Xem mẫu
- ĐỔI MỚI TƯ DUY QUẢN LÝ KINH TẾ –
NHÌN TỪ NHỮNG LẦN SỬA ĐỔI LUẬT DOANH NGHIỆP
ThS Tô Thị Đông Hà*
TÓM TẮT
Luật Doanh nghiệp Việt Nam đã trải qua 4 lần sửa đổi. Mỗi phiên bản của đạo luật này là
một sự đột phá, là một cuộc cách mạng. Bằng phương pháp nghiên cứu định tính các quy
định pháp luật cụ thể, bài viết đặt mục tiêu làm rõ sự phát triển tích cực về tư duy quản lý
kinh tế của Nhà nước ta, thể hiện trong các phiên bản Luật Doanh nghiệp. Bài viết chứng
minh rằng, các đạo luật về doanh nghiệp không chỉ là kết quả của sự chuyển hướng quản lý
sang nền kinh tế thị trường, mà còn là công cụ để thuận lợi hóa cơ hội tham gia thị trường
cho nhà đầu tư, bảo vệ cổ đông/thành viên/chủ sở hữu, tôn trọng quyền tự chủ của chủ thể
kinh doanh và tăng cường hiệu quả trong quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế.
Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra một số tồn tại chính, cản trở việc đưa những quy định tiến
bộ của Luật Doanh nghiệp vào đời sống kinh doanh.
Từ khóa: Đổi mới tư duy, Luật Doanh nghiệp, quản lý kinh tế, sửa đổi luật.
1. Giới thiệu
Văn bản luật đầu tiên về doanh nghiệp ở Việt Nam là Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân, được ban hành năm 1990. Đây là hai đạo luật đánh dấu sự chính thức thừa
nhận về mặt pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân, đoạn tuyệt với nền kinh tế chỉ tồn tại
thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kể từ đó, cho đến nay, đạo luật về doanh
nghiệp đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1999, 2005, 2014 và năm 2020. Nhằm
so sánh và hệ thống hóa các thành tựu mà các đạo Luật Doanh nghiệp đạt được sau mỗi lần
sửa đổi, như là kết quả của tiến trình đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Nhà nước ta; đồng
thời chỉ ra những rào cản cần tiếp tục gỡ bỏ, để quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp
thực sự được giải phóng, tiệm cận với quan niệm của thế giới, bài viết hy vọng góp thêm ý
kiến nhỏ cho công tác xây dựng và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp trong thời gian tới.
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết
Đổi mới tư duy quản lý kinh tế là chủ đề được nhiều công trình khoa học và bài báo
đề cập vào mỗi lần sửa đổi Luật Doanh nghiệp, thể hiện qua các bài viết về những điểm
Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing.
*
296 -
- mới của Luật Doanh nghiệp, về hiệu quả thực tế mà đạo luật mang lại. Bài viết này cùng
chủ đề nghiên cứu đó nhưng có sự liên kết, hệ thống hóa những thành tựu của đổi mới tư
duy quản lý kinh tế, theo chiều dài lịch sử của các đạo luật về doanh nghiệp. Bài viết dựa
trên cơ sở lý thuyết chủ yếu là quyền tự do kinh doanh của con người, ngọn cờ cho những
sáng tạo lập pháp về doanh nghiệp.
Chủ trương xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường chính là nền tảng quan trọng nhất cho việc ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kinh
doanh, là điều kiện ra đời của quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam. Từ khi thực hiện công
cuộc “Đổi mới”, Quốc hội đã khẩn trương ban hành các đạo luật ghi nhận và đảm bảo
quyền tự do kinh doanh của công dân Việt Nam và người nước ngoài như Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam 1987, Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990.
Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh trở thành một quyền hiến định ở
Việt Nam:“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (Điều 57),
và quyền này tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp mới (năm 2013) với phạm vi rộng
và rõ hơn: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm” (Điều 33). Quy định này hàm chứa hai tuyên bố quan trọng: i) mọi người có
quyền tự do kinh doanh; ii) giới hạn của quyền tự do đó là những gì luật cấm. Hiện thực
hóa các quyền tự do kinh doanh tại Hiến pháp, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ngày
càng được hoàn thiện, thể chế hóa các quan điểm quản lý kinh tế tiến bộ của Nhà nước ta,
với mục tiêu tôn trọng quyền con người trong kinh doanh, nhằm giải phóng hết khả năng
sáng tạo của cá nhân, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định tính kết hợp phương pháp so sánh luật
học để làm rõ những thay đổi của Luật Doanh nghiệp qua mỗi lần sửa đổi. Phương pháp
lịch sử được sử dụng để đánh giá các quy định của Luật Doanh nghiệp trong quá khứ,
gắn với bối cảnh và điều kiện xây dựng và thực hiện pháp luật kinh tế của đất nước lúc
đương thời.
4. Kết quả đạt được của các đạo luật về doanh nghiệp qua các kỳ sửa đổi
Đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước không thể không kể đến vai trò của
của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kinh tế, ngày càng tăng về số lượng và hoàn thiện
về chất lượng, cung cấp một khuôn khổ pháp lý hiện đại cho các quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của các đạo luật về doanh nghiệp không nằm ngoài xu thế
chung đó, phản ánh đậm nét những cải cách tích cực trong tư duy quản lý kinh tế của Nhà
nước, nổi bật là các thành tựu chủ yếu sau:
- 297
- a. Tháo gỡ các rào cản gia nhập thị trường
Đoạn tuyệt với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, ghi nhận tư cách pháp lý
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nghĩa là sẵn sàng đón nhận sự ra đời của hàng loạt
các doanh nghiệp dân doanh trong điều kiện kinh nghiệm quản lý nhà nước chưa nhiều.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, khi xây dựng Luật Doanh nghiệp 1999, Nhà nước không thực
hiện chủ trương “quản được đến đâu mở đến đó” mà là “cản đến đâu gỡ đến đó”. Điều này
không những thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường
mà còn trong cả “dọn dẹp” tư duy quản lý cũ. Thể hiện rõ nét mục tiêu này là các quy định
nhằm tháo gỡ các rào cản gia nhập thị trường, để khu vực tư nhân không ngần ngại bỏ vốn
kinh doanh. Trước khi có Luật Doanh nghiệp 1999, thủ tục thành lập doanh nghiệp phải
trải qua 2 bước là: i) thành lập doanh nghiệp tại UBND cấp tỉnh; và ii) đăng ký kinh doanh
tại Trọng tài kinh tế nhà nước. Thời gian trung bình cho việc thành lập một doanh nghiệp
là từ 3 đến 6 tháng, thậm chí đến gần 1 năm với nhiều loại giấy tờ khác nhau. Chẳng hạn
như điều 15 Luật Công ty 1990 quy định: “Công dân, tổ chức có quyền tham gia thành
lập công ty phải có các điều kiện sau đây mới được cấp giấy phép thành lập: 1) Mục tiêu,
ngành, nghề kinh doanh rõ ràng, có phương án kinh doanh ban đầu; có trụ sở giao dịch;
2) Có vốn điều lệ phù hợp với quy mô và ngành, nghề kinh doanh. Vốn điều lệ không được
thấp hơn vốn pháp định do Hội đồng bộ trưởng quy định; 3) Người quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn tương ứng mà pháp luật đòi hỏi đối với một
số ngành, nghề”. Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, doanh nghiệp chỉ mất từ 4
tuần cho đến 6 tuần để thành lập với yêu cầu về hồ sơ đơn giản hơn nhiều (bao gồm đơn,
điều lệ, danh sách thành viên).
