Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH Đổi mới giảng dạy các môn Lý luận Chính trị trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 Vũ Ngọc Hà Bộ môn Lý luận Chính trị, Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh * Email: minhkhuethanh@gmail.com, Mobile: 0984737862 Tóm tắt Từ khóa: Cách mạng 4.0 cũng như những cuộc cách mạng trước đó đã tác Cách mạng công nghiệp 4.0; động tới mọi mặt của đời sống xã hội với những mức độ và chiều Giảng dạy; Giáo dục; Lý luận hướng khác nhau. Giáo dục đại học là một trong những ngành chịu chính trị. ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của cuộc cách mạng 4.0 vì sản phẩm của đào tạo phải đáp ứng với nhu cầu của thị trường lao động đang có sự thay đổi nhanh chóng. Trước sự tác động mạnh mẽ từ CMCN 4.0 đến mọi mặt của đời sống xã hội, rất nhiều vấn đề mới nảy sinh theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực, Con người có thể bị dẫn đến xu hướng hoặc là cường điệu hóa vai trò của máy móc, robot, công nghệ, hoặc e dè, sợ sệt, không dám tìm hiểu, nghiên cứu những công nghệ mới nên dần đánh mất niềm tin vào khả năng của chính bản thân mình, không tin vào sức mạnh trí tuệ của con người; hoặc bị hoang mang, dao động do bị nhiễu loạn thông tin trên không gian mạng; hoặc do tâm lý a dua, hội chứng đám đông, tư tưởng chạy theo phong trào mà không cần quan tâm tìm hiểu rõ bản chất, nguyên lý hoạt động của cuộc cách mạng này. Do vậy, hoạt động giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học cần tập trung củng cố niềm tin, giữ vững sự ổn định về chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy sinh cho cả chủ thể lẫn đối tượng giáo dục trong các trường đại học một cách kịp thời.Và việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị ở trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh cũng cần chú ý và nhanh chóng bắt kịp vấn đề này. Thực trạng hoạt động giảng dạy các môn Lý luận chính trị ở Đại học Công nghiệp Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất là chưa bắt kịp với xu thế của cuộc cách mạng Công nghệ 4.0 do đó tác giả mạnh dạn chỉ ra một số các yêu cầu bức thiết cần phải giải quyết và một số các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ yêu cầu mới, giáo dục đại học Việt Nam còn cần đào tạo nên những con người có lòng yêu nước, có Trên thế giới, cuộc cách mạng công nghiệp lý tưởng xã hội chủ nghĩa, ý thức pháp luật và tinh 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi căn bản lối thần lập thân, lập nghiệp... Do đó, công tác giáo dục sống, phong cách làm việc, phương thức giao tiếp lý luận chính trị ở các trường đai học, cao đẳng nói của con người, thay đổi cơ cấu lao động và thị chung và trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh trường lao động... Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực nói chung đang đứng trước nhiều thách thức mới chịu sự tác động của cuộc cách mạng này nhanh trong việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng hơn cả bởi giáo dục tạo ra những phiên bản mới của dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, khơi các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo. Điều dậy hứng thú học tập của sinh viên... này đặt ra cho giáo dục đại học những thách thức vô cùng lớn, đó là nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực 2. CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 VÀ TÁC chất lượng cao, có khả năng thích nghi, đáp ứng ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN GIÁO DỤC yêu cầu mới mà phương pháp giáo dục đại học 2.1. Khái quát cách mạng công nghệ 4.0 truyền thống không đáp ứng được. Cùng với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 226
