đầu bảo
đảm phát triển bền vững đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
ngành Bảo hiểm xã hội việt nam được chính thức thành lập
từ năm 1995, đến nay đã tròn 20 năm, vinh dự được đảng và nhà
nước giao trọng trách tổ chức thực hiện những chính sách trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội. Tuy nhiên, theo dòng lịch sử cách
mạng, cội nguồn chính sách và các tổ chức tiền thân của Bảo hiểm
xã hội ở nước ta đã hình thành từ rất sớm; song hành và phục vụ đắc
lực yêu cầu của các cuộc kháng chiến vĩ đại, giải phóng đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếc rằng, cho đến nay chưa có một
công trình nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ, hệ thống về quá
trình ra đời, phát triển của chính sách và cơ quan tổ chức thực hiện
Bảo hiểm xã hội ở việt nam.
được sự chỉ đạo của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội việt
nam, tập thể tác giả đã dày công sưu tầm, khảo cứu tư liệu lịch sử,
5
- biên soạn cuốn sách “Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam”. đây là một tài liệu quý, có giá trị, với hơn 300 trang nội dung
được biên soạn công phu, kỹ lưỡng trên cơ sở chắt lọc, đúc kết từ
nhiều nguồn tư liệu thành văn và các ý kiến đóng góp quý báu của
các nhà quản lý, nhà khoa học và các chuyên gia hàng đầu qua các
thời kỳ, ở hầu khắp các lĩnh vực. ngoài Lời giới thiệu, Lời mở đầu,
Phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, cuốn sách được cấu trúc
thành 05 chương, 28 mục chặt chẽ, mạch lạc, bao quát khá đầy đủ
quá trình ra đời, đổi mới, phát triển Bảo hiểm xã hội ở việt nam.
việc xuất bản cuốn sách trong dịp này có ý nghĩa thời sự, thiết
thực góp phần vào việc đánh giá tổng kết lý luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới (1986 - 2016) theo tinh thần kết luận số 66-kL/TW,
ngày 12/06/2013 của Bộ Chính trị và Quyết định số 207/Qđ/TW,
ngày 29/10/2013 của Ban Bí thư Trung ương, đồng thời cung cấp
thêm nguồn tư liệu mới trong nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc và hy vọng cuốn sách
“Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” sẽ được cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Bảo hiểm xã hội và
đông đảo bạn đọc hoan nghênh, đón nhận như một công cụ bổ ích,
đáng tin cậy để tiếp cận, khai thác có hiệu quả, phục vụ ngày càng
tốt hơn cho công tác tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện và quản
lý, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật an sinh xã hội, Bảo hiểm
xã hội, Bảo hiểm y tế ở nước ta./.
Hà Nội, ngày 08/11/2014
GS.TS Sử học PHùNG HữU PHú
Phó Chủ tịch Thường trực
Hội đồng Lý luận Trung ương
6
- LỜI NóI ĐầU
Thiết thực kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Bảo hiểm xã hội
Việt Nam (16/02/1995-16/02/2015), ngay từ đầu năm 2014, Tạp
chí Bảo hiểm xã hội đã mở chuyên mục riêng trên Tạp chí bản in
và Trang thông tin điện tử tổng hợp trên Internet thường xuyên
tuyên truyền về chủ đề này.
Ban Biên tập Tạp chí đã xây dựng đề cương chi tiết cho từng
số xuất bản và phân công cán bộ, phóng viên phụ trách việc tìm
hiểu, sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, biên soạn các bài viết có chất
lượng đăng trên chuyên mục. Chúng tôi đã tìm gặp các nhân
chứng lịch sử trò chuyện và ghi chép lại những câu chuyện về cội
nguồn hình thành, phát triển chính sách và hệ thống tổ chức Bảo
hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế ở nước ta. Để tìm kiếm và thu thập các
tư liệu lịch sử, chúng tôi đã đến hầu khắp các Thư viện Quốc gia,
Thư viện Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Viện Khoa học
Lao động Xã hội, Trung tâm Lưu trữ Bảo hiểm xã hội Việt Nam…
Hồi âm từ bạn đọc khắp mọi miền đất nước đề nghị Ban Biên
tập Tạp chí BHXH tập hợp, hệ thống các bài viết trên chuyên mục
“Hướng tới kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Bảo hiểm xã hội
Việt Nam”, đầu tư, chỉnh lý, xuất bản một cuốn sách lịch sử về
Ngành, khắc ghi đạo lý uống nước nhớ nguồn, ôn cố, tri tân.
