Xem mẫu

  1. ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA TỈNH LÀO CAI - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Hoàng Quang Đạt * TÓM TẮT: Trong những năm qua, công tác đào tạo nghề luôn được cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Lào Cai đặc biệt quan tâm, phát triển nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tại địa phương. Bài viết dưới đây đánh giá tổng quan thực trạng công tác đào tạo nghề tại tỉnh Lào Cai giai đoạn vừa qua, trong đó có phân tích, đánh giá về việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số. Từ đó, bài viết đưa ra một số khuyến nghị, đề xuất để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề của tỉnh Lào Cai nói chung và công tác đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số nói riêng. Từ khóa: đào tạo nghề, giáo dục nghề nghiệp, dân tộc thiểu số, Lào Cai I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI LÀO CAI 1. Tình hình, đặc điểm dân số Lào Cai Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới thuộc khu vực Tây Bắc của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 265 km theo đường bộ. Với 6.383,88 km2 diện tích tự nhiên, Lào Cai là tỉnh rộng thứ 19 của cả nước, có 203 km đường biên giới tiếp giáp Trung Quốc; có 03 cửa khẩu quốc tế; 04 cửa khẩu phụ và 02 lối mở để giao thương với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Theo số liệu thống kê, dân số của Lào Cai đến hết năm 2018 là 704.835 người, (tăng 30.305 người so năm 2015), trong đó nữ chiếm 49,45%. Dân số khu vực nông thôn là 541.293 người (= 76,79%), thành thị là 163.542 người (= 23,2%). Nguồn lao động có độ tuổi từ 15 tuổi trở lên là 442.491 người, trong đó lao động nông thôn: 354.741 người, thành thị: 87.750 người. Trung bình mỗi năm, toàn tỉnh có trên 6 nghìn người bước vào độ tuổi lao động. Trong tổng số 25 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn tỉnh, dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm trên 64,1%. Các dân tộc thiểu số có tỷ lệ lớn gồm dân tộc Mông, Tày, Dao, Giáy, Nùng, ngoài ra còn có các dân tộc đặc biệt ít người (Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí…) Các dân tộc thiểu số phân bố, cư trú trên địa bàn 9/9 huyện, thành phố của tỉnh. * Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lào Cai 235
  2. 2. Một số nét về công tác đào tạo nghề nghiệp tại Lào Cai a. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của BCH TƯ Đảng lần thứ VI, khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, tỉnh Lào Cai đã thực hiện quy hoạch, sắp xếp, sáp nhập các Trung tâm Dạy nghề với Trung tâm GDTX các huyện, thành phố; sáp nhập một số trường cao đẳng, trung cấp; giải thể một số Trung tâm dạy nghề thuộc các đoàn thể cấp tỉnh. Đến nay, mạng lưới cơ sở GDNN của tỉnh có 14 Trường, Trung tâm GDNN và trên 25 cơ sở sản xuất kinh doanh có tham gia hoạt động GDNN. b. Kết quả đào tạo nghề nghiệp giai đoạn 2014 - 2018 - Số ngành nghề đào tạo: Tổng số ngành nghề các cơ sở GDNN của tỉnh đã được cấp phép đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp là 42 nghề (cao đẳng 13 nghề, trung cấp 35 nghề). Quy mô đào tạo bình quân 13.000 người/năm, trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp: 2.700 người, đào tạo sơ cấp và bồi dưỡng thường xuyên 10.300 người.222 - Kết quả đào tạo: Giai đoạn 5 năm, từ 2014 – 2018, tỉnh Lào Cai đã đào tạo nghề nghiệp cho 76.081 người, trong đó: Cao đẳng là 3.454 người, Trung cấp là 12.210 người, sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng là 60.417 người; Trong đó kết quả đào tạo nghề cho các nghề trọng điểm là 2.420 HSSV (cao đẳng: 1042 HSSV, trung cấp: 1.378 HSSV). Kết quả đào tạo trên đã góp phần nâng tỷ lệ qua đào tạo nghề từ 47,74% năm 2017 lên 50,32% năm 2018. 