Xem mẫu

  1. Thông tin chung Tên Đề tài/Dự án: Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp việt nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian thực hiện: 2013-2014 Cơ quan chủ trì: Viện Chính sách và Chiến lược phát triển NN, NT Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Trọng Hải ĐTDĐ: Email: 1. Đặt vấn đề Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển thể chế nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết của bất kỳ quốc gia nào, không phân biệt thể chế chính trị. Ở nước ta, khi nền kinh tế chuyển sang “Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”, thì đối với nền nông nghiệp cũng từng bước hình thành thể chế theo hướng “kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Chặng đường gần 30 năm Đổi mới, tính từ năm 1986, nông nghiệp tiếp tục thu được nhiều thành tự đáng khích lệ. Ngành nông nghiệp (Nông, lâm và ngư nghiệp) đã đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao, bình quân toàn ngành là 5,4% về giá trị sản xuất và 3,7% về giá trị gia tăng (GDP). Sản lượng lúa tăng từ 19,0 triệu tấn năm 1996 lên 43,7 triệu tấn năm 2012. Việt Nam duy trì vị trí là cường quốc về xuất khẩu nông sản như lúa gạo, cà phê, tiêu, hạt điều và thuỷ sản với giá trị xuất khẩu đạt mức cao nhất 27,5 tỷ USD vào năm 2012. Sản xuất ngày càng đa dạng cả về cơ cấu sản phẩm và loại hình tổ chức. Tuy sản xuất nông hộ nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn, nhưng hệ thống sản xuất quy mô vừa và lớn đang bước đầu hình thành, đặc biệt trong chăn nuôi, trồng lúa, nuôi trồng thủy sản và trồng cây lâu năm. Tổng số trang trại đăng ký năm 2010 đã tăng 2,5 lần so với năm 2000. Xu hướng đa dạng hóa tổ chức sản xuất cũng có bước phát triển cùng với sự phát triển các hình thức như hợp tác xã, tổ hợp tác, các nhóm kinh tế phi chính thức, dựa trên nguyên tắc liên kết kinh tế tự nguyện giữa các nông hộ. Những năm gần đây hình thức hợp đồng tiêu thụ nông sản đang phát triển, gắn kết nông dân sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế biến và thương mại. Tuy vậy, những đánh giá mới nhất gần đây cho thấy nền nông nghiệp Việt Nam cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại. Chất lượng nông sản thấp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Sản xuất manh mún, năng suất thấp, công nghiệp chế biến chậm phát triển nên tình trạng xuất khẩu nông sản thô, giá trị gia tăng thấp vẫn là chủ yếu. Có một nghịch lí là trong lúc ngành nông nghiệp rất cần vốn để đầu tư cho sản xuất thì tình hình đầu tư vào nông nghiệp lại rất hạn chế. Vốn đầu tư FDI vào khu vực này hiện chỉ chiếm 1% đến 41
  2. 2% so với con số 7% đến 10% cách đây mươi năm. Nguyên nhân khiến việc thu hút đầu tư vào nông nghiệp gặp nhiều khó khăn là do sản xuất nông nghiệp rủi ro cao (bao gồm rủi ro về thiên tai, rủi ro thị về trường và những cả rủi ro về chính sách), hạ tầng cơ sở sản xuất yếu kém, xuống cấp, giá lao động tăng cao, chất lượng lao động trong khu vực nông nghiệp thấp và đặc biệt chi phí giao dịch lớn do thiếu các thể chế, tổ chức đại diện cho người nông dân. Các công trình nghiên cứu đã công bố hầu hết tập trung đi sâu vào một vài nội dung của thể chế phát triển nông nghiệp, chưa có công trình nào đưa ra được bức tranh tổng quát cả về lý luận và thực tiễn đối với thể chế phát triển nông nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu chuyên đề: “Đổi mới và hoàn thiện Thể chế phát triển nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” là hết sức cần thiết. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1 Mục tiêu chung: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp ở Việt Nam (chủ yếu về “Các hình thức tổ chức sản xuất (các chủ thể) và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và những cơ chế, chính sách, giải pháp liên quan”) trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2 Mục tiêu cụ thể: 1) Làm rõ và khái quát một số vấn đề cơ sở lý luận về thể chế phát triển nông nghiệp (chủ yếu về các nội dung nghiên cứu được giao); 2) Đánh giá thực trạng thể chế phát triển nông nghiệp hiện nay ở nươc ta (chủ yếu về các hình thức tổ chức sản xuất và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh), nêu ra các vấn đề bất cập; 3) Đưa ra quan điểm đổi mới thể chế phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; 4) Đề xuất định hướng và giải pháp đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp ở nước ta (chủ yếu liên quan đến các hình thức tổ chức sản xuất và kiên kết sản xuất kinh doanh) trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 3. Một số kết quả nghiên cứu chính 3.1 Thực trạng phát triển của các hình tổ chức sản xuất, liên kết sản xuất kinh doanh 3.1.1 Thực trạng sự vận động và phát triển của kinh tế hộ nông dân a) Kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hoá 42
