Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014 ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGUYỄN THỊ KIM NGÂN(*) TÓM TẮT Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản là sự nối dài của giáo dục phổ thông, cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục đại học vừa phải cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có chuyên môn, có bản lĩnh, có óc sáng tạo và tư duy phê phán, đồng thời có tinh thần phản biện, ý thức trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề của đất nước, của dân tộc. Muốn hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy, học tập và đánh giá, xây dựng trường đại học thành môi trường tự do học thuật, môi trường văn hóa. Từ khóa: giáo dục đại học, giáo dục phổ thông, nguồn nhân lực, tư duy phê phán, phương pháp giảng dạy ABSTRACT Higher education is neither the lengthening-link of the general education nor vocational training. The higher education functions as a source providing the society with a great number of labors of high quality and at the same time, forms the contingent of intellectuals imbued with professional quality, skill and spirit combined, a creative and critical thinking, as well the consciousness of the problems of the country. Fulfil the commission, universities have to change the way of management, innovate the syllabuses, the curricula, the teaching methods, and the way of evaluation. Universities will be formed as a cultural and academic environment. Keywords: higher education, general education, labor source, critical thinking, teaching methods Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng bật đèn xanh, được phép thay đổi cách tổ lần thứ 8 về “Đổi mới căn bản và toàn diện chức nhà trường, cách tuyển sinh, thi cử, giáo dục” đã định hướng và mở ra những cách đánh giá để có thể đào tạo tốt hơn và cơ hội mới cho giáo dục Việt Nam nói đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực chung và giáo dục đại học nói riêng. cho sự phát triển đất nước. Những năm qua (*) Trước hết, được đổi mới một cách căn giáo dục đại học Việt Nam đã chịu quá bản và toàn diện chính là nguyện vọng của nhiều ràng buộc, ràng buộc từ bên trên và bản thân giáo dục đại học. Những người ràng buộc tự chính mình. Vì vậy bây giờ làm công tác quản lí cũng như giảng dạy ở được đổi mới căn bản và toàn diện là niềm trường đại học từ lâu đã mong ước được vui của những người làm công tác giáo dục đại học. (*) TS, Trung tâm Thông tin – Truyền thông Nhưng đồng thời đổi mới cũng yêu & Phát triển Giáo dục, Trường Đại học Sài Gòn 75
  2. ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC cầu, đặt ra những thách thức cho giáo dục Thứ hai, GDĐH thường được đồng đại học, bởi vì không phải ai khác mà nhất với giáo dục nghề nghiệp, xem nhiệm chính giáo dục đại học phải tự biết mình vụ cơ bản của trường đại học chỉ là đáp phải làm gì để thay đổi, phải thay đổi cái gì ứng nhu cầu ngành nghề của nền kinh tế. và thay đổi như thế nào. Đây mới chính là Chúng ta đều biết trường đại học ra đời cái khó, cái lõi của việc thực hiện chủ một phần là do nhu cầu đòi hỏi nguồn nhân trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo lực cao của sự phát triển kinh tế - xã hội. dục đại học. Thực tế cho thấy có rất nhiều Nhưng đó không phải là tất cả. Đã có một thứ ngăn cản sự phát triển của giáo dục thời gian rất dài ở nước ta, nhà trường chủ không phải lúc nào cũng xuất phát từ bên yếu đào tạo người để ra làm quan, giúp đời, trên hay bên ngoài, mà nằm ngay trong giúp nước. Đó không phải