Nối tiếp tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 đã bãi bỏ
những thủ tục không còn cần thiết, như bỏ yêu cầu doanh nghiệp phải đăng ký mẫu dấu
trước khi sử dụng; bỏ yêu cầu báo cáo thay đổi thông tin người quản lý doanh nghiệp. Chế
độ gửi thông tin cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập chi nhánh, đặt địa điểm kinh
doanh mới cũng không cần phải thực hiện. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể hơn,
rõ hơn trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh (khoản 2 và 3 điều 15); điều kiện cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (điều 24); rút ngắn hơn thời hạn cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (còn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ) (khoản 2 điều 15), đồng
thời, quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với từng loại hình
doanh nghiệp (từ điều 16 đến điều 20).
Tuy vậy, theo Luật Doanh nghiệp 2005 doanh nghiệp vẫn còn phải hoàn thành 5 thủ
tục hành chính để có thể bắt đầu kinh doanh: i) đăng ký doanh nghiệp; ii) làm dấu tại cơ sở
khắc dấu; iii) thông báo mẫu con dấu; iv) mở và thông báo việc mở tài khoản; v) xin các
loại giấy tờ thỏa các điều kiện kinh doanh. Ngoài ra, một số thủ tục hành chính khác thực
298 -
- sự không rõ mục tiêu quản lý vẫn còn tồn tại trong luật như: yêu cầu về báo cáo thông tin
của người quản lý công ty, yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh thường xuyên gửi thông
tin về đăng ký doanh nghiệp cho tất cả quận, huyện, thị xã...
Những tồn tại của Luật Doanh nghiệp 2005 đã được tiếp tục khắc phục trong Luật
Doanh nghiệp 2014. Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ các yêu cầu về điều
kiện kinh doanh tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp. Thay vào đó, sau khi được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được phép kinh doanh ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện kinh doanh
theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Với quy định này, Luật Doanh nghiệp 2014 đã
chuyển cơ chế đăng ký thành lập doanh nghiệp từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, tạo điều
kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư nhanh chóng được tham gia “sân chơi”. Rõ ràng,
so Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 thì quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014 là một bước tiến dài, thể hiện những chuyển biến mạnh mẽ và cụ thể tư duy
quản lý từ “ dễ quản lý” sang “dễ doanh nghiệp”.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường cho doanh nghiệp chỉ còn ba ngày làm việc
(khoản 2 điều 27). Điều này có được là nhờ hệ thống đăng ký thuế sẽ tự động tạo mã số
thuế mà không cần sự kiểm tra, xem xét của cán bộ đăng ký thuế. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý doanh nghiệp không những giảm bớt thủ tục phiền hà, mà còn minh
bạch hóa quá trình gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp 2014 đã trao việc quyết định về hình thức, số lượng và
nội dung con dấu cho doanh nghiệp. Cụ thể, điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh
nghiệp” (khoản 1). “Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với
cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp” (khoản 2). Bởi vì các nhà làm luật nhận thức rằng, con dấu của doanh
nghiệp chỉ mang tính chất là dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự thiết kế.
Quy định này công nhận quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có việc công
nhận quyền tự sáng tạo mẫu dấu; Nhà nước cũng không hướng tới việc quản lý chặt chẽ đối
với con dấu như quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 (phải lưu giữ và bảo quản tại trụ sở
chính của doanh nghiệp), Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép Điều lệ công ty quy định việc
quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu.
Những thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2014 đã mang lại những kết quả tích cực
trong thực tế. Trong nửa cuối năm 2015 đã có 46.740 doanh nghiệp đăng ký thành lập với
tổng số vốn đăng ký 302.674 tỷ đồng, tăng 24,5% về số doanh nghiệp và tăng hơn 50% về
số vốn đăng ký mới so cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2015
- 299
- là 93.868, là số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lớn nhất từ trước tới nay. Đóng
góp của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã lên gần 50% GDP (Tư Giang, 2016).