  3. Loại 1: Hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu. Các hộ này có đưa nông sản ra thị trường để bán, nhưng đó thường là một phần sản phẩm tất yếu của gia đình. Hộ nông dân sản xuất ra để tiêu dùng trong gia đình, song cũng do cần mua các sản phẩm tiêu dùng tất yếu khác mà hộ nông dân buộc phải bán bớt một phần nông sản tất yếu đi. Loại 2: Hộ nông dân sản xuất hàng hóa nhỏ, có đưa một phần nhỏ nông sản ra thị trường để bán – đó thường là phần sản phẩm dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng của gia đình. Loại 3: Hộ sản xuất hàng hóa (hiện đang phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực sản xuất lúa, thủy sản, cây công nghiệp, cây ăn quả…). Đó là những hộ nông dân đã thực sự đi vào sản xuất với mục đích để bán. b) Sự phát triển kinh tế hộ ở nông thôn dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, phi nông nghiệp hóa có vai trò quyết định đến phát triển nền nông nghiệp hàng hoá cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Quá trình này vừa tác động trực tiếp vừa tác động gián tiếp đến quá trình vận động của kinh tế hộ nông dân và quan hệ ruộng đất ở nông thôn. c) Kinh tế hộ nông dân và các hình thức vận động của thị trường ruộng đất Khi tham gia phát triển nông nghiệp hàng hóa, ruộng đất cũng từng bước tham gia vào cơ chế thị trường với tình đặc thù và trình độ khác nhau ở mỗi vùng, phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế hộ nông dân và trình độ nền nông nghiệp hàng hóa. Trong mỗi quan hệ trên, tính chất hàng hoá của ruộng đất có sự khác nhau, giá cả khác nhau. Hiện nay, có thể nhìn nhận một cách khái quát như sau: Thị trường đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thủy sản có sự khác biệt theo vùng. Thị trường đất nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam (nhất là Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long) phát triển hơn. d) Sự phát triển của kinh tế “Trang trại, gia trại” Theo quan niệm của nước ta, Trang trại (và gia trại) là những Hộ nông dân đã đi vào sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo những quy mô và tiêu chí nhất định và được khuyến khích phát triển (Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000 về kinh tế trang trại; trong đó nêu lên hai tiêu chí chủ yếu : thứ nhất - giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân năm từ 40 triệu đồng trở lên đối với trang trại phía Bắc và 50 triệu đồng trở lên đối với trang trại phía Nam ; thứ hai - quy mô sản xuất từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và từ 3 ha trở lên đối với phía Nam). Trên thực tế, các mô hình kinh tế Trang trại đã có sự phát triển cả ở trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, tuy nhiên có khác nhau, tùy theo điều kiện đất đai và trình độ phát triển nông nghiệp hàng hóa ở các vùng và các lĩnh vực. e) Hiện tượng nông dân “bỏ ruộng” 43
  4. Tình trạng nông dân bỏ ruộng đã xuất hiện từ khoảng 2005, nhưng nay đã trở thành một hiện tượng lan rộng ở nhiều tỉnh, nhất là ở các tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh Miền Trung. Hiện nay dư luận xã hội rất quan tâm đến vấn đề này, nhưng hiện đang có những ý kiến khác nhau về mặt tích cực và tiêu cực của hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là cần xem xét, nhận thức đúng bản chất của hiện tượng này, để trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp, hiệu quả. f) Chiến lược “An ninh lương thực” của nước ta còn những mặt bất cập, hiệu quả chưa cao cả về mặt kinh tế, xã hội và quuy hoạch sử dụng tài nguyên đất, làm cho kinh tế hộ nông dân bị hạn chế trong định hướng phát triển phát triển. h) Tâm lý của người nông dân với ruộng đất: Trên thực tế, trong lịch sử lâu dài từ trước đền nay, ở những vùng đất chật người đông, ruộng đất ít, sản xuất nông nghiệp chưa ở trình độ sản xuất hàng hóa cao (như ở Đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh Miền Trung), nông dân thường có tâm lý không muốn bán ruộng đi, coi ruộng đất là “của hương hỏa, cha truyền con nối”, cực chẳng đã mới phải bán đi (điều này khác với nông dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi sản xuất hàng hóa nông sản đã ở trình độ cao hơn, khi thấy làm ruộng không có lãi là có thể bán ruộng đi và chuyển sang làm nghề khác). g) Những hạn chế chủ yếu trong phát triển đơn vị kinh tế hộ nông dân - Số lượng đơn vị kinh tế hộ nông dân còn rất lớn (gần 11 triệu), quy mô canh tác bình quân trên một hộ nhìn chung còn nhỏ bé và tốc độ tăng lên rất chậm, tính tự cung tự cấp – sản xuất nhỏ manh mún của kinh tế hộ nông dân ở nhiều vùng này còn cao, do đó việc đi vào sản xuất hàng của đại đa số hộ bị nhiều hạn chế. Ngay số lượng và quy mô canh tác của các trang trại cũng còn nhỏ. - Trình độ sản xuất kinh doanh và tư duy kinh tế của tuyệt đại đa số nông dân còn đang ở trạng thái sản xuất hàng hóa nhỏ (trừ một số vùng như đồng bằng Sông Cửu long…), hơn nữa kỹ thuật và kinh nghiệp canh tác còn mang nặng tính truyền thống, sản xuất hàng hóa chất lượng thấp, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường, nhất là sản xuất hàng hóa lớn chất lượng cao, đòi hỏi tri thức về KH-CN tiên tiến. 3.1.2 Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp Thể chế HTX trong nông nghiệp ở nước ta đã trải qua những bước thăng trầm trong suốt hơn nửa thế kỷ qua với những quan niệm, cơ sở pháp lý, mô hình và thực tiễn phát triển khác nhau: Giai đoạn thể chế HTX - Tập thể hóa kéo dài tới đầu những năm 1980, rồi đi đến dần tan rã và tới cuối năm 1988 khi xác định trở lại “hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”. Từ đó đến nay Nhà nước đã một số lần ban hành (và sửa đổi) Luật HTX theo quan điểm mới (mới nhất là Luật HTX 2013), cùng các cơ chế chính sách ưu đãi như: (Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; Xúc tiến thương mại; Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới; Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; Ưu đãi thuế; Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, 44