Dù biết rằng để xuất bản được một cuốn sách lịch sử về
Ngành phải có một quá trình dày công chuẩn bị. Nhưng được sự
tin tưởng, cổ vũ của đông đảo bạn đọc; với ý thức trách nhiệm, sự
tâm huyết, yêu Ngành, yêu Nghề, tập thể lãnh đạo, biên tập viên,
phóng viên, nhân viên Tạp chí Bảo hiểm xã hội đã vượt lên những
khó khăn, thách thức; tích cực, khẩn trương bắt tay bắt tay vào
việc, với cảm nhận niềm vinh dự nghề nghiệp sâu sắc.
7
- Quyết tâm, nỗ lực được nhân lên khi Ban Biên soạn nhận
được sự chia sẻ, ủng hộ, động viên và chỉ đạo kịp thời của
TS.Nguyễn Thị Minh, Thứ trưởng, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã
hội Việt Nam cùng các đồng chí Phó Tổng Giám đốc, giúp cho
công việc tiến hành được nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả hơn.
Càng phấn khởi, khi Dự thảo cuốn sách gửi đi xin ý kiến các
đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Ngành qua các thời kỳ; chúng
tôi đã nhận nhiều lời động viên, khích lệ, biểu dương và mong
muốn cuốn sách sớm ra mắt bạn đọc. Đồng chí Hồ Tế, Nguyên Bộ
trưởng Bộ Tài chính, Chủ tịch Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội
Việt Nam giai đoạn 1997-1999 đánh giá: “Đây là một tài liệu tốt,
rất có ích, cung cấp những dữ liệu, tài liệu ban đầu về quá trình
hình thành và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ở nước
ta từ ngày có Đảng. Nên chuẩn bị cho ra đời sớm, kịp xuất bản
vào dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam thì
rất tốt!”. Là người theo sát chính sách Bảo hiểm xã hội từ những
ngày đầu đổi mới và sau này là người lãnh đạo đứng đầu Ngành
Bảo hiểm xã hội, TS.Nguyễn Huy Ban, Tổng Giám đốc Bảo hiểm
xã hội Việt Nam giai đoạn 1998-2009 nhấn mạnh: “Tôi đã đọc
nhiều giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học và nhiều đề tài
luận văn thạc sĩ, tiến sĩ liên quan đến Bảo hiểm xã hội nhưng
chưa thấy giáo trình, tài liệu, luận văn nào đề cập một cách toàn
diện, có hệ thống về sự hình thành và phát triển của chính sách,
pháp luật Bảo hiểm xã hội như cuốn sách “Đổi mới và phát triển
Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” do Tạp chí Bảo hiểm xã hội biên
soạn. Có thể nói đây là những trang sử về Bảo hiểm xã hội, mà
đọc xong không ai là không thấy rõ sự tài tình, sáng suốt và
những quan điểm luôn luôn vì cuộc sống của cán bộ, công chức,
quân nhân và người lao động của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại”. BS.Trần Khắc Lộng, Giám đốc Bảo hiểm y tế Việt
8
- Nam giai đoạn 1992 - 1997 động viên: “Các tác giả đã sưu tầm,
tập hợp các sự kiện có giá trị, biên tập và hệ thống khá đầy đủ
quá trình hình thành các chính sách An sinh xã hội của Việt
Nam; cả về pháp lý cũng như thực tiễn phát triển của các chính
sách An sinh xã hội hiện hành”. Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
giai đoạn 2009 - 2014 Lê Bạch Hồng đánh giá: “Cuốn sách đã
có sự chuẩn bị công phu, nêu được lịch sử của Ngành từ khi
mới thành lập. Cảm ơn Ban Biên tập”. Cùng chung cảm xúc đó,
TS.Phạm Thành, Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam
giai đoạn 1995-2006 bày tỏ: “Bố cục các chương mục và nội
dung cụ thể tôi thấy đều đầy đủ, phong phú, bổ ích, mỗi người
được đọc sách sẽ thấy được hết quá trình hình thành và phát
triển Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế ở Việt Nam cũng như sự