223 - Chất lượng đào tạo: Chất lượng đào tạo nghề nghiệp của các cơ sở GDNN đã được nâng cao hơn. Các cơ sở, đặc biệt là các trường cao đẳng, trung cấp lấy kiểm định chất lượng GDNN làm thước đo chất lượng đào tạo, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên; tập trung xây dựng chương trình, giáo trình; đổi mới hình thức tuyển sinh… Đến hết năm 2018, tất cả các trường, trung tâm đã thực hiện việc tự kiểm định chất lượng (01 trung tâm không đạt các tiêu chí theo quy định về tự kiểm định chất lượng). - Gắn kết doanh nghiệp và giải quyết việc làm sau đào tạo: Tỉnh Lào Cai đặc biệt quan tâm đẩy mạnh việc gắn kết doanh nghiệp với các cơ sở GDNN của tỉnh để tổ chức đào tạo gắn với giải quyết việc làm sau đào tạo cho người lao động, ban hành nhiều cơ chế, chính sách trợ giúp đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp, tổ 222 Kế hoạch số 63/KH-UBND ngày 23/2/2018 của UBND tỉnh Lào Cai về phân luồng học sinh THCS, THPT trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025 Báo cáo 112/BC-LĐTBXH ngày 20/3/2019 của Sở LĐTBXH Sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí 223 thư ngày 06/6/2014 và Kế hoạch số 208-KH/TU của Tỉnh uỷ ngày 04/3/2019 “Về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao”. 236
  3. chức nhiều Hội thảo, Hội nghị đối thoại giữa các cơ sở GDNN và doanh nghiệp. Sở LĐTBXH đã đẩy mạnh tổ chức phiên giao dịch việc làm, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cho các doanh nghiệp... Giai đoạn 5 năm từ 2014-2018, các cơ sở GDNN của tỉnh đã chủ động phối hợp với trên 250 doanh nghiệp để phối hợp trong công tác đào tạo, thực tập, thực hành, tuyển dụng cho trên 4.640 học sinh, sinh viên.224 3. Những khó khăn trong đào tạo nghề nghiệp của tỉnh Lào Cai Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo nghề nghiệp của Lào Cai hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn, cụ thể: - Chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, lĩnh vực cụ thể và yêu cầu của đổi mới cơ cấu kinh tế - xã hội. - Quy mô, năng lực đào tạo của các cơ sở GDNN trong tỉnh còn nhỏ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo còn nhiều hạn chế. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở địa phương còn thiếu, chưa chuyên sâu; đội ngũ giáo viên, giảng viên chưa đồng bộ; - Chất lượng đào tạo nghề chưa cao, số lao động được đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp còn ít, chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng hệ ngắn hạn trình độ sơ cấp nghề và đào tạo thường xuyên (chiếm 84,8%). Người học tốt nghiệp ra trường còn thiếu kỹ năng về làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp; khả năng sử dụng tin học, ngoại ngữ, văn hóa làm việc trong doanh nghiệp…chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Khả năng tiếp cận khoa học công nghệ mới còn hạn chế. - Là một tỉnh miền núi nên công tác tư vấn, hướng nghiệp, tuyển sinh học nghề đối với người DTTS rất khó khăn. Song khi đã tuyển sinh được thì việc duy trì sĩ số lớp học còn gian nan hơn. Tỷ lệ HSSV nghỉ học, bỏ học giữa chừng tương đối lớn gây rất nhiều khó khăn cho kế hoạch đào tạo của các nhà trường; lãng phí không nhỏ nguồn kinh phí hỗ trợ học nghề của Nhà nước. - Còn có tình trạng học HSSV là người DTTS sau khi tốt nghiệp, được doanh nghiệp đến tận nơi tuyển dụng song không đi làm mà quay trở lại địa phương, gia đình để lao động theo tập quán sản xuất cũ, việc làm không bền vững, không phát huy được kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo, hiệu quả sản xuất thấp. 4. Nguyên nhân chính của tồn tại, hạn chế Từ thực tiễn công tác đào tạo nghề của tỉnh Lào Cai, có thể thấy có một số nguyên nhân chính sau đây: 224 Báo cáo 164/BC-UBND ngày 11/8/2018 của UBND tỉnh Lào Cai về Tình hình thực hiện đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2014-2017 237