  2. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH Lịch sử nhân loại đã và đang trải qua bốn giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học". Nó sẽ cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh công nghiệp lần thứ nhất bắt nguồn từ động cơ học, Kỹ thuật số và Vật lý. Những yếu tố cốt lõi hơi nước cùng với sự bùng nổ của công nghiệp của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ thế kỷ XIX lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Kỳ, là cuộc cách mạng công nghiệp sử dụng năng Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, từ Cuộc cách mạng 4.0 không còn là dự đoán, khoảng 30 năm cuối của thế kỷ XIX đến khi thế hiện nay với sự ra đời liên tiếp của những robot chiến thứ nhất nổ ra, diễn ra khi có sự phát triển tự động mang trí tuệ nhân tạo, xe hơi tự lái, mạng của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép. xã hội… chúng ta đã cảm nhận được sự tác động của kỉ nguyên 4.0 đang rất rõ nét. Cuộc cách mạng công nghiệp này sử dụng điện năng để tạo ra sản xuất đại trà. Cuộc cách mạng 2.2. Tác động của CMCN 4.0 đến giáo dục Đại học công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào cuối thế kỷ XX với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự tin, sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu xuất hiện từ triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Làn sóng thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, là sự gắn kết công nghệ mới với sản xuất thông minh sẽ giúp giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới công nghệ phát triển và kéo theo năng suất tăng giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới cao. Nhưng để có thể áp dụng được “sản xuất sinh học. Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh” vào thực tiễn thì không thể thiếu thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong một nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là những các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là người lao động có năng lực tư duy, sáng tạo, đổi các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là công nghệ có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định thông tin và internet kết nối vạn vật, không chỉ dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu. giúp con người giao tiếp với con người, mà còn Những kỹ năng này phần lớn được hình thành từ là con người giao tiếp với máy, con người giao trong môi trường giáo dục, đặc biệt là ở bậc giáo tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau. [1] dục đại học. Tuy nhiên, những kỹ năng này ở phần lớn sinh viên các trường đại học ở Việt Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là xu Nam hiện nay đang thiếu và yếu. Đó cũng là hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công thách thức không nhỏ đối với các trường đại học nghệ sản xuất. Bản chất của cách mạng công ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, các trường đại học nghệ lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số cần phải có định hướng cụ thể để thích ứng với và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để thời cuộc, phải thay đổi tư duy về giáo dục, đổi tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mới mô hình, chương trình và phương thức đào mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động tạo theo hướng cách mạng công nghiệp 4.0. [2] lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, Để đáp ứng được xu thế của sự phát triển người máy,...Nó bao gồm các hệ thống không này, quá trình dạy và học ở các trường đại học gian mạng, Internet vạn vật và điện toán đám cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Đối với mây. Qua đó, người ta tạo ra những nhà máy quá trình dạy, giảng viên không chỉ dừng lại ở thông minh với hệ thống máy móc tự kết nối với việc dạy cho sinh viên cái mình đang có, mà phải nhau, tự tổ chức và quản lí. hướng tới dạy sinh viên sáng tạo ra cái mới. Học tập để cạnh tranh chứ không phải để lấy bằng cấp Điều khác biệt giữa cách mạng công nghệ như trước. Cần chuyển từ việc truyền thụ kiến 4.0 với ba cuộc cách mạng trước đó là cách mạng thức sang hình thành phẩm chất và phát triển công nghệ 4.0 không gắn với sự ra đời của một năng lực sinh viên; chuyển từ chủ yếu theo số công nghệ nào cụ thể mà là kết quả hội tụ của lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và nhiều công nghệ khác nhau, trong đó trọng tâm là hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân công nghệ nano, công nghệ sinh học và công cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách nghệ thông tin - truyền thông. Cuộc cách mạng với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển này trực tiếp nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh 227 * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