đổi mới và đi lên của Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam”. Đồng
chí Nguyễn Thành Xuyên, Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam giai đoạn 1995-2008 biểu dương: “Hoan nghênh ý
tưởng xuất bản cuốn sách để mọi người hiểu rõ hơn quá trình
hình thành và phát triển sự nghiệp Bảo hiểm xã hội ở nước ta
nói chung và Ngành ta nói riêng” và “mong cuốn sách sớm
được xuất bản”. Đồng chí Chu Văn Tùy, Giám đốc Bảo hiểm xã
hội TP.Hà Nội giai đoạn 1990-2002, một trong 05 lãnh đạo của
Bảo hiểm xã hội 05 địa phương của cả nước được chọn làm thí
điểm Bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh đã ghi nhận: “Các tác
giả đã có công sưu tầm đầy đủ các tư liệu có tính hệ thống, mang
tính lịch sử, đó là một điều không dễ, điều đó còn nói lên tinh
thần trách nhiệm của Ban Biên soạn đối với sự nghiệp Bảo hiểm
xã hội, đối với lịch sử của một ngành mang đậm tính nhân văn.
Tôi trân trọng điều đó!”…
Cùng với sự động viên, khích lệ của Tổng Giám đốc Nguyễn
Thị Minh, các Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đình Khương, Nguyễn
9
- Minh Thảo, Đỗ Thị Xuân Phương đã đọc, đánh giá cao nội dung
và quá trình triển khai sưu tầm tư liệu, biên soạn cuốn sách. Là
người gắn bó với Ngành từ những ngày đầu, TS.Đỗ Văn Sinh, Phó
Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho rằng: “Cuốn sách
được tập thể tác giả thực hiện hết sức công phu, trách nhiệm.
Đây là tài liệu đầu tiên được thu thập và biên soạn rất hệ thống,
khái quát được quá trình hình thành và phát triển chính sách
và quá trình tổ chức thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo
hiểm y tế ở Việt Nam”.
Ban Biên soạn trân trọng cảm ơn GS.TS Sử học Phùng Hữu
Phú, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương đã
giành thời gian đọc cuốn sách, nhận xét, góp ý trực tiếp với Chủ biên
và viết Lời giới thiệu tới bạn đọc.
Bên cạnh các ý kiến đánh giá, nhận xét, động viên khích lệ;
các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam,
chuyên gia sử học và lãnh đạo các Ban nghiệp vụ liên quan cũng
dành cho chúng tôi những ý kiến tham gia hết sức bổ ích, xác đáng.
Ban Biên soạn trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến
đóng góp, giúp cho cuốn sách càng thêm hoàn thiện. Tuy nhiên, do
nội dung cuốn sách khá rộng, kinh nghiệm chưa nhiều, nên không
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót. Ban Biên soạn rất mong tiếp tục
nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau, cuốn
sách được hoàn thiện hơn./.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11/11/2014
T/M Ban Biên soạn
TS. DƯơNG VăN THắNG
Tổng Biên tập Tạp chí BHXH
10
- Chương 1:
TIềN Đề HìNH THàNH Và HoạT ĐộNG
Bảo HIểM xã HộI TroNG Sự NGHIỆP ĐấU TraNH
CÁCH MạNG, kHÁNG CHIếN kIếN QUốC
1. Bảo hiểm xã hội (BHxH) ở Việt Nam những năm trước
Cách mạng Tháng Tám
Ở việt nam, từ rất lâu đã xuất hiện các quỹ tương thân,
tương ái, gắn liền với cộng đồng làng xã, nhằm cưu mang, giúp
đỡ những người gặp phải rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống. hình
thức hoạt động chủ yếu là lập các quỹ quản phụ điền, quỹ cô nhi
điền… để giúp bà góa, con côi. một số địa phương lập ra quỹ
nghĩa điền, quỹ nghĩa thương… do những người hảo tâm đóng
góp để dùng vào việc trợ giúp người khó khăn. những loại quỹ
này được người dân tự giác tham gia đóng góp và có sự giám sát
của làng xã nên được sử dụng rất đúng mục đích.