  5. liên hiệp hợp tác xã; Ưu đãi về tín dụng; Hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; Chế biến sản phẩm…) để các HTX được chuyển đổi sang mô hình và cơ chế mới, thành lập các HTX mới trên cơ sở tôn trọng và phát triển kinh tế hộ nông dân (ở đây xin không nêu chi tiết vì đã có nhiều tổng kết về vấn đề này). Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình đổi mới và phát triển HTX đang có nhiều khó khăn và trở ngại. Theo lý luận cũng như thực tiễn phát triển nền nông nghiệp ở các nước trên thế giới, khi đi vào sản xuất hàng hóa thì các hình thức HTX (liên kết ngang - dọc) là phổ biến nhất, quan trọng nhất, phù hợp nhất và hiệu quả nhất đối với các Hộ nông dân. Tuy nhiên thực trạng các HTX nông nghiệp ở nước ta cho thấy : bên cạnh những kết quả tích cực và những nhân tố mới, đang bộc lộ những bất cập về nhận thức, cơ chế chính sách phát triển và phương thức hoạt động của các hình thức HTX. 3.1.3 Thực trạng phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp Trong phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, nhất là hàng hóa chất lượng cao, thì sự ra đời các doanh nghiệp nông nghiệp (theo nghĩa rộng) về các lĩnh vực chế biến, bảo quản, cung cấp các dịch vụ về khoa học – công nghệ, giống cây con, phòng chống dịch bệnh, tiêu thụ sản phẩm, thương mại… là một đòi hỏi khách quan và đóng vai trò then chốt trong phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần đóng vai trò hỗ trợ “đầu vào, đầu ra” đối với các hộ nông dân, mà còn đóng vai trò trọng yếu trong việc kết nối các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị và nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng của nền sản xuất nông nghiệp, nhất là khi đi vào sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều cơ chế chính sách về vốn, tín dụng, thuế, đất đai, tiếp cận thị trường, ứng dụng KHCN… để khuyến khích đầu tư (cả trong nước và của nước ngoài) phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp. Sự phát triển các doanh nghiệp trong nông nghiệp trong những năm qua có những kết quả đáng ghi nhận, song cũng đang bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập. 3.1.4 Thực trạng phát triển Nông Lâm trường quốc doanh a) Về các Nông trường - Các nông trường được sắp xếp lại và chuyển đổi thành các công ty nông nghiệp (CTNN). Hiện có 145 CTNN (không tính các công ty thuộc Bộ Quốc phòng), trong đó có: 105 CTNN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; 37 công ty cổ phần; 02 công ty TNHH 2 thành viên trở lên: 1 công ty liên doanh. - Hiện các CTNN đang quản lý hơn 631.376 ha đất (trong đó có 475.716 ha đất nông nghiệp, 83.008 ha đất lâm nghiệp, bình quân 3.778 ha/Cty không tính các công ty thuộc Bộ quốc phòng). - Về hình thức tổ chức sản xuất: Hiện đang thực hiện 3 hình thức chính là: công ty tự tổ chức sản xuất (chiếm 67,14% diện tích); khoán (chiếm 23,60% diện tích), và liên doanh liên kết (chiếm 3,35% diện tích). - Tổng giá trị tài sản của các CTNN là 26.698.948,78 45
  6. triệu đồng, bình quân tài sản mỗi CTNN là 141.044,62 triệu đồng. Tổng các khoản vay của các CTNN là 5.490,49 tỷ đồng. b) Về các Lâm trường - Sau khi rà soát, sắp xếp, chuyển đổi, giải thể các Lâm trường thua lỗ kéo dài, hiện nay có: 148 công ty lâm nghiệp (CTLN), trong đó có 3 công ty cổ phần (chủ yếu sản xuất giống cây trồng) và 87 Ban quản lý rừng phòng hộ. - Các CTLN đang quản lý 2.064.690 ha đất. Diện tích đất lâm nghiệp các CTLN đang quản lý là 1.904.700 ha, trong đó đất có rừng là 1.757.396 ha, diện tích đất chưa có rừng là 147.304 ha (chiếm 7,7% tổng diện tích quản lý). Các ban quản lý rừng đang quản lý 1.521.522 ha đất rừng (bao gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất). - Về cơ chế quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đang thực hiện theo một số mô hình sau: i) CTLN thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh rừng trồng, hay hoạt động khép kín từ trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến, tiêu thụ sản phẩm… (có 60 CTLN); ii) Các CTLN thực hiện nhiệm vụ quản lý rừng tự nhiên là chủ yếu (có 67 CTLN); iii) Các CTLN thực hiện kết hợp các nhiệm vụ sản xuất cây trồng, vườn ươm với rừng trồng và rừng tự nhiên, do các diện tích rừng này nhỏ (có 21 CTLN). - Về giao khoán rừng và đất lâm nghiệp: Diện tích đất các CTLN thực hiện giao khoán là 667.500 ha (chiếm 32,3% diện tích quản lý), với nhiều hình thức khoán khác nhau, như: khoán theo chu kỳ kinh doanh tới sản phẩm cuối cùng, khoán theo năm, khoán theo công đoạn hay theo việc… - Về vốn sản xuất kinh doanh bình quân của một CTLN kinh doanh rừng tự nhiên là 17,7 tỷ đồng, doanh thu bình quân là 12,7 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân là 1,09 tỷ đồng. Vốn sản xuất của một CTLN kinh doanh rừng trồng chỉ là 8,5 tỷ đồng, doanh thu bình quân là 13,6 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân là 1,2 tỷ đồng. Nhìn chung chỉ có một số ít CTLN làm ăn có hiệu quả và phát triển, còn phần nhiều là khó khăn, thua lỗ. 3.1.5 Doanh nghiệp FDI trong nông nghiệp Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và PTNT, từ năm 1998 đến hết tháng 06/2012, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp đã thu hút 562 dự án FDI với tổng vốn đầu tư gần 3,3 tỷ USD (chiếm 1,6% tổng vốn đầu tư đăng ký FDI trong tất cả các lĩnh vực), trong đó vốn điều lệ đạt trên 1,6 tỷ USD (chiếm2,3% tổng vốn điều lệ) và tổng vốn thực hiện 2,958 tỷ USD; trong đó có 473 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 2,688 tỷ USD và tổng vốn thực hiện 2,662 tỷ USD; 89 dự án liên doanh và các hình thức khác với tổng vốn đăng ký là 233,731 triệu USD và tổng vốn thực hiện là 295,280 triệu USD. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhà đầu tư nước ngoài đang ít quan tâm tới lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ trọng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp liên tục giảm sút. Nếu như năm 2001 tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm khoảng 8% tổng vốn đăng ký đầu từ thì những năm tiếp theo, tỷ lê này liên tục giảm, đến năm 2006 còn 6%, năm 2007 tiếp tục 46
  7. giảm còn 5,2% và đến 2008 giảm mạnh còn 3,3%, sau đó tiếp tục đà suy giảm còn 1% vào năm 2009 và năm 2010. Bình quân mỗi năm ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thu hút gần 37 dự án đầu tư nước ngoài (trong đó dự án FDI là 31 dự án) tương đương với khoảng 196 triệu USD (FDI là 179 triệu USD). Nhìn chung, các dự án FDI trong nông nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (bình quân một dự án FDI nông nghiệp chưa tới 6,6 triệu USD), chủ yếu các dự án FDI gắn liền với nguồn nguyên liệu của địa phương có nhiều thuận lợi về môi trường, đất đai, giao thông... Tỉ lệ vốn FDI đưa vào thực hiện thực hiện rất cao đạt 99% so với tổng số vốn đăng ký. 3.2. Thực trạng phát triển các hình thức liên kết sản xuất và kinh doanh trong nông nghiệp - Sau Khoán 10 và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII, 1989) xác định lại “Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”, thì Luật đất đai 1993 đã trao quyền làm chủ ruộng đất ổn định, lâu dài cho các hộ nông dân (khi đó là 5 quyền và cho đến nay đã nâng lên thành 9 quyền). Quyền làm chủ về ruộng đất cùng với quyền làm chủ về tư liệu sản xuất đã trở thành cơ sở kinh tế mang tính pháp lý để hộ nông dân thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ, gắn liền với quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh. Mặc dù còn những bất cập trong thực hiện, song quyền làm chủ về ruộng đất cùng với quyền làm chủ về tư liệu sản xuất gắn liền với quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh đã trở thành động lực quan trọng nhất đưa nền nông nghiêp nước ta vượt qua khủng hoảng và phát triển đầy ấn tượng, tạo nên những thành tựu to lớn trong những thập kỷ qua. - Dưới tác động của kinh tế thị trường, phát triển nông nghiệp hàng hóa, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, ruộng đất đang vận động theo xu hướng tích tụ, tập trung và sử dụng có hiệu quả hơn trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với quá trình vận động, phân hóa, phát triển của kinh tế hộ nông dân và các chủ thể sản xuất kinh doanh khác (tuy có khác nhau giữa các vùng và các chủ thể). 4. Những định hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới 4.1 Bối cảnh chung phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới 4.1.1 Bối cảnh Quốc tế Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tề ngày càng sâu rộng, với tính đặc thù của lĩnh vực nông nghiệp, trên thế giới và khu vực đang diễn ra hai quá trình song hành: Một là, các nước có lợi thế đều nỗ lực nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền nông nghiệp nước mình và phấn đấu giành thị phần ngày càng cao hơn trên thị trường quốc tế; Hai là, các nước đều nỗ lực cao vươn lên (ở mức có thể) tự đảm bảo “An ninh lương thực” và các nông sản thiết yếu; thực hiện các giải pháp tăng cường bảo hộ mậu dịch, tăng hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu nông sản để bảo vệ quyền 47
  8. lợi nông dân nước mình, trước sự cạnh tranh của các nước khác; ngày càng gia tăng các quy định về giám sát chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn và quy trình sản xuất. Điều này đòi hỏi mỗi nước phải lựa chọn chiến lược phát triển nông nghiệp phù hợp và hiệu quả. 4.1.2 Bối cảnh trong nước Sau gần 30 năm Đổi mới, Đại hội XI của Đảng đánh giá đất nước ta “đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, đã thoát ra khỏi nhóm nước nghèo – kém phát triển nhất, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp). Đó là một tiền đề quan trọng để đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Nhưng đồng thời, Đại hội cũng đánh giá: “Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp,... Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu… Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. 