  3. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của việc học ở nhà của sinh viên... Đây quả thực cũng năng lực. Còn với việc học, cần chuyển từ học là một công việc mà không phải giảng viên nào thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận hay bài nào giảng viên cũng có thể làm được. dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Sinh viên có thể tiếp cận với nhiều nguồn Bên cạnh việc giảm tiết, nhiều trường đã thông tin khác nhau như: từ các giảng viên, từ thư thực hiện ghép lớp. Các lớp được học tại hội viện, từ các cuộc thảo luận, hội thảo khoa học, từ trường lớn với sĩ số lên tới trên 100, thậm chí 200 các cơ sở thực nghiệm và từ thực tiễn xã hội. Đặc sinh viên. Thành phần sinh viên thì đa dạng các biệt, với sinh viên là người lao động trong tương chuyên ngành, thậm chí cá biệt có sinh viên đại lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời học ngồi học cùng cao đẳng vì do có cùng nội bằng việc học cả đời để làm việc cả đời. dung và cùng số tiết. Những hệ lụy của việc học các môn học này càng to lớn. Do lớp đông nên 3. CÔNG TÁC GIẢNG DẠY CÁC MÔN giảng viên khó kiểm soát lớp học, giảng viên LLCT TRONG THỜI ĐẠI CMCN 4.0 không thể thực hiện các phương pháp dạy học 3.1. Thực trạng hoạt động giảng dạy các môn LLCT tích cực, thuyết trình trở thành “phương pháp vạn Mặc dù Đảng và Nhà nước rất quan tâm năng”, quan hệ tương tác giữa người dạy và và coi trọng giáo dục lý luận chính trị trong người học không thể thực hiện được. Một số sinh các trường đại học, cao đẳng, tuy nhiên, việc viên ngồi học theo kiểu có mặt điểm danh. Chất dạy và học tập các môn lý luận chính trị còn lượng dạy và học môn học bị giảm sút, kết quả chưa tương xứng, còn nhiều vấn đề bất cập... học tập thấp, điều đó càng làm cho sinh viên cảm thấy xa rời các môn lý luận chính trị. Một là, đặc thù các môn lý luận chính trị có tính trừu tượng, lại nặng về lý thuyết hàn lâm, Việc giảm tiết, ghép lớp đã làm giảm khối làm cho sinh viên ngại học lượng công việc của giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị; thêm vào đó, nhiều trường Thực tiễn đã có nhiều thay đổi, nhưng trong không tuyển sinh đủ sinh viên. Cho nên có nội dung các môn lý luận chính trị vẫn nặng tính trường, một năm, mỗi giảng viên chỉ dạy 1 lớp; hàn lâm, ít có sự bổ sung, phát triển, nhiều vấn đề có trường, giảng viên phải chuyển sang làm các về kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân công việc không đúng chuyên môn; thậm chí có chủ, nhân quyền, hội nhập quốc tế, kinh tế tri trường cho giảng viên nghỉ việc không lương và thức... còn rất mờ nhạt, làm cho sinh viên cảm vào danh sách cắt giảm biên chế. thấy khô khan, khó hiểu, xa rời thực tiễn. Điều đó dẫn tới việc sinh viên đã ngại học càng trở nên Ba là, trình độ và phương pháp giảng dạy “nản học” các môn lý luận chính chị. Giáo trình các môn lý luận chính trị còn nhiều hạn chế và tài liệu học tập được biên soạn lại theo một Để giảng dạy lý luận tốt, các giảng viên phải chương trình khung và chuẩn quốc gia. Các kiến có trình độ lý luận; đồng thời cần có vốn sống, thức được bố trí theo kiểu “nhồi nhét” và “chật vốn hiểu biết xã hội dầy dặn; không chỉ có kinh trội”. Tính gợi mở, tính mềm hóa bị thủ tiêu, làm nghiệm thực tiễn và mà còn cần có tư duy trừu cho người học khó lĩnh hội kiến thức. tượng hóa, khái quát hóa. Bên cạnh nhiều giảng viên đã sử dụng tốt giáo án điện tử, sơ đồ, biểu Hai là, thực hiện học chế tín chỉ đã làm cho đồ, hình ảnh, phim tư liệu; seminar, thảo luận vẫn thời lượng học giảm nhiều trong khi sinh viên còn một bộ phận không nhỏ giảng viên còn chậm chưa thực sự có ý thức tự học, tự nghiên cứu đổi