ngoài ra, ở các làng nghề có sự hình thành các phường hội
nghề nghiệp để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau không chỉ trong nghề
nghiệp mà cả trong cuộc sống, nếu không may gặp rủi ro. nhà nước
phong kiến không những khuyến khích phát triển, mà còn dựa trên
hoạt động này để đề ra những sắc luật phù hợp, áp dụng trong toàn
quốc, như lập các quỹ dự phòng thông qua thuế để tổ chức khám,
chữa bệnh cho dân khi có bệnh dịch, đói kém, mất mùa…
11
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
Trong thời kỳ Pháp thuộc, những người làm việc trong bộ
máy cai trị của Pháp cũng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội
(BhXh) như hưu bổng, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. dưới
sự đấu tranh của giai cấp công nhân, đặc biệt là từ khi có đảng
Cộng sản đông dương, người lao động trong các hầm mỏ, nhà
máy của Pháp cũng được hưởng một số chế độ BhXh, mặc dù
còn hết sức hạn chế.
19 tuổi, ra đi từ bến cảng nhà rồng với mong muốn “tìm
đường đi cho dân tộc theo đi”, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc,
đem lại cơm no, áo ấm cho đồng bào, người thanh niên nguyễn
Tất Thành - sau này là Chủ tịch hồ Chí minh đã tìm thấy ánh sáng
của chủ nghĩa mác - Lênin và thấu hiểu giá trị của xã hội tiến bộ,
công bằng, văn minh, an sinh, hạnh phúc. Chính vì vậy, ngay từ
năm 1941, trong Chương trình của việt minh do người soạn thảo,
các mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội cho đồng bào đã được người
khởi xướng. đây cũng là những tiền đề hết sức căn bản để xây
dựng hệ thống chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) ở nước
ta sau này.
vấn đề BhXh đã được đảng ta quan tâm từ rất sớm. ngay
từ khi thành lập năm 1929, trong Tuyên ngôn của đảng Cộng
sản đông dương - tổ chức tiền thân của đảng Cộng sản việt
nam - đã nêu: “Tổ chức tất cả vô sản giai cấp vào công hội,
thực hành bảo hiểm cho thợ thuyền, giúp đỡ thợ thuyền thất
nghiệp…”. sau đó, tại hội nghị Trung ương tháng 11/1940,
đảng đã ra nghị quyết “sẽ đặt ra Luật BHXH” khi thiết lập
được chính quyền cách mạng và tạo lập quỹ hưu bổng cho người
già. đầu năm 1941, nguyễn Ái Quốc về Pác Bó (Cao Bằng) xây
12
- Chương 1: Tiền đề hình Thành và hoạT động BhXh Trong sự nghiệp đấu Tranh CáCh mạng...
dựng các đoàn thể cứu quốc để tiến tới thành lập mặt trận việt
minh. hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng của đảng Cộng sản đông
dương họp vào cuối tháng 04/1941, dưới sự chủ tọa của các
đồng chí hoàng văn Thụ, vũ anh đã khẳng định công tác xây
dựng các đoàn thể cứu quốc đạt kết quả tốt, chứng tỏ chủ trương
thành lập mặt trận việt minh của nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn
đúng đắn. hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản
đông dương, họp từ ngày 10 – 19/05/1941 trong rừng khuổi
nậm (thuộc Pác Bó, huyện hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), dưới sự
chủ tọa của nguyễn Ái Quốc, đã quyết định thành lập việt nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là việt minh. Các tổ chức quần
chúng trong việt minh đều lấy tên là “hội cứu quốc” như hội
Công nhân cứu quốc, hội nông dân cứu quốc, hội Phụ nữ cứu
quốc, hội Quân nhân cứu quốc… mặt trận việt minh tuyên bố
chủ trương gồm 02 điều: “Làm cho nước việt nam được hoàn
toàn độc lập/Làm cho dân việt nam được sung sướng, tự do”.