  4. - Thứ nhất: Một số địa phương chưa chú trọng công tác tuyên truyền, tư vấn, vận động người DTTS học nghề. Ngành nghề đào tạo ngắn hạn cho lao động nông thôn là người DTTS chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tuy nhiên sau khi được đào tạo, người DTTS điều kiện kinh tế đã khó khăn nhưng lại không được quan tâm đầu tư vốn phát triển sản xuất nên không phát huy được hiệu quả đào tạo. - Thứ hai: Trình độ văn hóa và dân trí vùng cao không đồng đều, những hủ tục, nếp nghĩ lạc hậu, thói quen trông chờ ỷ lại vào các chính sách hỗ trợ của Nhà nước vẫn còn tồn tại; nhiều người lao động, trong đó có lao động DTTS chưa thấy sự cần thiết của việc học nghề là để trang bị kiến thức nghề nghiệp cho chính bản thân họ có việc làm và thu nhập ổn định nên có nhận thức chưa đúng đắn về việc cho con em họ hoặc chính bản thân họ tham gia học nghề. HSSV là người DTTS đi học đa phần là lao động chính trong gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, đều dựa vào ngân sách của Nhà nước, khi không có tiền theo học là lập tức nghỉ học, bỏ học. - Thứ ba: “Yếu tố cộng đồng” là tâm lý đặc trưng làm cho người DTTS gắn kết với nhau một cách chặt chẽ trong làng, bản, cộng đồng dân cư; không tự tách mình ra khỏi cộng đồng, không dám bứt phá, vươn lên để tìm hướng đi mới, thay đổi thói quen, khó chấp nhận cái mới, không muốn rời bỏ làng bản để đi làm xa ở địa phương khác. - Thứ tư: Các chương trình đào tạo ngắn hạn cho lao động nông thôn chưa gắn với nhu cầu thực sự của người dân và thực tiễn sản xuất cụ thể của từng địa phương. Có những nghề truyền thống bản địa, có những nghệ nhân giỏi, giàu kinh nghiệm nhưng không được dạy nghề do không có bằng cấp. Việc có quá nhiều chương trình dạy nghề làm nguồn lực bị phân tán do chỉ tập trung vào đào tạo theo số lượng, trong khi việc đánh giá hiệu quả sinh kế, tác động của chương trình dạy nghề đến người DTTS, việc giám sát, hỗ trợ người dân sau đào tạo… gần như bị bỏ ngỏ. - Thứ năm: Cơ chế gắn kết doanh nghiệp trong đào tạo – sử dụng lao động chưa chặt chẽ. Doanh nghiệp Lào Cai chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, số lượng lao động ít, biến động liên tục nên việc liên kết hợp tác đào tạo và giải quyết việc làm gặp nhiều khó khăn. - Thứ sáu: Nguyên nhân rất quan trọng trong đào tạo nghề cho người DTTS, đặc biệt là các chương trình đào tạo ngắn hạn là hiện nay có rất nhiều dự án, chương trình đào tạo cho người DTTS nhưng chưa có dự án, chương trình dạy nghề nào chú trọng tới vấn đề văn hóa bản địa của người dân tộc thiểu số gắn với từng vùng, miền, địa phương. 238
  5. II. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI TỈNH LÀO CAI 1. Về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số Để thực hiện mục tiêu trên, giai đoạn 2016 - 2018, tỉnh Lào Cai đã triển khai đồng bộ các chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề, trong đó có người dân tộc thiểu số, tập trung ở một số lĩnh vực sau: 1 - Về miễn giảm học phí: Thực hiện Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015, của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021; thực hiện miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học nghề cho khoảng 3.895 HSSV với tổng kinh phí trên 20 tỷ đồng, trong đó có 3.451 người là DTTS, 37 người là DTTS rất ít người (dân tộc Phù Lá) với tổng kinh phí trên 100 triệu đồng. 2 - Về chính sách hỗ trợ HSSV nội trú: Thực hiện Quyết định số 53/2015/ QĐ-TTg ngày 20/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách nội trú cho 1.812 HSSV (cao đẳng: 561 SV, trung cấp: 1.251 HS) với tổng kinh phí trên 19,4 tỷ đồng. Trong đó HSSV chủ yếu là người DTTS thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người khuyết tật (có 8 học sinh dân tộc Phù Lá là người DTTS rất ít người tham gia học nghề) với tổng kinh phí trên 45 triệu đồng: 3 - Về chính sách trợ cấp xã hội: Thực hiện đầy đủ kịp thời chính sách trợ cấp xã hội cho HSSV theo Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23/12/1997; Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh mức học bổng chính sách và trợ cấp xã hội đối với HSSV là người DTTS học tại các trường đào tạo công lập quy định tại Quyết định số 1121/1997/ QĐ-TTg. 4 - Chính sách hỗ trợ học nghề cho thanh niên theo Nghị định số 61/2015/ NĐ-CP ngày 09/07/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm (thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện...). 5 - Chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng cho lao động nông thôn theo Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có đối tượng hỗ trợ là DTTS; 6 - Chính sách tín dụng cho HSSV theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 751/QĐ-TTg ngày 30/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh mức cho vay đối với HSSV quy định tại Quyết định 157/2007/QĐ-TTg; 239
  6. 7 - Chính sách hỗ trợ cho người lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp học nghề theo quy định tại Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về Bảo hiểm thất nghiệp; Thông tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH ngày 31/7/2015 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ. 8 - Các chế độ, chính sách khác: + Chính sách học bổng khuyến khích học nghề theo quy định tại Quyết định số 70/2008/QĐ-LĐTBXH ngày 30/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; + Chính sách ưu đãi trong giáo dục đào tạo đối với người có công với cách mạng và con của họ theo quy định tại Thông tư số 36/2015/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2015 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; + Chính sách đào tạo nghề, xuất khẩu lao động cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo”; 9 - Ngoài ra, Tỉnh ủy Lào Cai cũng đã có các Nghị quyết riêng về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như: Nghị quyết số 22-NQ/TU ngày 15/11/2017 của BTV Tỉnh ủy về “Giảm nghèo bền vững huyện Si Ma Cai đến năm 2020”; Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 24/5/2019 của BTV Tỉnh ủy về “Giảm nghèo bền vững đối với 43 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên đến hết năm 2020, tầm nhìn đến 2025, có xét đến năm 2030”... trong đó có đặc biệt quan tâm chính sách đào tạo nghề cho người DTTS. 2. Đánh giá việc thực hiện chính sách a. Ưu điểm - Các chính sách hỗ trợ đối với người học nghề, trong đó có người DTTS, nhìn chung đã mang lại hiệu quả lớn về kinh tế - xã hội, kịp thời hỗ trợ chi phí học tập cho HSSV có hoàn cảnh, điều kiện khó khăn, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa… được học nghề, góp phần xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. 225 Theo thống kê của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Lào Cai: - Người DTTS được đào tạo nghề năm 2003 là 829 người, năm 2009 là 7.452 người (tăng gấp 9 lần năm 2003), năm 2018 là 10.549 người (tăng 1,4 lần năm 2009) - Giai đoạn 2014-2018, người DTTS tham gia học nghề là 48.116 người/tổng số 76.081 người (=63,2%), trong đó: CĐ,TC là 9.579 người (=19,9 %); sơ cấp và đào tạo thường xuyên là 38.537 người (=80,1%) chủ yếu là dân tộc: Mông, Tày, Dao, Dáy, Nùng… - Từ năm 2014-2018 đã giải quyết việc làm cho 63.870 lao động, trong đó có khoảng 40.850 lao động là người DTTS. Riêng năm 2018 giải quyết việc làm cho 14.613 lao động, trong đó có 9.060 lao động là người DTTS. 240