mới phương pháp. Một số giảng viên sử dụng Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục đại giáo án điện tử chưa hiệu quả, theo kiểu chiếu học theo học chế tín chỉ, số tiết dạy - học trên lớp chữ trên màn hình. Ở một số trường, cơ sở vật của các môn lý luận chính trị giảm lớn. Thời lượng chất thiếu thốn, không có máy tính, máy chiếu, học trên lớp được ít, trong khi khối lượng kiến loa, tài liệu học tập... nên giáo viên khó áp dụng thức lại lớn, làm cho giảng viên không thể truyền phương pháp giảng dạy tích cực. Tình trạng thầy thụ được sâu sắc kiến thức môn học, lại càng cô đọc, trò chép vẫn còn nhiều. Giờ học thiếu không có điều kiện tổ chức học tích cực, còn sinh tính đối thoại làm cho các tiết giảng trở nên nhàm viên lĩnh hội kiến thức theo kiểu “cưỡi ngựa xem chán, sinh viên không hứng thú học tập. hoa”. Việc quy ước rằng sinh viên phải tự học, tự Bốn là, sinh viên thiếu hụt nền tảng kiến thức nghiên cứu ở nhà cũng là một điều khó. Việc học lịch sử, xã hội và ít trải nghiệm thực tiễn ở nhà, giảng viên phải giao bài tập, tổ chức thảo luận, semina, phải có tiêu chí kiểm tra đánh giá * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 228
  4. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH Để học tốt các môn lý luận chính trị, đòi hỏi hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới sinh viên phải có nền tảng kiến thức khoa học xã nảy sinh cho cả chủ thể lẫn đối tượng giáo dục hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây học trong các trường đại học kịp thời. sinh phổ thông ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội, nhất là môn lịch sử, trừ một số học sinh Thứ hai, góp phần xây dựng con người mới chọn khối thi đại học có các môn xã hội. Lỗ hổng với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp. về kiến thức xã hội ở phổ thông là một trở lực để Triết lý giáo dục của phương Tây đã khẳng các em sinh viên có thể tiếp thu kiến thức các định: Sự thiếu hụt (khiếm khuyết) về tài năng môn lý luận chính trị. Bên cạnh thiếu nền tảng hoàn toàn có thể bù đắp bởi đạo đức, song sự kiến thức xã hội, sinh viên Việt Nam còn ít trải thiếu hụt (khiếm khuyết) về đạo đức thì không nghiệm thực tiễn, ít hiểu biết về tình hình kinh tế, thể bù đắp bởi tài năng. Còn đối với văn hóa chính trị, xã hội quốc tế và trong nước nên càng phương Đông, trải qua bề dày mấy ngàn năm lịch khó khăn hơn khi học tập lý luận chính trị. sử, tư tưởng Nho giáo đã trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, ăn sâu, bám rễ vào đời sống nhân 3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc giảng dân thì vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho dạy các môn LLCT trong CMCN 4.0 con người rất được chú trọng, đề cao vì nó luôn Sự tác động của giáo dục 4.0 đến hoạt động được coi là nền tảng để hình thành nhân cách. giảng dạy LLCT trong các trường đại học hiện Trong xã hội hiện đại đang tồn tại một nghịch lý nay ở nước ta đang đặt ra những yêu cầu bức là khi kinh tế phát triển, đời sống ngày một được thiết cần phải giải quyết, đó là: nâng lên thì đạo đức của con người dường như lại lại càng ngày càng bị suy thoái, xuống cấp; niềm Thứ nhất, phải củng cố niềm tin, giữ vững ổn tin giữa con người với con người ngày càng giảm định chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng sút nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, giáo dục dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy LLCT với chức năng của mình cần phải tích cực sinh.Trước sự tác động mạnh mẽ từ CMCN 4.0 góp phần xây dựng con người mới với những đến mọi mặt của đời sống xã hội, rất nhiều vấn đề chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp (đạo đức mới nảy sinh theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực, công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp) nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới xuất cho cả cán bộ, giảng viên và sinh viên. Bởi vì, hiện, nhiều ngành nghề mới ra đời trong chương cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học - trình đào tạo của