Chương trình việt minh được nguyễn Ái Quốc soạn thành 01
bài thơ dài theo thể song thất lục bát, gồm 212 câu, được Bộ
Tuyên truyền việt minh xuất bản, trong đó có đoạn:
“… Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bấy giờ giúp cho…
…Nào là những kẻ chức viên
Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng…
…Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho…”.
13
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
Tại Tuyên ngôn, Chương trình Việt Minh ngày 25/10/1941
tiếp tục khẳng định: “Chính phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, do quốc dân đại hội cử lên, sẽ thi hành những chính sách
dưới đây:
… c) Về mặt xã hội: 1. Thi hành luật ngày làm 08 giờ và các
luật xã hội khác… thợ thuyền được tự do hưởng Luật lao động…
thợ thuyền già có lương hưu trí”.
Có thể thấy ngay từ buổi đầu cách mạng, đảng ta và Chủ
tịch hồ Chí minh đã xác định, bản Chương trình việt minh cốt
thực hiện 02 điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: “Làm cho
nước việt nam được hoàn toàn độc lập. Làm cho dân việt nam
được sung sướng, tự do”. và nội hàm của khái niệm “sung sướng,
tự do” chính là được hưởng các chế độ đãi ngộ, phúc lợi xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội.
Tháng Tám năm 1945, trước diễn biến hết sức sôi động của
tình hình chính trị thế giới, việc quân đồng minh thắng phát xít
đức, nhật đầu hàng hồng quân Liên Xô, đã tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít, phát triển chế độ tân dân chủ ra khắp thế giới và là điều
kiện để cách mạng XhCn nhanh chóng thành công. Tại nghị
quyết của Toàn quốc hội nghị đảng Cộng sản đông dương diễn
ra trong 02 ngày 14 - 15/08/1945 đã xác định, đây là cơ hội rất tốt
cho ta giành quyền độc lập. Trong tình thế vô cùng khẩn cấp, xác
định: “Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.
Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị,
hành động và chỉ huy. Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ
cơ hội”, mục đích là giành quyền độc lập hoàn toàn. Bên cạnh đó,
nghị quyết của Toàn quốc hội nghị tiếp tục nhấn mạnh, giành độc
14
- Chương 1: Tiền đề hình Thành và hoạT động BhXh Trong sự nghiệp đấu Tranh CáCh mạng...
lập phải song hành với việc thi hành 10 chính sách việt minh. và
cũng tại nghị quyết của Toàn quốc hội nghị này, khái niệm BhXh
lần đầu tiên được đưa ra: “Thi hành luật ngày làm 08 giờ; đặt
Luật BHXH; cứu tế nạn dân”.
kỳ họp Quốc dân đại hội diễn ra ngày 16 - 17/08/1945, nghị
quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành 10 chính sách
lớn của việt minh tiếp tục đưa ra lời kêu gọi: Quốc dân đại hội
thiết tha hiệu triệu nhân dân toàn quốc, các đoàn thể cách mạng
kịp thời đứng lên đoàn kết phấn đấu, để thi hành 10 điều, trong đó
tại điều 7 có viết:
“Ban bố Luật Lao động; ngày làm 08 giờ, định lương tối
thiểu, đặt xã hội bảo hiểm”.
đây chính là một trong những chủ trương thể hiện tầm nhìn
chiến lược sâu sắc của đảng ta đối với việc phát triển hệ thống
chính sách xã hội, tạo nền tảng để xây dựng đất nước.