4.1.3 Những vấn đề lớn đặt ra Từ thực trạng của nền nông nghiệp nước ta, cũng như trước yêu cầu của giai đoạn mới, xét về phương diện Thể chế phát triển nông nghiệp (trước hết về các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và liên kết sản xuất kinh doanh) đang nổi lên những vấn đề chủ yếu sau đây: 1). Trình độ và năng lực của kinh tế hộ nông dân đi vào sản xuất hàng hóa nhìn chung còn rất thấp. Với gần 11 triệu hộ làm nông nghiệp, trong đó một tỷ lệ không nhỏ sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung tự cấp; một tỷ lệ lớn nhất số lượng nông hộ ở trình độ tự cung tự cấp – sản xuất hàng hóa nhỏ, manh mún, quy mô sản xuất rất nhỏ; số lượng hộ nông dân ở trình độ sản xuất hàng hóa (là chủ yếu hay chuyên sản xuất hàng hóa) còn đang chiếm một tỷ lệ nhỏ; tư duy kinh tế và phương pháp canh tác của tuyệt đại đa số hộ nông dân còn đang ở trình độ kinh nghiệm truyền thống, chưa tiếp cận được nhiều với phương thức canh tác tiên tiến. 2). Trên bình diện cả nước, tương quan đất đai canh tác với dân số và lao động nông nghiệp vẫn đang ở mức rất thấp, quy mô canh tác hộ nông dân rất nhỏ ( 69% số hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có quy mô dưới 0,5 ha; 34,7% số hộ có quy mô dưới 0,2 ha; 85% hộ sử dụng đất trồng lúa có diện tích dưới 0,5 ha, 50% hộ sử dụng đất trồng lúa có diện tích dưới 0,2 ha; ngoại trừ vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ bình quân cao hơn). Với quy mô canh tác nhỏ như vậy Kinh tế hộ nông dân luôn bị “níu giữ” lại ở trạng thái sản xuất nhỏ tự cung tự cấp. Để đảo ngược quá trình này đòi hỏi một chiến lược phát triển công nghiệp hóa, dịch vụ hóa, phi nông nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ và rộng khắp nằm rút bớt lao động ra khỏi nông nghiệp, tạo quy mô canh tác nông nghiệp hàng hóa có hiệu quả cho các hộ nông dân. Nhưng đây cũng là một quá trình lâu dài và phức tạp về nhiều phương diện cần có bước đi hiện thực và hiệu quả. 48
  9. 4.2 Quan điểm đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp 1. Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp phải gắn với đổi mới thể chế phát triển nông thôn, đặt trong tổng thể thể chế Kinh tế thị trường định hướng XHCN, tương quan hữu cơ với quá trình CNH, HĐH, phi nông nghiệp hóa, đô thị hóa trong cả nước cũng như điều kiện cụ thể của mỗi vùng. 2. Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu kết hợp hợp lý với phát triển theo chiều rộng; phù hợp với tính đặc thù của nông nghiệp nhiệt đới của nước ta và điều kiện – trình độ cụ thể của từng vùng, từng lĩnh vực; gắn kết hữu cơ giữa các yếu tố kinh tế với các yếu tố xã hội và môi trường sinh thái; đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ về lợi ích, trách nhiệm và chia sẻ rủi ro giữa cá chủ thể, trong đó lợi ích của Hộ nông dân được coi trọng và làm cơ sở, đảm bảo sự phát triển bền vững. 3. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp phải lấy đơn vị kinh tế hộ nông dân làm đơn vị cơ sở; đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân gắn liền với phát triền đa dạng đồng bộ các chủ thể liên quan khác (các đơn vị chế biến, đơn vị kinh doanh, đơn vị cung cấp dịch vụ…), các doanh nghiệp phải đóng vai trò trung tâm tạo thành các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh đa dạng đa tầng (liên kết ngang – liên kết dọc) gắn kết các chủ thể trong các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, hiệu quả, ổn định, bền vững, trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò là hạt nhân liên kết. 4.3 Những định hướng chủ yếu đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp và các giải pháp thực hiện 1. Định hướng chung: Chuyển mạnh thể chể phát triển nông nghiệp từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang thể chế phát triển nền nông nghiệp hàng hóa theo chiều sâu phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, từng sản phẩm; phát triển và nâng cao trình độ - năng lực sản xuất hàng hóa của các hộ nông dân, các HTX, các loại hình doanh nghiệp, đơn vị cung ứng dịch vụ…gắn với việc hình thành các liên kết sản xuất kinh doanh có hiệu quả và bền vững giữa các chủ thể theo hướng có sự liên kết về trách nhiệm, lợi ích và chia sẻ rủi ro; phát triển và hoàn thiện đồng bộ các thể chế liên quan như đất đai, thị trường, tài chính, KH-CN, hội nhập quốc tề… nhằm tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, chất lượng và bền vững trong giai đoạn mới. 2. Đẩy mạnh phát triển Kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng sản phẩm. Nhóm thứ nhất, là hàng triệu hộ đang còn ở trình độ sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp là chủ yếu (ở những vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số) sản xuất lương thực để đảm bảo độ “an toàn” cho kinh tế hộ vẫn còn là mục tiêu hàng đầu nhưng cũng rất khó khăn 49
  10. Nhóm thứ hai là các hộ đang ở trình độ sản xuất tự cung tự cấp gắn với sản xuất hàng hóa nhỏ; nhóm này chiếm tỷ trọng lớn nhất (chủ yếu ở những vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Trung bộ…). Đối với nhóm hộ này, định hướng phát triển là nâng cao trình độ và trạng thái kinh tế hộ, tạo điều kiện để hộ nông dân vượt qua ngưỡng tái sản xuất giản đơn, sản xuất nhỏ để đi vào sản xuất hàng hóa ở trình độ cao hơn thông qua quá trình chuyển một số hộ (lao động) sang phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, rút bớt số hộ làm nông nghiệp, tăng quy mô canh tác của hộ. Nhóm thứ ba là các hộ nông dân đã đi vào sản xuất hàng hóa ở những quy mô khác nhau , định hướng đặt ra là tiếp tục nâng cao quy mô, hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh nông sản hàng hóa, hình thành các vùng chuyên sản xuất nông sản hàng hóa lớn, chất lượng cao, tham gia vào các chuỗi sản xuất trong nước và chuỗi gia trị toàn cầu. Đối với những hộ này cần có các chính sách và các chương trình đào tạo để trang bị kiến thức, kỹ năng và quy trình sản xuất kinh doanh tiên tiến, khả năng ứng dụng vào sản xuất các giống cây con mới, chất lượng cao, nâng cao năg lực tiếp cận thị trường. 