Những đổi mới về quản lý con dấu của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp 2014
vẫn chưa dừng lại. Luật Doanh nghiệp 2020 đã bãi bỏ điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014
về việc doanh nghiệp phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh; đồng
thời, việc quản lý và lưu giữ dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế
do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu
ban hành (điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020). Cải cách này giảm bớt rất nhiều sự vướng
mắc trong sử dụng con dấu ở ngoài trụ sở chính của doanh nghiệp trong thời gian vừa qua.
Người đại diện theo pháp luật có thể mang con dấu đi bất kỳ địa điểm nào để tiện cho việc
quản lý và sử dụng, mà không lo đã làm trái quy định của pháp luật.
Như vậy, với những cải cách mà các đạo luật doanh nghiệp mang lại, quyền tự do
thành lập doanh nghiệp đã đạt những bước tiến đáng kể với thủ tục ngày càng đơn giản, ít
tốn kém hơn, những trở ngại trong gia nhập thị trường đã được liên tục giải phóng.
b. Mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp
Pháp luật tôn trọng và bảo hộ tích cực quyền tự do kinh doanh của công dân đồng
nghĩa với việc mở rộng ngày càng nhiều quyền tự chủ của doanh nghiệp như: quyền tự
do lựa chọn mô hình kinh doanh, quyền tự do lựa chọn loại hình tổ chức kinh tế, quyền
tự do lựa chọn hình thức, cách thức huy động vốn; quyền tự do cạnh tranh lành mạnh,...
Nói cách khác, khác với nền kinh tế bao cấp, Nhà nước không can thiệp vào công việc của
doanh nghiệp mà chỉ là “bà đỡ” về chính sách, còn chính doanh nghiệp là “chiến binh” trên
thương trường, tự chịu trách nhiệm cho sự hoạt động của mình. Quy định như vậy không
những giảm đáng kể chi phí tuân thủ thực hiện thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính
chủ động, linh hoạt cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Luật Doanh
nghiệp 2014 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có hơn một
người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 13). Dưới góc độ đảm bảo quyền tự do kinh
doanh, việc cho doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp
luật giúp tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng được mọi cơ
hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật. Đồng thời, quy định này cũng giải
quyết tình trạng người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện
các yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành nội bộ doanh nghiệp
cũng như giao dịch với bên ngoài. Mặt khác, bằng quy định có nhiều hơn một người đại
diện, pháp luật triệt tiêu sự lạm quyền.
Quyền tự chủ của doanh nghiệp được Luật Doanh nghiệp 2020 tiếp tục mở rộng.
Công ty TNHH 2 thành viên có 11 thành viên trở lên không bắt buộc phải có Ban kiểm soát.
Điều 54 Luật Doanh nghiệp quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên
300 -
- là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này và công
ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này phải
thành lập Ban kiểm soát; các trường hợp khác do công ty quyết định”. Như vậy, luật đã để
cho khu vực tư nhân tự quyết định khi nào cần thành lập hay là thuê tổ chức bên ngoài làm
cơ quan kiểm soát. Điều này thể hiện, pháp luật quan niệm cơ cấu của doanh nghiệp là câu
chuyện nội bộ của doanh nghiệp, doanh nghiệp biết cần tổ chức các cơ quan quản lý như
thế nào cho hiệu quả và tự chịu trách nhiệm cho những quyết định của mình.
Hiệu quả của Luật Doanh nghiệp 2020 trong thực tế thể hiện ở sự gia tăng số lượng
doanh nghiệp thành lập mới và số vốn đăng ký kinh doanh– một trong các điểm sáng kinh
tế trong 4 tháng đầu năm 2021, trước khi bùng phát đợt dịch Covid hiện nay. Có 44.166
doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 627,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17,5% về
số doanh nghiệp và tăng 41% vế số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp
thành lập mới tăng cao nhất trong các năm 2017 – 2021 và tăng ở tất cả các ngành kinh tế.