các trường đại học,... nên rất dễ công nghệ, sự phát triển “nóng” của nền kinh tế làm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên (nhất là thị trường khi “chủ nghĩa cá nhân” hay “dục những người trình độ chuyên môn hạn chế, tư vọng” của con người được “kích hoạt” thì họ có duy thủ cựu, sống an phận) và sinh viên đại học thể tìm mọi cách để lách luật, vượt luật với rất bị “choáng” trước sức mạnh của “công nghệ”, nhiều mánh khóe, thủ đoạn (nhất là khi được sự dẫn đến xu hướng hoặc là cường điệu hóa vai trò hậu thuẫn, hỗ trợ về mặt công nghệ hiện đại một của máy móc, robot, công nghệ, chạy theo thuyết cách rất tinh vi) để lừa lọc, biến của công thành “kỹ trị” mà không hiểu được bản chất của kỹ của tư, lũng đoạn kinh tế, làm giàu bất chính... thuật, công nghệ chỉ là công cụ để con người tồn mà gần như luật pháp không thể can thiệp được, tại và phát triển; hoặc do tư tưởng bảo thủ, trì trệ song đạo đức lại hoàn toàn có thể điều chỉnh mà e dè, sợ sệt, không dám tìm hiểu, nghiên cứu được một cách hiệu quả dựa trên sự tự nhận thức, những công nghệ mới nên dần đánh mất niềm tin tự giác ngộ để từ đó đánh thức lương tâm, danh vào khả năng của chính bản thân mình, không tin dự, trách nhiệm của mỗi người. vào sức mạnh trí tuệ của con người; hoặc là bị hoang mang, dao động do bị nhiễu loạn thông tin Thứ ba, trang bị thế giới quan, phương pháp trên không gian mạng thông qua các công cụ luận khoa học, thúc đẩy đổi mới phương pháp truyền thông, các mạng xã hội...; hoặc do tâm lý dạy và học theo hướng tích cực, đẩy mạnh hoạt a dua, hội chứng đám đông, tư tưởng chạy theo động tự nghiên cứu, gắn chặt đào tạo với nghiên phong trào mà không cần quan tâm tìm hiểu rõ cứu một cách hiệu quả. bản chất của nó ra sao, nguyên lý hoạt động của nó như thế nào, để từ đó xử lý hay có sự lựa chọn Trước tác động mạnh mẽ, đa chiều của giáo dục 4.0 đến hoạt động đào tạo của các trường đại của riêng mình cho phù hợp. Do vậy, hoạt động giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học, ngoài việc củng cố thế giới quan, phương học cần tập trung củng cố niềm tin, giữ vững sự pháp luận khoa học cho sinh viên thì cũng rất cần ổn định về chính trị - tư tưởng, tăng cường định có sự cập nhật, đổi mới kịp thời về phương pháp giáo dục LLCT đối với cả người dạy và người 229 * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
  5. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH học để phát huy tính tích cực, chủ động của sinh phát triển của trí tuệ nhân tạo thì rôbốt đã bắt đầu viên, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự tham gia tích cực vào thị trường lao động để thực đào tạo. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hoạt động hiện các công việc phổ thông hay những công NCKH bằng cách trang bị cho sinh viên phương việc nguy hiểm thay cho con người. Với nguồn pháp nghiên cứu và những công cụ cần thiết, tạo học liệu gần như vô tận khai thác từ cơ sở dữ liệu môi trường thuận lợi để họ có thể chủ động sáng siêu việt thì rôbốt có thể đảm nhiệm công việc tạo ra những tri thức mới, góp phần bổ sung, phát của một giảng viên khi giảng dạy một số môn triển lý luận và nâng cao chất lượng, hiệu quả học như văn hóa, địa lý, lịch sử... Và ở các lĩnh giảng dạy LLCT cũng như đào tạo. vực nghề nghiệp như tư vấn pháp luật, kế toán và tư vấn thuế cũng có thể bị thay thế hoàn toàn bởi Thứ tư, phải cập nhật thường xuyên, kịp thời các rôbốt thông minh trong tương lai không xa. những thành tựu khoa học công nghệ nói chung, Vì thế, giáo dục lý luận chính trị trong các trường CNTT nói riêng cho cán bộ, giảng viên LLCT và đại học với chức năng hướng nghiệp, phải chỉ ra sinh viên để họ có đủ công cụ, phương tiện dạy cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên thấy và học một cách thông minh hơn. được xu thế phát triển của thời đại cùng với đó là Cơ sở của Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự dự báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để kết hợp giữa hai thế giới thật - ảo thông qua hệ định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng yêu thống phần mềm tương ứng của các thiết bị cầu nghề nghiệp mà xã hội cần, tăng khả năng CNTT, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy thích nghi và khả năng sáng tạo ra những nghề những kiến thức và kỹ năng về CNTT, kỹ thuật mới. Phải giúp cho sinh viên luôn có một tâm thế số, ngôn ngữ giao tiếp với máy tính và ngoại ngữ mở, biết biến thách thức thành cơ hội, biến ý có vai trò rất quan trọng đối với các cơ sở đào tạo tưởng thành hiện thực, luôn chủ động đổi mới, đại học cũng như mỗi sinh viên - vì đây là những sáng tạo trong công việc tương lai trước tác động công cụ hiện đại hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. giáo dục, đào tạo nói chung, cũng như giảng dạy 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG LLCT nói riêng trong điều kiện toàn cầu hóa và TÁC GIẢNG DẠY CÁC MÔN LLCT hội nhập quốc tế hiện nay. Do vậy, nhiệm vụ rất TRONG THỜI GIAN TỚI PHÙ HỢP VỚI quan trọng của các cơ sở đào tạo đại học hiện nay CMCN 4.0 là phải đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên và kịp thời những kiến thức liên quan nêu Từ những yêu cầu đặt ra đối với giảng dạy trên cho đội ngũ cán bộ, giảng viên LLCT LLCT trong các trường đại học dưới tác động của (những người vốn ít có điều kiện tiếp xúc trực nền giáo dục 4.0 nói chung trong đó có Đại học tiếp với khoa học công nghệ) và cho lực lượng Công nghiệp Quảng Ninh, để có thể đổi mới hoạt sinh viên (tạo ra động lực, phát huy tính tích cực, động này trong thời gian tới,cần thực hiện tốt một chủ động của người học) để họ có đủ công cụ, số giải pháp sau: phương tiện để có thể giảng dạy và học tập một Thứ nhất, về nội dung giảng dạy LLCT. cách thông minh trong môi trường Cách mạng Hiện nay môn Những nguyên lý cơ bản của chủ công nghiệp 4.0. nghĩa Mác - Lênin đã trả lại thành ba môn học Thứ năm, phải chỉ ra xu thế phát triển của như trước (gồm: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế thời đại cùng với đó là dự báo về sự chuyển dịch chính trị Mác - Lênin, CNXH khoa học) là phù cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động hợp với thực tiễn khách quan. Tuy nhiên trong đào tạo đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội điều kiện thực tiễn Cách mạng công nghiệp 4.0 cần và giúp cho sinh viên tốt nghiệp có khả năng hiện nay, một số quan điểm lý luận của chủ nghĩa thích nghi với sự biến động thường xuyên về việc Mác đã bị thực tiễn vượt qua, vì vậy cần nghiên làm trong tương lai. cứu bổ sung, phát triển nhằm bảo đảm “sức sống” cho lý luận Mác - Lênin. Đồng thời, trong từng Vấn đề “việc làm” và “thất nghiệp” là những môn học cụ thể giáo viên nên điều chỉnh nội vấn đề thường trực và mang tính thời sự trong dung theo hướng vừa bảo đảm giữ được những Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là giai đoạn vấn đề có tính nguyên lý của chủ nghĩa Mác - đầu khi lực lượng lao động chưa thích nghi và Lênin, vừa bổ sung thêm những vấn đề lý luận đáp ứng được ngay những điều kiện mới với yêu mới đã được thực tiễn kiểm nghiệm và đúc kết cầu khắt khe hơn của mỗi ngành nghề, cũng như qua hơn 34 năm đổi mới của Đảng. sự dịch chuyển lớn về cơ cấu lao động giữa các ngành nghề. Thực tế đã cho thấy, cùng với sự * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 230
  6. ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH Thứ hai, về phương pháp giảng dạy LLCT. thiết bị phần cứng, camera, cảm biến...) cho phù Do tính khái quát hóa, trừu tượng hóa của các hợp, hiện đại, đồng bộ để có thể kết nối vạn vật, môn LLCT rất cao, nên hầu hết sinh viên đều dạy - học online, hội thảo trực tuyến... trước hết thấy khó tiếp thu và hiểu được bản chất vấn đề. trong từng khoa, từng trường. Đồng thời, nên Nhất là với các sinh viên năm đầu, các em mới thường xuyên tổ chức đào tạo, hướng dẫn, tập bước vào trường đại học chưa có sự trải nghiệm huấn về kỹ năng quản lý, khai thác, sử dụng các thực tiễn nhiều, chưa có phương pháp học tập trang thiết bị CNTT, nhất là công tác bảo đảm an khoa học. Do vậy, để bảo đảm trang bị cho sinh toàn thông tin, an