4.4. Đẩy mạnh đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức HTX theo “cả chiều ngang và chiều dọc”, có thể theo khu vực, có thể theo ngành hàng, có thể theo chuỗi sản xuất kinh doanh. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao, lợi nhuận thường là thấp, diễn ra trong một không gian rộng lớn với rất nhiều hộ nông dân tự chủ thực hiện cùng các chủ thể khác…Vì vậy cả về lý luận và thực tiễn của thế giới đã cho thấy rằng các hình thức tổ chức HTX là phù hợp và có hiệu quả nhất đối với quá trình xã hội hóa nền nông nghiệp, đối với nhu cầu liên kết của các hộ nông dân trong quá trình đi vào sản xuất hàng hóa. Trình độ sản xuất hàng hóa của hộ nông dân càng cao càng có nhu cầu phải hợp tác – liên kết với nhau. 4.5. Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp hộ gia đình ở nông thôn. Đối với nước ta, đang trong bước chuyển từ nền nông nghiệp còn mang nặng đặc trưng của của xuất hàng hóa nhỏ sang sản xuất hàng hóa lớn, thì việc phát triển các doanh nghiệp hộ gia đình (DNHGĐ) với các quy mô khách nhau (cả chính thức – tức được cấp giấy phép, và phi chính thức – tức chưa được cấp giấy phép), sử dụng lao động của gia đình là chính (hoặc có thể thuê thêm một số ít lao động), có thể là kinh doanh tổng hợp (cả nông nghiêp, công nghiệp, dịch vụ) hoặc chuyên ngành phi nông nghiệp có một ý nghĩa rất quan trọng, nhất là đối với những vùng đất chật người đông, dư thừa nhiều lao động nông nghiệp. 4.6. Đổi mới và phát triển mạnh hệ thống doanh nghiệp trong nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến và dịch vụ trong nông nghiệp – nông thôn. Các doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm kết nối trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong thời gian tới cần phát triển đồng bộ các loại hình doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh theo chuỗi của từng loại sản phẩm, nhất là khi đi vào sản xuất 50
  11. hàng hóa nông sản chất lượng cao. Giải pháp quan trọng hàng đầu là hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi thỏa đáng để huy động các nguồn lực đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp trong nông nghiệp (cung ứng các dịch vụ vật tư, kỹ thuật, khuyến nông, khuyến công, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ…, nhất là các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản). 4.7. Đẩy mạnh đổi mới các nông trường, lâm trường (nay chuyển thành các công ty TNHH một thành viên). Sự phát triển các Nông, Lâm trường (NLT) đã qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, qua nhiều lần sắp xếp và đổi mới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn đang bộc lộ rất nhiều yếu kém, bất cập và cả những tiêu cực. Việc tiếp tục sắp xếp và đổi mới các NLT cần phải trên cơ sở đánh giá rất sâu thực trạng và trên cơ sở những nhận thức phù hợp với giai đoạn mới và yêu cầu phát triển ổn định lâu dài. Xin nêu một số định hướng sau: 4.8. Xây dựng, hoàn thiện và phát triển các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. Việc phát triển các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp đóng vai trò trọng yếu đối với phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, có tác dụng liên kết và nhân lên sức mạnh của các hộ nông dân và các chủ thể khác. Do đó trong gia đoạn mới cần đẩy mạnh phát triển đa dạng, đa tầng các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh (ngang – dọc) trong nông nghiệp, hình thành các chuỗi sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững, trên cơ sở đảm báo thỏa đáng lợi ích của hộ nông dân làm cơ sở. 4.9. Hoàn thiện và phát triển một số yếu tố chủ yếu tác động đến phát triển thể chế nông nghiệp (trước hết là đối với kinh tế hộ nông dân, các đơn vị sản xuất kinh doanh và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh) a) Về thể chế và chính sách ruộng đất Phải tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về ruộng đất để cho các hộ nông dân thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ. Trước hết phải cụ thể hóa luật đất đai, sửa đổi và ban hành các văn bản dưới luật, và thực hiện nghiêm túc việc giao ruộng đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân (và các chủ thể khác, với thời hạn 50 năm và sau đó tiếp tục được đương nhiên sử dụng nếu có nhu cầu và sử dụng đúng quy định của luật pháp); quy định rõ, đầy đủ các quyền theo luật định (quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, góp vốn…); chế định rõ, công khai, minh bạch cơ sở pháp lý cho sự vận động của các quyền đó trong cơ chế thị trường; quy định rõ các điều kiện quy hoạch, thu hồi đất và sự đền bù thỏa đáng của Nhà nước, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách liên quan đến các nội dung này. b) Đổi mới và hoàn thiện thể chế hoạt động nghiên cứu và ứng dụng – chuyển giao KH-CN trong nông nghiệp. 51