là sai lầm hoàn chính bản thân giáo dục. Lấy ví dụ chuyện toàn. Bởi vậy, nếu chỉ xem trường đại học tuyển sinh đại học. Rất nhiều năm Bộ GD- như nơi đào tạo những thợ bậc cao, những ĐT tổ chức theo kiểu “ba chung”. Dĩ nhiên chuyên gia lành nghề thì vô tình đã làm thi “ba chung” cũng có một số cái lợi, mất đi một phần sứ mệnh quan trọng của nhưng nhìn trong tổng thể nó có quá nhiều giáo dục và điều đó dẫn đến những thiếu nhược điểm. Nhiều người cho rằng “ba sót trong đào tạo đại học. Chúng ta thử lấy chung” đáng lẽ phải “cáo chung” từ lâu. ví dụ trong việc đào tạo giáo viên. Sau khi có Nghị quyết của Trung ương về Vừa qua có khá nhiều cuộc thảo luận Đổi mới giáo dục, từ năm 2014, Bộ GD- về chất lượng người thầy và công tác đào ĐT bắt đầu triển khai tuyển sinh theo cách tạo giáo viên. Nhiều ý kiến cho rằng phần phối hợp “ba chung” với việc cho phép các đông giáo viên đứng lớp hiện nay chỉ là trường tự tuyển sinh riêng. Đó là một bước “thợ dạy” chứ chưa phải là thầy giáo đúng tiến. Những việc cụ thể như vậy tự bản nghĩa của nó. Dĩ nhiên bản thân công việc thân giáo dục đại học có thể làm rất nhiều. của người “thợ dạy” nếu làm cho tốt cũng Tuy nhiên, theo chúng tôi hiểu, đổi đã quý rồi và thực tế cho thấy ngay cả chỉ mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo làm “thợ dạy” thôi, nhiều giáo viên cũng không phải chỉ dừng ở những khâu cụ thể. chưa hoàn thành được. Tuy nhiên trường Nó phải bắt đầu trước hết trong nhận thức phổ thông là nơi dạy người, là môi trường về tính chất, sứ mạng của giáo dục đại học. để hình thành nhân cách và sự phát triển Ở nước ta lâu nay GDĐH thường được toàn diện của trẻ, ở đó trẻ em không chỉ hiểu không chính xác. Thứ nhất, nó được cần học chữ, nắm được những kiến thức hiểu như sự nối dài của giáo dục phổ phổ thông mà còn học cách sống, cách làm thông, một thứ phổ thông cấp 4, như nhiều người. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi người giáo người vẫn quen gọi. Sự khác nhau giữa phổ viên không thể chỉ biết cách truyền thụ thông và đại học không được hiểu như ở kiến thức như một người thợ lành nghề, mà tính chất việc học mà ở số lượng và độ khó còn phải là một nhà giáo dục. của tri thức. Học sinh và sinh viên không Lâu nay khi nói đến yêu cầu làm sao khác gì nhau. Chất lượng đào tạo ở đại học để nâng cao hiệu quả giáo dục của người kém, việc sinh viên không có khả năng tự thầy, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc học và ít tham gia nghiên cứu khoa học có bồi dưỡng cho SV sư phạm những kiến một phần bắt nguồn từ quan niệm này. thức về Tâm lí học, Giáo dục học. Những 76
  3. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN người tốt nghiệp các trường ĐH khác, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, không phải sư phạm, chỉ cần học thêm một có chuyên môn ngành nghề giỏi, vừa phải số chứng chỉ về sư phạm là được coi như là nơi đào tạo một đội ngũ trí thức có óc đủ điều kiện để đi dạy. Điều này hoàn toàn sáng tạo và tư duy phê phán, có văn hóa, không có gì sai. Những kiến thức về khoa có bản lĩnh, tinh thần phản biện và ý thức học giáo dục hết sức cần thiết cho giáo trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề viên. Trong một thời gian dài chúng ta đã của đất nước và dân tộc. Mỗi sinh viên tốt coi nhẹ khoa học giáo dục và công tác nghiệp trường đại học phải trở thành một nghiên cứu giáo dục. Điều này đã để lại người trí thức, chứ không phải chỉ là một một lỗ hổng lớn trong giáo dục nước ta. người chỉ có chuyên môn giỏi. Phẩm chất Tuy nhiên, để làm