Bên cạnh nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, những kết quả trên có được là nhờ các biện
pháp cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp được thực hiện mạnh mẽ
trong thời gian qua (Tổng cục Thống kê, 2021).
c. Nâng cao mức bảo vệ cổ đông/chủ sở hữu/thành viên thiểu số
Để doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh an toàn, thu hút vốn đầu tư thì cổ
đông/chủ sở hữu/thành viên phải được bảo vệ tốt. Các quy định của pháp luật về bảo vệ cổ
đông phải đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông; kiểm soát được các xung đột lợi
ích; quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông nhỏ không bị cổ đông lớn hoặc người quản lý
công ty xâm hại; cổ đông dễ dàng khởi kiện người quản lý khi vi phạm trách nhiệm trong
điều hành công ty.
Luật Doanh nghiệp 1999 và sau đó được bổ sung, sửa đổi bởi Luật Doanh nghiệp
2005 cũng còn một số khiếm khuyết khi chưa có những quy định cụ thể để bảo vệ cổ đông
hay người góp vốn thiểu số. Chẳng hạn, luật không quy định cổ đông được quyền: yêu cầu
công ty cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty; khởi kiện Hội đồng quản
trị; yêu cầu Tòa án xem xét miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát
trong trường hợp cần thiết; yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc Tòa án
hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị…Sự thiếu vắng trong
pháp luật những quyền quan trọng này của cổ đông chẳng khác nào khiến cho các nhà đầu
tư, đặc biệt là các đầu tư nhỏ không có “tấm khiên” sống còn để bảo vệ quyền lợi của mình,
không có công cụ chuyên dụng để đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của
các nhà quản lý hoặc cổ đông khác.
Luật Doanh nghiệp 2014 cũng vậy, tuy đã có những cải cách lớn nhưng vẫn tồn tại
một số quy định chưa thực sự tạo thuận lợi cho cổ đông thực hiện quyền của mình; một số
- 301
- quy định cản trở cổ đông bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình hoặc bị cổ đông lớn, công ty lạm
dụng gây thiệt hại. Ví dụ, khoản 2, điều 114, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục
ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền đề cử
người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị
quyết, báo cáo tài chính bán niên và hàng năm... Quy định này dẫn đến tình trạng nhà đầu
tư bỏ số vốn lớn, sở hữu tỷ lệ cổ phiếu đáng kể nhưng phải chờ sau 6 tháng mới có quyền đề
cử người tham gia kiểm soát, điều hành doanh nghiệp. Nguy hại hơn, trong một số trường
hợp, 6 tháng là thời gian đủ dài để các nhà quản lý có thể làm nhiều việc gây rủi ro và thiệt
hại cho các cổ đông mới. Thấu hiểu vấn đề này, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bãi bỏ điều
kiện “sở hữu cổ phiếu trong tối thiểu 6 tháng liên tục”. Thêm nữa, điều kiện “sở hữu cổ
phiếu trong 6 tháng” để thực hiện quyền khởi kiện của cổ đông, tại khoản 1 Điều 161 Luật
Doanh nghiệp 2014 cũng không còn (xem khoản 1 Điều 166 Luật Doanh nghiệp 2020).
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định rõ, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại
Điều lệ công ty có một số quyền như: xem xét sổ biên bản, nghị quyết, quyết định, báo cáo
tài chính của Hội đồng quản trị (khoản 2 Điều 115). So với mức 10% được quy định trong
Luật Doanh nghiệp 2014, tỉ lệ 5% nói trên là một bước tiến rất đáng quý trong kỹ thuật lập
pháp và là kết quả của sự lắng nghe tâm tư của cổ đông nhỏ. Bởi lẽ, việc tập hợp tỷ lệ 10%
gần như là bất khả thi với các cổ đông nhỏ, nhất là trường hợp các công ty chuyển đổi từ
quá trình cổ phần hóa, thường có tình trạng cổ phiếu “cô đặc”. Ðó là chưa kể với các doanh
nghiệp lớn như ngân hàng, các tập đoàn lớn,.. việc tập hợp đủ tỷ lệ 1% đã rất khó khăn, chứ
chưa nói đến một tỷ lệ cao hơn.