  12. Để đẩy mạnh chuyển nền nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu, chất lượng và hiệu quả cao đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện thể chế thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng KH-CN trong nông nghiệp. Cùng với việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và nghiên cứu trong các Trường, Viện, thì điều quan trọng là phải xây dựng được cơ chế liên kết có hiệu quả giữa đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết trong các ngành hàng và sản phẩm xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn. c) Thúc đẩy phát triển và hoàn thiện thể chế thị trường nông nghiệp – nông thôn. Phát triển thị trường nông thôn, gắn với thị trường cả nước và kết nối với thị trường quốc tế là một đòi hỏi bức thiết, là cơ sở để định hướng và quy hoạch phát triển nông nghiệp hàng hóa. Thị trường nông thôn là rất quan trọng, nhất là đối với đa số các hộ đang còn ở trình độ tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa nhỏ. Nó sẽ kích thích các hộ từng bước đi vào sản xuất hàng hóa. Do đó đối với các vùng còn sản xuất hàng hóa nhỏ, cần hoàn thiện các chính sách phát triển hệ thống chợ ở nông thôn, phát triển thị tứ, thị trấn. d) Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (kể cả quá trình công nghiệp hóa, phi nông nghiệp hóa ở nông thôn). Ở đây không đề cập đến nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà đề cập về giác độ tác động đến phát triển nông nghiệp hàng hóa. Theo hướng đó, trong giai đoạn tới cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, thúc đẩy quá trình phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, dịch vụ nông thôn (giao thông vận tải, chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, lưu thông hàng hóa…) nhằm giảm bớt lao động và dân cư nông nghiệp, tăng dân cư phi nông nghiệp. e) Phát triển hệ thống tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn Hiện nay các hộ nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp rất thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Việc thiếu vốn này có thể quy về hai dạng: thiếu vốn để sản xuất đảm bảo cho cuộc sống (đối với các hộ nghèo), và thiếu vốn để mở rộng quy mô phát triển sản xuất hàng hóa. Cả hai đối tượng này đều cần được hỗ trợ vốn, song theo các định hướng khác nhau. Đối với các hộ nghèo số vốn vay không lớn và cần có sự ưu tiên nhất định (qua chương trình xóa đói giảm nghèo). f) Thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ tư duy kinh tế hàng hóa và năng lực làm chủ sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân, cán bộ quản lý HTX và đội ngũ doanh nhân. Đây là nội dung rất quan trọng, cần làm cho nghề nông từng bước thoát khỏi “kinh nghiệm thuần túy” “không cần đào tạo”, chỉ những người kém không đỗ đạt mới ở lại với nghề “chân lấm tay bùn”. Kinh nghiệm của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến cho thấy các chủ nông trại được đào tạo rất kỹ và tổng hợp về hạch toán kinh doanh, quản lý sản xuất, tiếp cận thị trường, bảo vệ môi trường, sử dụng đất… Họ có hẳn các trường đào tạo các chủ nông trại, các nông trại gửi tới đây học là những con em sẽ kế 52
  13. nghiệp nhà nông. Ngay ở nước ta đã có một số hộ sản xuất kinh doanh lớn có con em tốt nghiệp đại học cũng quay về làm quản lý kinh tế hộ ở nhà, hoặc cho con em mình đến học những trường lớp chuyên ngành cần thiết, hoặc thuê cán bộ KHKT có kinh nghiệm. g) Tăng cường vai trò của Nhà nước Nhà nước đóng vai trò then chốt và có tính quyết định trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các chủ thể khác. Trong khuôn khổ của Báo cáo chuyên đề này sẽ không đề cập toàn diện các nội dung liên quan đến đổi mới và hoàn thiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển thể chế nông nghiệp; ở đây chủ yếu đề xuất tăng cường vai trò của Nhà nước theo giác độ đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh khác cùng với quá trình phát triển các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh. Ở các phần định hướng phát triển nêu trên cũng đã đề cập đến vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến từng chủ thể và các nội dung liên quan. 5. Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết luận 1. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy “Thể chế” đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển. Thể chế căn bản của một nền kinh tế bao gồm một hệ thống pháp luật tin cậy, chế định và bảo hộ các quyền sở hữu, quyền tự chủ - tự do tổ chức sản xuất kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể, cơ chế liên kết liên doanh, cơ chế điều tiết lợi ích và giải quyết các tranh chấp giữa các chủ thể, trách nhiệm xã hội của các chủ thể; Nhà nước thực thi vai trò của mình minh bạch, tin cậy, mọi hành vi can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các chủ thể, hạn chế các tiêu cực củacơ chế thị trường. Xây dựng thể chế phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển kinh tế hiệu quả bền vững. 2. Kinh nghiệm của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến và hiệu quả cho thấy bốn yếu tố chủ yếu tạo nên một nền nông nghiệp phát triển cao và có hiệu quả là: các nông trại tồn tại khách quan, vận động, phân hóa và phát triển ở trình độ cao; ứng dụng KH-CN trình độ cao; phát triển hệ thống các hợp tác xã tự nguyện và có hiệu quả của các nông trại cùng với hệ thống các doanh nghiệp hiện đại nhằm “liên kết ngang và liên kêt dọc” các quá trình và các chuỗi sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể với các hộ nông dân có sự chia sẻ về trách nhiệm, về lợi ích và sự chia sẻ rủi ro; và sự trợ giúp về mọi mặt của Nhà nước (cả về xây dựng thể chế và hỗ trợ phát triển phù hợp). 3. Nhìn nhận tổng quát thực trạng thể chế phát triển nông nghiệp Việt Nam: Trong những thập kỷ qua, Thể chế phát triển nông nghiệp đã có những bước phát triển, góp phần quan trọng vào phát triển và tạo nên những thành tựu to lớn của nền nông nghiệp. Tuy nhiên, trước yêu cầu của giai đoạn mới, Thể chế phát triển nông nghiệp đang bộ lộ nhiều yếu kém và bất cập, đó là Thể chế phát triển nông nghiệp nói chung, trước hết là các chủ thể 53