ninh mạng, cũng như cập nhật viên phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học những công nghệ mới cho cán bộ, giảng viên, phù hợp, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sinh viên để họ không bị “tụt hậu” trong cuộc đua nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh KHCN hiện nay. viên trong môi trường giáo dục 4.0 thì cần tăng cường giáo dục tính tự học, tự nghiên cứu của Trong xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu sinh viên. phục vụ cho hoạt động giảng dạy LLCT cần chú trọng phát triển hệ thống sách điện tử, kho Thứ ba, về hình thức thi đánh giá kết quả dữ liệu số để đồng bộ với hệ thống CNTT giảng dạy LLCT. Nếu như trước đây việc tổ chức nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu khai thác cơ sở thi chủ yếu để đánh giá kiến thức mà học viên, dữ liệu, sách điện tử cho người học, ngoài sinh viên thu lượm được, thì ngày nay các kỹ những công cụ mạnh hiện đang sử dụng và năng cần thiết (nhất là các kỹ năng mềm và kỹ phát huy tác dụng như internet, truyền hình, năng về CNTT) để sinh viên tốt nghiệp có thể phát thanh, báo chí... cũng cần quan tâm xây hoàn thành nhiệm vụ theo chuyên môn được đào dựng và phát huy tác dụng của các mạng xã hội tạo chính là vấn đề cần được quan tâm và chú như Facebook, Zalo, Twi74tter,... để vừa bảo trọng để tạo ra đột phá nhằm nâng cao chất lượng đảm tính đa dạng trong công cụ tuyên truyền, và hiệu quả hoạt động giảng dạy LLCT. Để đánh vừa tranh thủ được sức mạnh lan tỏa của các giá kiến thức và kỹ năng về LLCT của sinh viên mạng xã hội hiện đang rất thịnh hành, phát một cách toàn diện, cần chuyển đổi hình thức thi triển ở cả trong và ngoài nước. từ tự luận sang trắc nghiệm khách quan hoặc kết 5. KẾT LUẬN hợp trắc nghiệm với tự luận thông qua việc sử Như vậy, nền giáo dục 4.0 đã và đang tác dụng các phần mềm ứng dụng CNTT, hệ thống động mạnh mẽ đến môi trường đại học, nó đặt ra máy tính kết nối mạng LAN hoặc internet, các những yêu cầu mới cho GDLLCT trong các phòng thi bằng máy vi tính... Nói cách khác là trường đại học (với chức năng định hướng tư phải đặt hoạt động thi, đánh giá trong môi trường tưởng - chính trị, hướng nghiệp, củng cố đạo đức CNTT triệt để nhất để phục vụ việc thi, đánh giá cách mạng cho cán bộ, giảng viên, nhất là sinh kết quả GDLLCT một cách khách quan, chính viên...) nhằm góp phần xây dựng ý thức chính trị, xác, nhanh chóng, thuận tiện nhất. trách nhiệm công dân, bản lĩnh dân chủ, kỹ năng cần thiết cho mỗi sinh viên, giúp họ hoàn thiện Thứ tư, về bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ nhân cách để trở thành những chủ nhân của đất giảng dạy LLCT. Cách mạng công nghiệp 4.0 nước, những “công dân toàn cầu” trong tương lai đang đặt ra những yêu cầu rất cao đối với nguồn không xa. nhân lực, trong đó sinh viên các trường đại học, cao đẳng là lực lượng chủ yếu để bổ sung cho TÀI LIỆU THAM KHẢO nguồn lực này. Trong khi đó, môi trường đại học [1]. TS Lê Đông Phương (2018), “Cách mạng thông minh chính là nơi học tập, nghiên cứu, thử công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng đến giáo dục đại nghiệm của nguồn nhân lực chất lượng cao, mà học Việt Nam” đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa với môi trường đại học thông minh thì CNTT là học “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yếu tố cốt lõi, cơ bản nhất. Do vậy, để có thể ứng vấn đề đặt ra đối với hệ thống nhà trường Quân dụng CNTT vào hoạt động giảng dạy LLCT một đội”.. cách hiệu quả, bảo đảm sự tương tác, trao đổi thông tin giữa giảng viên - giảng viên, giữa giảng [2]. TS. Nguyễn Hồng Minh, “Cuộc cách mạng viên - sinh viên, giữa sinh viên - sinh viên được công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với hệ thường xuyên, đầy đủ, kịp thời và bảo đảm tổ thống giáo dục nghề nghiệp”, Tạp chí Lao động và chức triển khai hoạt động giảng dạy LLCT được Xã hội, số tháng 2/2017. thông suốt thì mỗi nhà trường nên kịp thời đầu tư, xây dựng hệ thống hạ tầng CNTT (internet, wifi, 231 * HNKHCN Lần VI tháng 05/2020
nguon tai.lieu . vn