được công việc của trí thức ấy biểu hiện ở chỗ người sinh viên người thầy - nhà giáo dục, có lẽ vẫn cần phải là người say mê hiểu biết, khát khao thêm một thứ gì đó rất quan trọng, mà theo chân lí, miệt mài, tận tụy trên con đường chúng tôi, đó chính là những phẩm chất học hỏi, khám phá và chống lại mọi thứ giả của người thầy, với tư cách là người trí dối, thiếu trung thực. Phẩm chất trí thức ấy thức, người có văn hóa. Người “thợ dạy” cũng biểu hiện ở chỗ người sinh viên có phiến diện hơn người thầy chính là ở chỗ khả năng dấn thân – dấn thân trong khoa này. Chữ THẦY ngoài ý nghĩa cao quý của học hay trong hoạt động xã hội - có tinh nó, còn bao hàm sự thông thái, hiểu biết thần bảo vệ công lí, thức tỉnh quần chúng ý toàn diện, thái độ bao dung dựa trên cơ sở thức về tự do và phẩm giá của con người. văn hóa, sự kết hợp hài hòa giữa tri thức và Trường đại học phải vừa cung cấp cho nền nhân cách. Có như thế mỗi thầy cô giáo kinh tế những người có khả năng tạo ra mới có thể trở thành nhà giáo dục. Người năng suất lao động cao, vừa tạo ra cho xã thầy truyền thụ kiến thức cho học sinh hội một đội ngũ trí thức có khả năng đi đầu bằng hiểu biết chuyên môn của mình, trong việc nhận thức con đường phát triển nhưng tác động đến trẻ em bằng cách hành của xã hội và lôi kéo, tác động vào quần xử, bằng nhân cách của chính bản thân chúng. Đây mới thực sự là sứ mạng cao cả mình, mà cách hành xử này phụ thuộc rất của trường đại học. nhiều vào vốn văn hóa, phẩm chất đạo đức, Để thực hiện được sứ mạng này, giáo sự am hiểu con người. Không có được dục đại học tự mình phải đổi mới căn bản những điều này, người đi dạy khó làm tròn và toàn diện nhiều khâu, nhiều mặt. trách nhiệm của nhà giáo dục đúng theo Trước hết, về chương trình và nội dung nghĩa của nó. Kinh nghiệm cho thấy xưa đào tạo, cần giúp sinh viên mở rộng tầm nay những nhà sư phạm lớn đều là những nhìn và hiểu biết về thế giới, về xã hội và nhà văn hóa, những trí thức lớn. con người, rộng hơn ngành nghề chuyên Đổi mới căn bản và toàn diện GDĐH môn của mỗi người. Sinh viên tốt nghiệp yêu cầu đổi mới hàng loạt vấn đề, nhưng đại học khác một người thợ lành nghề ở một trong những vấn đề hàng đầu là phải chỗ anh ta có nhãn quan rộng hơn, hiểu đổi mới ngay chính nhận thức về sứ mạng biết về những khả năng ở phía trước và của nó. Đây là cái gốc, là vấn đề của mọi luôn hướng tới những khả năng đó. Về vấn đề. Cần phải nhận thức sâu sắc và đầy phương diện này, những kiến thức chung đủ rằng trường đại học vừa phải là nơi của một khối ngành, đặc biệt là những kiến 77
  4. ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC thức về khoa học xã hội và nhân văn là hết Cuối cùng, về phương diện quản lí vĩ sức cần thiết, nhất là đối với sinh viên các mô, nên tách đào tạo cao đẳng và cao đẳng trường khoa học tự nhiên và công nghệ. nghề ra khỏi giáo dục đại học, hợp nhất với Phải thừa nhận rằng những năm qua việc hệ thống trung cấp chuyên nghiệp và trung đưa vào giảng dạy chương trình giáo dục cấp nghề thành khối giáo dục chuyên đại cương tuy đúng hướng nhưng chưa nghiệp. Đó cũng là một cách để giáo dục mang lại kết quả mong muốn. Một phần là đại học trở nên “thuần túy” đại học hơn, do nội dung, một phần do cách giảng dạy. góp phần nâng cao tính đại học của trường Thứ hai, phải đổi mới triệt để phương đại học. pháp dạy và học. Phải đoạn tuyệt triệt để Đổi mới nhận thức về sứ mạng của với lối học ở phổ thông, phát huy tính tự giáo dục đại học không phải là vấn đề dễ học, tự mình quyết định và điều khiển việc dàng, bởi vì