  14. hộ nông dân, các doanh nghiệp, các đơn vị cung ứng dịch vụ trong nông nghiệp, thể chế thị trường… một thời gian dài chủ yếu phát triển theo theo chiều rộng, hướng vào phân khúc sản phẩm chất lượng thấp, chế biến thô; các thể chế quan trọng liên quan như đất đai, tài chính tín dụng, thị trường, KH-CN… cũng còn nhiều bất cập, yếu kém và trở ngại. 4. Về quan điểm đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới, trong phạm vi nội dung đề cập của Báo cáo này, xin đề xuất như sau: 1) Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp phải gắn với đổi mới thể chế phát triển nông thôn, đặt trong tổng thể thể chế Kinh tế thị trường định hướng XHCN, tương quan hữu cơ với quá trình CNH, HĐH, phi nông nghiệp hóa, đô thị hóa trong cả nước cũng như điều kiện cụ thể của mỗi vùng. 2) Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu kết hợp hợp lý với phát triển theo chiều rộng; phù hợp với tính đặc thù của nông nghiệp nhiệt đới của nước ta và điều kiện – trình độ cụ thể của từng vùng, từng lĩnh vực; gắn kết hữu cơ giữa các yếu tố kinh tế với các yếu tố xã hội và môi trường sinh thái; đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ về lợi ích, trách nhiệm và chia sẻ rủi ro giữa cá chủ thể, trong đó lợi ích của Hộ nông dân được coi trọng và làm cơ sở, đảm bảo sự phát triển bền vững. 5.2. Kiến Nghị Để góp phần hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới, bước đầu xin nêu một số đề xuất, kiến nghị sau: 1) Cần xác định rõ hơn địa vị pháp lý và vai trò về kinh tế - xã hội của gần 11 triệu hộ nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ - cơ bản ở nông thôn; trên cơ sở điều tra làm rõ sự phân tầng về trình độ kinh tế hộ nông dân của từng vùng để có các chính sách phát triển phù hợp. 2) Đổi mới về nhận thức và trên cơ sở đó đổi mới Luật HTX và các cơ chế chính sách về HTX cho đúng với bản chất của kinh tế hợp tác. Nhà nước cần có Chương trình phát triển HTX và chỉ đạo triển khai phù hợp với trình độ kinh tế hộ nông dân và đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực. 3) Nhà nước cần có Đề án tổng thể về chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu với các bước đi tích cực và thích hợp. 4) Để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển nền nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế hoạt động KH-CN trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ từ nước ngoài, kết hợp với tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ trong nước, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia vào nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ. 54
  15. 5) Nhà nước cần ban hành Hệ thống đồng bộ cơ chế chính sách khuyến khích phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp trong nông nghiệp và nông thôn. 6) Nhà nước cần có Đề án với các cơ chế chính sách kèm theo để chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ hình thành và phát triển các mô hình, các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh 7) Nhà nước cần có Đề án và các cơ chế chính sách kèm theo về thúc đẩy lưu chuyển ruộng đất có hiệu quả ngày càng cao hơn cả về kinh tế và xã hội theo hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, gắn với quá trình phát triển – phân hóa – phân tầng kinh tế hộ nông dân phù hợp với điều kiện của từng vùng 8) Cải tổ - đổi mới hệ thống đào tạo nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với đổi mới và hiện đại hóa nội dung chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của từng lĩnh vực, cần có cơ chế chính sách để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, với thương mại hóa kết quả kết quả hoạt động KH-CN trong các chuỗi sản xuất kinh doanh. 9) Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường hàng hóa nông sản (cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu), trước hết là đối với các hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa có khối lượng lớn. Dự báo về quy mô thị trường sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện tái cơ cấu nền nông nghiệp, tái cơ cấu đầu tư và điều tiết quá trình sản xuất kinh doanh hiệu quả - bền vững. 10) Nhà nước cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật phát triển nông nghiệp. 55
  16. Tài liệu tham khảo Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Đặng Kim Sơn (2008) Nông nghiệp nông dân nông thôn Việt Nam: Hôm nay và mai sau. Đỗ Mai Thành (2012) trong Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam. Lê Quang Thuận, Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam, Tạp chí tài chính, 2019. Theo số liệu tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến 7/2019 của Trung tâm WTO và hội nhập. ThS. Dương Thị Trang, Thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính. 56
nguon tai.lieu . vn