Một số quyền khác của các cổ đông cũng được bảo vệ đắc lực hơn trong Luật Doanh
nghiệp 2020. Khoản 1 điều 144 đã bãi bỏ việc uỷ quyền cho một người và không giới hạn
số lượng ủy quyền. Đặc biệt, tất cả cổ đông đều có quyền yêu cầu huỷ bỏ quyết định của
Hội đồng quản trị. Khoản 4 điều 153 quy định: trường hợp nghị quyết, quyết định do Hội
đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật, nghị quyết Đại hội đồng cổ đông,
Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty, cổ đông của công ty có quyền yêu cầu Tòa án
đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ nghị quyết, quyết định nói trên.
Những cải cách pháp lý về doanh nghiệp đã tác động rõ nét đến thứ bậc của nước
ta trên thế giới về chỉ số bảo vệ nhà đầu tư – chỉ số quan trọng nhất trong quản trị doanh
nghiệp: trước Luật Doanh nghiệp 2005, Việt Nam đứng thứ 159/169 thế giới về chỉ số
bảo vệ nhà đầu tư; sau khi có Luật Doanh nghiệp 2005 và tiếp đó là Luật Doanh nghiệp
2014, chỉ số này đã tăng 70 bậc, lên vị trí thứ 89/190 nước (Trung tâm Tư vấn, đào tạo và
Thông tin tư liệu – Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2019).
302 -
- d. Chuẩn hóa hoạt động quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế
Quản trị không chỉ là vấn đề thể chế mà là yếu tố quan trọng trong kinh doanh và phát
triển bền vững của chính doanh nghiệp. Quản trị yếu kém sẽ dẫn hậu quả khôn lường: xung
đột lợi ích không được kiểm soát, cổ đông nhỏ bị lạm dụng và chiếm đoạt lợi ích, một cổ
đông lớn chi phối toàn bộ hoạt động của công ty và bộ máy quản trị, quản lý bị vô hiệu,…
Khung quản trị doanh nghiệp được Luật Doanh nghiệp 2005 hoàn thiện hơn, rõ ràng
hơn và bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền và lợi ích của thành viên, cổ đông thiểu số, cụ thể: i)
Khung quản trị được thiết kế tùy theo loại hình doanh nghiệp và được áp dụng thống nhất
đối với tất cả các doanh nghiệp; ii) Xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý (điều
110, 111), đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng (điều 119); quy định rõ
điều kiện và tiêu chuẩn của một chức danh quản lý quan trọng trong công ty (điều 57, 116);
iii) Tăng thêm quy định yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là đối với những người
quản lý; iv) Nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn vai trò, vị trí và trách nhiệm của
Ban kiểm soát; v) Tăng cường thêm các quy định về quản lý vốn, hạn chế nguy cơ lạm
dụng trách nhiệm hữu hạn.
Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2005 chưa có quy định xác định tư cách và thẩm
quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp
có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, các quy định về tiêu chuẩn,
điều kiện của Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên đối với doanh nghiệp nhà nước còn
thiếu rõ ràng và cao hơn so với hoàn cảnh và yêu cầu thực tiễn. Ví dụ, yêu cầu Trưởng Ban
kiểm soát phải làm việc “chuyên trách”, trong khi khái niệm “chuyên trách” lại không rõ
ràng. Khoản 2, Điều 164, Luật Doanh nghiệp yêu cầu Kiểm soát viên của công ty cổ phần
do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên. Tuy
nhiên, trong thực tế số lượng kiểm toán viên, kế toán viên không nhiều nên công ty rất khó
có được kiểm soát viên đáp ứng yêu cầu của Luật.
Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh là những tiêu chuẩn,
điều kiện để làm Giám đốc, Tổng Giám đốc được quy định tại khoản 2, Điều 65 của Luật
Doanh nghiệp 2014. Quy định này được cho là không cần thiết vì các chủ doanh nghiệp
khi trực tiếp làm giám đốc hay thuê giám đốc sẽ đủ sức đánh giá sự cần thiết của các chứng
chỉ, bằng cấp, kinh nghiệm quản trị trong lĩnh vực mà họ hoạt động.
Khắc phục các vấn đề liên quan đến quản trị doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 2020
tập trung vào hai điểm yếu nhất trong khung quản trị của Việt Nam để sửa đổi là: trách
nhiệm của người quản lý và cơ chế cho cổ đông khi khởi kiện người quản lý. Khoản 2 Điều
165 quy định: thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và người quản
lý khác vi phạm quy định về trách nhiệm của người quản lý công ty quy định tại khoản 1
Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2020 chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị
- 303
- mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba. Điều
này sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao quản trị và bảo vệ cổ đông thiểu số. Mặt khác, điểm
k, l, m khoản 2 Điều 138 quy định thêm một số quyền hạn cho Đại hội đồng cổ đông như:
quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho Hội đồng quản trị,
Ban kiểm soát; Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động của Hội đồng quản
trị, Ban kiểm soát; Phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm
toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn Kiểm toán viên độc lập khi
xét thấy cần thiết.
Tóm lại, Luật Doanh nghiệp 2020 không chỉ tiếp tục kế thừa, phát huy kết quả và tác
động tốt của các cải cách trong các Luật Doanh nghiệp 2000, 2005 và 2014 mà tiến thêm
một bước, nâng cấp mạnh mẽ khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực
quốc tế. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp chỉ đưa ra khung pháp lý tối thiểu, doanh nghiệp
cần phải tuân thủ theo Bộ Nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát
triển để có được một nền quản trị thực sự tốt. Đây cũng là một điều không đơn giản đối với
nhiều doanh nghiệp.
5. Những thách thức và yêu cầu tiếp theo trong xây dựng và thực hiện Luật
Doanh nghiệp
Mặc dù các quy định của Luật Doanh nghiệp không ngừng được cải cách để đem lại
môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn, chi phí thấp hơn cho doanh nghiệp; tuy
nhiên, thực tiễn thực thi Luật Doanh nghiệp trong những năm qua cho thấy nhiều rào cản,
thách thức vẫn hiện diện; đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện Luật Doanh nghiệp trong tương
lai. Thứ nhất, dù luật đã mở nhưng một số ngành thì vẫn áp dụng nguyên tắc “không quản
được thì cấm” để kiểm soát, hạn chế đáng kể quyền tự do kinh doanh. Ví dụ, đáng lý ra,
thực hiện Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư, từ ngày 01/7/2016, khoảng 3500 loại
“giấy phép con” (tức là các điều kiện kinh doanh đã quy định tại các Thông tư, Quyết định
của các Bộ, ngành) phải bị bãi bỏ vì hết hiệu lực. Song trên thực tế, nhiệm vụ này diễn ra
rất chậm, thậm chí còn có tình trạng “lách luật” để bỏ giấy này, lại ban hành giấy khác, với
các điều kiện kinh doanh tương tự. Không ít những quy định từ giấy phép con đã được bỏ,
lại được đưa vào hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn của ngành,… Thứ hai, chi phí tuân thủ có
giảm nhưng vẫn còn cao, đặc biệt là chi phí không chính thức. Chẳng hạn, theo Báo cáo
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – PCI năm 2016, có đến 11% trong tổng số hơn 110.000 doanh
nghiệp được điều tra cho biết phải trả các chi phí không chính thức lên tới 10% tổng doanh
thu; 65% doanh nghiệp cho rằng tình trạng nhũng nhiễu của cơ quan quản lý các cấp khi
giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp diễn ra rất phổ biến. Thứ ba, hoạt động thanh kiểm tra
doanh nghiệp chủ yếu là nhằm phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà chưa
chú trọng đến việc hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật. Điều này có thể khiến
304 -
- cho Việt Nam trở nên kém hấp dẫn đối với cộng đồng doanh nghiệp nói chung và khó giữ
chân được các tập đoàn tư nhân mạnh nói riêng, yên tâm phát triển trên lãnh thổ đất nước.