2. Chính sách và hoạt động BHxH trong kháng chiến
chống Pháp
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước việt nam dân chủ
Cộng hòa (nay là Cộng hòa XhCn việt nam) ra đời, mặc dù với
một nền tài chính hết sức eo hẹp, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nhưng
ngày 03/11/1945, Chủ tịch hồ Chí minh đã thay mặt Chính phủ
ký Sắc lệnh số 54-SL ấn định các điều kiện cho công chức về hưu
trí. Trong bản sắc lệnh hết sức ngắn gọn, chỉ có 02 điều, nhà nước
quy định: “Kể từ ngày 01/10/1945, những công chức thuộc tất cả
các ngạch trong nước Việt Nam, tại chức hay đương nghỉ việc bất
cứ ở vào trong trường hợp nào, đều phải về hưu mỗi khi có đủ 01
15
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
trong 02 điều kiện: hoặc đã làm việc được 30 năm, hoặc đã đến
55 tuổi”.
Căn cứ sắc lệnh số 54-sL, sau khi có sự thỏa thuận, thống
nhất giữa hai Bộ Tài chính - Bộ nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tài chính
đã đề nghị Chủ tịch Chính phủ (khi đó là cụ huỳnh Thúc kháng
được Chủ tịch hồ Chí minh ủy nhiệm làm Quyền Chủ tịch nước
trong thời gian Bác đi công tác tại Pháp) ký ban hành Sắc lệnh số
105-SL ngày 14/06/1946 quy định về việc cấp hưu bổng và đóng
BhXh đối với công chức. Theo đó, bắt đầu từ ngày 01/10/1945,
công chức các ngạch việt nam về hưu trí theo sắc lệnh số 54 nếu
đã làm được đủ 20 năm sẽ được hưởng lương hưu (từ nguyên văn
trong sắc lệnh là “có đồng hưu liễm” - Tg), sẽ được cấp hưu bổng
tính theo phần số hạng thâm niên, cứ mỗi năm được tính 1/60
lương bình quân về 03 năm làm việc sau cùng, không kể các phụ
cấp. Trường hợp đã làm từ 20 - 25 năm sẽ được cấp hưu bổng tính
theo phần số hạng tỷ lệ 1/75 lương bình quân về 03 năm làm việc
sau cùng, không kể các phụ cấp. Trường hợp tự ý đệ đơn về hưu
trí sau khi đã làm việc ít nhất 25 năm cũng được cấp hưu bổng
theo số hạng thâm niên như trên. không chỉ quy định cấp hưu bổng
cho những công chức của nhà nước việt nam dân chủ Cộng hòa,
tại sắc lệnh này còn đặc biệt nhấn mạnh: “Các hưu bổng đã cấp
rồi theo chế độ cũ cho những viên chức ở trong các trường hợp kể
trên, sẽ được thanh toán lại và tăng cấp kể từ ngày về hưu”, nhằm
đảm bảo quyền lợi cho công chức đã có thời gian làm việc trong
bộ máy của chính quyền Pháp thuộc và sau này có cống hiến, đóng
góp cho chính quyền cách mạng. Tại sắc lệnh số 105, quy định về
mức đóng góp vào Quỹ hưu trí, bắt đầu từ ngày 01/01/1946, công
16
- Chương 1: Tiền đề hình Thành và hoạT động BhXh Trong sự nghiệp đấu Tranh CáCh mạng...
chức có trách nhiệm đóng góp vào Quỹ hưu bổng 10% mức tiền
lương thay vì 06% như trước đây và nhà nước trích từ công quỹ
cấp cho Quỹ hưu bổng 10% thay vì mức 07% như trước đây. Có
thể nói, nếu như Sắc lệnh số 54-SL là sắc lệnh đầu tiên của Chính
phủ quy định về chế độ hưu trí với công chức; thì Sắc lệnh 105-SL
chính là văn bản pháp luật đầu tiên quy định quyền lợi, mức hưởng
hưu trí của công chức, khẳng định nguyên tắc đóng - hưởng của
BHXH, đồng thời, cũng quy định trách nhiệm bảo hộ của Nhà
nước đối với Quỹ BHXH.
ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa i nước
việt nam dân chủ Cộng hòa thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
của Chính quyền cách mạng non trẻ với 240 phiếu tán thành trên
tổng số 242 phiếu. Tại điều 17 quy định về quyền cơ bản của công
dân có nêu nguyên tắc: “Công dân già cả hoặc tàn tật không làm
được việc thì được giúp đỡ, trẻ con được chăm sóc về mặt giáo
dưỡng”. Tuy nhiên, ngày 19/12/1946, lệnh toàn quốc kháng chiến
được phát đi, kháng chiến chống Pháp bùng nổ khiến cho việc tổng
tuyển cử bầu nghị viện nhân dân không thể thực hiện. Bởi vậy,
hiến pháp 1946 chưa được công bố và chưa từng có hiệu lực về
phương diện pháp lý. nhưng những quan điểm tiến bộ về quyền
con người, quyền công dân trong bản hiến pháp đầu tiên này đến
nay vẫn còn nguyên giá trị lịch sử.
mặc dù trong điều kiện chiến tranh, toàn dân, toàn quân dốc
sức cho cuộc kháng chiến trường kỳ 09 năm gian khổ, đảng và
nhà nước ta vẫn hết sức quan tâm chăm lo đến đời sống của người
dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động. ngày 12/03/1947, Chủ tịch hồ Chí minh ký ban hành Sắc
17
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
lệnh số 29-SL quy định về những giao dịch về việc làm công giữa
chủ lao động, cả người việt nam và người nước ngoài, với công
nhân việt nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm
và các nhà làm nghề tự do. với nhiều chương mục quy định về
phụ cấp gia đình, phụ cấp thâm niên và thủ tục trả phụ cấp; chế độ
nghỉ đẻ và cho con bú đối với phụ nữ; chế độ nghỉ ốm đau cho
công nhân và trách nhiệm của chủ; chế độ tai nạn lao động; hình
thức xử phạt đối với chủ có hành vi vi phạm các quy định trên…
Có thể nói, Sắc lệnh 29 chính là văn bản pháp luật đầu tiên quy
định về các chế độ BHXH đối với công nhân, có nhiều quy định
hết sức ưu việt như quy định tất cả công nhân đều được phụ cấp
gia đình để người công nhân đó nuôi các con của mình (kể cả con
ruột và con nuôi được công nhận hợp pháp), cho đến khi đứa trẻ
đủ 16 tuổi và được hưởng đến khi đủ 18 tuổi, đối với các con còn
đi học hoặc bị tàn tật, mắc bệnh không thể tự kiếm sống. để trả
phụ cấp gia đình, chủ lao động phải đóng tiền vào một quỹ do
Chính phủ quy định, khoản này không được trừ vào lương của
công nhân. đối với phụ cấp thâm niên (giống như trợ cấp thôi việc
và là trợ cấp thất nghiệp sau này), mọi công nhân đều được hưởng
phụ cấp thâm niên khi vì lý do nào đó mà nghỉ việc hoặc bị chủ sa
thải, trừ trường hợp tự ý xin thôi để đi làm cho một cơ sở khác, ra
kinh doanh để kiếm lợi riêng mình hoặc bị sa thải vì đã phạm một
trọng tội về hình luật). Phụ cấp thâm niên được tính bằng 50 đồng
tương ứng với mỗi năm có đủ 12 tháng làm việc. Trong trường
hợp người công nhân mất, phụ cấp thâm niên sẽ được trả cho vợ
(chồng) hoặc con của họ. về chế độ thai sản với nữ công nhân,
sắc lệnh quy định “công nhân đàn bà” được nghỉ 08 tuần và hưởng
18
- Chương 1: Tiền đề hình Thành và hoạT động BhXh Trong sự nghiệp đấu Tranh CáCh mạng...
một nửa số tiền công, kể cả phụ cấp, trong thời gian sinh nở; trong
01 năm kể từ ngày đẻ, được nghỉ 60 phút/ngày để cho con bú.