nó gắn liền với nhận thức, mà học của mình. Thầy giáo cũng phải khắc nhận thức thường có xu hướng bảo thủ, phục triệt để lối dạy áp đặt, khuyến khích chậm thay đổi. Cái khó nữa còn nằm ở chỗ, sinh viên độc lập suy nghĩ, tự do nghiên đổi mới nhận thức về sứ mạng của đại học cứu, khám phá. không phải chỉ là công việc nội bộ riêng Thứ ba, phải tạo ra một môi trường tự của ngành giáo dục. Nó phụ thuộc rất nhiều do học thuật, môi trường văn hóa trong từ trên và từ bên ngoài, muốn làm được trường đại học. Muốn làm được điều này phải có sự chấp nhận từ trên và sự cần khuyến khích sinh viên nghiên cứu đồng thuận từ bên ngoài. Tuy nhiên, những khoa học. Nghiên cứu là đi tìm. Chỉ khi đi tranh luận về triết lí có con đường của nó tìm người ta mới có nhu cầu về tự do, tự do mà những đổi mới thực tiễn cũng có suy nghĩ, tự do tìm kiếm, tự do được viết ra con đường riêng của mình. Bằng cách đổi những điều mình khám phá. Nghiên cứu mới triệt để chương trình và nội dung khoa học là cơ hội để hình thành ý thức về giảng dạy, phương pháp giảng dạy và tự do sáng tạo và bản lĩnh của người trí học tập, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và thức. Muốn sinh viên trở thành người trí thúc đẩy tự do học thuật theo hướng nêu thức, phải cho sinh viên được sống trong trên, trường đại học cũng có thể từng bước môi trường trí thức, môi trường văn hóa. thực hiện được sứ mạng của mình mà có Trường đại học của chúng ta hiện nay chưa thể không cần vượt qua những tranh cãi về có được đầy đủ tính chất của môi trường ấy. sứ mạng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh: 1. Harvard Kennedy School Vietnam Program (2010), “Beyond the Apex: Toward a System Level Approach to Higher Education Reform in Vietnam.” Retrieved fromhttp://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=1550645 2. Hayden, Martin and Dao Van Khanh (2010). “Private Higher Education in Vietnam,”’ in Harman, G, Hayden, M and Nghi, P.T. (eds), Reforming Higher Education in Vietnam: Challenges and Priorities, Springer, Dordrecht, Netherlands, 215-225. 78
  5. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN 3. Horn, Michael (2014, March 4). “Intel Integrates Backward To Improve Vietnamese Education.” Forbes. Retrieved from http://www.forbes.com/sites/michaelhorn/2014/03/04/intel-integrates-backward-to- improve-vietnamese-education-society 4. McCornac, Dennis (2012). “The Challenge of Corruption in Higher Education: The Case of Vietnam. Asian Education and Development Studies, Volume 1 No. 3, 262 – 275. 5. Ozturk, Ilhan (2001). “The Role of Education in Economic Development: A Theoretical Perspective.” Journal of Rural Development and Administration, Vol. XXXIII, No. 1, 39-47. S 6. Pham, Hiep (2014). “Aiming for at Least One World-Class University by 2020.” University World News. Retrieved fromhttp://www.universityworldnews.com/ article.php?story=20140122154945702 Tiếng Việt: 1. Edgar Morin, Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, NXB Tri thức, Hà Nội 2008 2. Hồ Ngọc Đại, Nghiệp vụ sư phạm, NXB ĐH Sư phạm, Hà Nội 2009 3. J.J.Rousseau, Emile hay là về giáo dục, NXB Tri Thức, Hà Nội 2008 4. John Dewey, Dân chủ và giáo dục, NXB Tri thức, Hà Nội 2008 5. Lê Ngọc Trà, Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội 2008 6. Nicolas Sarkozy (Tổng thống Pháp), Thư gửi các nhà giáo nhân ngày khai trường, 4/9/2007, Phạm Toàn dịch. Văn bản nguồn http//media.education.gouv.fr * Nhận bài ngày: 27/5/2014. Biên tập xong: 5/6/2014. Duyệt bài: 12/6/2014. 79
nguon tai.lieu . vn