Những tồn tại và bất cập trên cho thấy những quyết tâm và ý tưởng đổi mới quản lý
kinh tế của Nhà nước ta muốn thực hiện thành công hơn nữa thì rất cần sự đồng lòng, quyết
liệt của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, đặt lợi ích của sự phát triển kinh tế đất
nước lên hàng đầu. Đồng thời, bản thân doanh nghiệp và xã hội phải dũng cảm đấu tranh,
không tiếp tay cho các hành vi tiêu cực, đi ngược lại tiến trình trao trả quyền tự do kinh
doanh cho công dân và doanh nghiệp.
Kết luận
Thực tiễn áp dụng các Luật Doanh nghiệp từ khi ra đời cho đến nay đã chứng tỏ
các đạo luật này đã góp phần xóa bỏ rào cản về kinh doanh không phù hợp với kinh tế thị
trường, tạo cơ sở pháp lý cho cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng ngày càng thuận
lợi, minh bạch. Kết quả đó là nhờ quyết tâm đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng ta,
được thể chế thành pháp luật, với nhận thức đúng đắn rằng quyền tự do kinh doanh là của
công dân và doanh nghiệp, là quyền mà Nhà nước phải tôn trọng. Tuy nhiên, những quy
định tiến bộ của pháp luật rất cần bàn tay “sắt và sạch” của Nhà nước cùng sức mạnh của
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân để hoàn thành được các mục tiêu tốt đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quốc hội (1990). Luật Công ty, ban hành ngày 21/12/1990. http://vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-toanvan.
aspx?ItemID=1817
Quốc hội (1990). Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, ban hành ngày 21/12/1990. http://vbpl.vn/
TW/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=1816
Quốc hội (1999). Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10, ban hành ngày 12/6/1999. http://vbpl.vn/
TW/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=7040
Quốc hội (2005). Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11, ban hành ngày 12/12/2005. http://
vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?mode=detail&document_
id=29656
Quốc hội (2014). Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ban hành ngày 26/11/2014. http://
vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_
page=1&mode=detail&document_id=178115
Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, ban hành ngày 17/06/2020. http://
vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_
page=1&mode=detail&document_id=200447
Tư Giang (2016). Phía sau một đạo luật làm thay đổi Việt Nam. Báo Đấu thầu Online, số ra ngày
12/02/2016. https://baodauthau.vn/phia-sau-mot-luat-lam-thay-doi-viet-nam-post9507.html
- 305
- Tổng cục Thống kê. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/05/doanh-nghiep-
dang-ky-thanh-lap-moi-tang-ca-ve-so-luong-va-so-von-dang-ky-trong-4-thang-dau-
nam-2021/, truy cập ngày 25/8/2021.
Trung tâm Tư vấn, đào tạo và Thông tin tư liệu – Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(2019). Hội thảo: “20 năm Luật Doanh nghiệp: Thành tựu, bài học và yêu cầu cải cách”.
http://ciem.org.vn/tin-tuc/6609/hoi-thao-20-nam-luat-doanh-nghiep-thanh-tuu-bai-hoc-va-
yeu-cau-cai-cach?newsgroup=TIN%20T%E1%BB%A8C%20-%20S%E1%BB%B0%20
KI%E1%BB%86N%09, truy cập ngày 17/8/2021.
306 -
nguon tai.lieu . vn