Trong thời gian người phụ nữ mang thai và sinh đẻ, chủ không
được phép sa thải hoặc chuyển việc nặng hơn hoặc đổi chỗ làm
mà không được sự đồng ý của người lao động. về chế độ ốm đau,
công nhân khi ốm đau muốn xin nghỉ ăn lương phải có giấy chứng
nhận của bác sĩ và được nghỉ nhiều nhất là 20 ngày/năm. về chế
độ tai nạn lao động, sắc lệnh số 29 cũng có quy định nhưng còn
hết sức mờ nhạt: “Công nhân bị tai nạn lao động, dù lỗi tại mình
hay không mà phải nghỉ việc quá 04 ngày thì phải được chủ bồi
thường; nếu vì tai nạn ấy mà chết thì những người thừa kế được
bồi thường. Số tiền bồi thường sẽ kể từ hôm sau ngày xảy ra tai
nạn. Ngày xảy ra tai nạn coi như ngày công nhân vẫn làm việc,
chủ phải trả cả lương”. đặc biệt, ngay từ thời kỳ này, sắc lệnh 29
đã ban hành được quy định về xử lý vi phạm đối với chủ không
thực hiện đầy đủ các quyền cho công nhân. đối với những vi phạm
về các chế độ BhXh kể trên, nếu vi phạm, người chủ có thể bị
phạt từ 10 - 1.000 đồng, đối với chủ không chịu nộp tiền đóng góp
vào quỹ phụ cấp gia đình cho công nhân sẽ phải phạt một số tiền
gấp đôi số tiền phải góp.
năm 1948, xét thấy sự cần thiết phải lập một chế độ mới cho
công chức việt nam thích hợp với nền dân chủ Cộng hòa và công
cuộc kháng chiến kiến quốc, nhằm cải thiện đời sống, đơn giản
hóa chế độ công chức theo những nguyên tắc cơ bản như ấn định
được mức sinh hoạt tối thiểu, trọng dụng thành tích, phát huy tài
năng, chú ý đến tình trạng gia đình, nâng đỡ phụ nữ, đồng bào
miền núi làm công chức và thống nhất ngạch, cấp bậc công chức,
19
- ĐổI MỚI & PHÁT TrIểN BHxH ở VIỆT NaM
ngày 29/05/1948, Chủ tịch hồ Chí minh đã ký ban hành Sắc lệnh
số 188-SL quy định về phụ cấp gia đình, phụ cấp khu vực khí hậu
xấu, phụ cấp khu vực tiền tuyến; chế độ thai sản cho công chức
nữ. Theo đó, kể từ ngày 01/05/1948, các công chức chính ngạch ở
mỗi ngành làm việc trong các cơ quan của Chính phủ, sẽ theo một
thang lương chung gồm 25 bậc. Trong đó, sẽ có một số lương
chính ngạch, làm căn cứ để tính 10% đóng góp vào Quỹ hưu bổng,
một số lương phụ tạm thời quy định bằng 40% lương chính, được
Chính phủ định theo thời gian sinh hoạt và có sự điều chỉnh cho
phù hợp ở từng thời điểm. Cũng tại sắc lệnh này, lần đầu tiên đưa
ra khái niệm mức thu nhập tối thiểu và quy định “nếu một công
chức có mức lương chính và phụ cấp dưới 220 đồng/tháng thì
được lĩnh bằng 220 đồng”. về phụ cấp gia đình, công chức cũng
được hưởng gần như công nhân và có quy định thêm, phụ cấp đối
với con thứ hai nhiều hơn con thứ nhất, con thứ ba nhiều hơn con
thứ hai và con thứ tư nhiều hơn con thứ ba. Từ con thứ năm trở đi,
mức phụ cấp bằng con thứ tư. điều này cũng là dễ hiểu khi nước
nhà vừa trải qua cuộc chiến tranh giành độc lập, nạn đói năm 1945
đã làm trên 02 triệu người chết, cuộc kháng chiến kiến quốc còn
dài, không biết trước sẽ còn phải chi viện bao nhiêu sức người,
sức của cho mặt trận nên chế độ phụ cấp gia đình giai đoạn này
thể hiện rõ sự khuyến khích đối với các gia đình đông con. ngoài
phụ cấp gia đình, công chức - tùy theo vị trí, địa bàn công tác -
còn được hưởng các loại phụ cấp như phụ cấp gạo đắt, phụ cấp
khu vực khí hậu xấu, phụ cấp khu vực tiền tuyến, phụ cấp chức vụ
hay phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp chuyên môn… về chế độ thai
sản với công chức nữ, sắc lệnh quy định, công chức phụ nữ sinh
20
nguon tai.lieu . vn