  7. - Dưới tác động của chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tỷ lệ HSSV là người DTTS học nghề đã tăng mạnh theo hàng năm ở các cấp trình độ; số lượng HSSV là người DTTS được giải quyết việc làm cũng tăng nhanh.225 - Các chính sách có tác động lớn, phát huy hiệu quả rõ rệt phải kể đến như: Chính sách miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập (Nghị định số 86/2015/ NĐ-CP); Chính sách đối với HSSV dân tộc thiểu số nội trú (Quyết định số 53/2015/QĐ-TTg); Chính sách trợ cấp xã hội (Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg); Chế độ học bổng khuyến khích học tập (Quyết định số 70/2008/QĐ-LĐTBXH); Chính sách hỗ trợ người học nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg); b. Hạn chế Mặc dù các chính sách đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho người DTTS nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng trong quá trình thực hiện còn tồn tại nhiều hạn chế. - Thứ nhất: Một số chính sách đã ban hành song khi đi vào thực hiện chưa phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là đối với người DTTS. Cụ thể: + Chính sách tín dụng đối với HSSV được đánh giá là một chính sách tốt, khi phát huy hiệu quả sẽ giảm bớt khó khăn cho HSSV là người DTTS có điều kiện được học tập. Tuy nhiên khi triển khai thì HSSV không quan tâm, không vay vốn…do e ngại và sợ phải trả nợ vì tâm lý được Nhà nước bao cấp đã ăn sâu vào trong tiềm thức, trở thành thói quen, nếp nghĩ của HSSV và gia đình họ; + Chính sách hỗ trợ người học nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng: Mặc dù tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg đã quy định cần lồng ghép các chương trình đào tạo nghề với các chính sách hỗ trợ sinh kế khác để đảm bảo tính bền vững nhưng đến nay khía cạnh này vẫn chưa thực hiện có hiệu quả. + Chính sách hỗ trợ học nghề cho thanh niên là quân nhân xuất ngũ, công an xuất ngũ theo Nghị định 61/2015/NĐ-CP ở nội dung về cơ chế đặt hàng đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng đối với các trường ngoài quân đội trong thời gian vừa qua còn hạn chế. Số thanh niên là bộ đội, công an xuất ngũ tham gia học trình độ cao đẳng, trung cấp ở các trường dân sự còn rất ít. + Chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động hưởng bảo hiểm thất nghiệp: Có ít người lao động quan tâm, học nghề theo chính sách này. + Các quy định về tiêu chuẩn, chuyên môn nghiệp vụ đối với Nhà giáo GDNN (theo Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH) chưa khai thác được sự tham gia của các nghệ nhân, già làng, trưởng bản giàu kinh nghiệm, kiến thức, văn hóa 241
  8. bản địa của người DTTS (đặc biệt là trong đào tạo ngắn hạn) do yêu cầu phải có bằng cấp theo quy định. + Ngoài ra, chính sách miễn giảm học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ- CP chưa quy định miễn giảm học phí cho người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, chưa tạo ra sự công bằng trong thực thi chính sách. - Thứ hai: Một số chính sách đã ban hành đã lâu, đến nay đã thể hiện sự lỗi thời. Cụ thể: + Chính sách về trợ cấp xã hội đối với HSSV các trường đào tạo công lập ban hành theo Quyết định số 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23/12/1997 của Thủ tướng Chính phủ với mức hưởng trợ cấp là 100.000 đồng/tháng, được nâng lên mức 140.000đ/tháng theo Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 Thủ tướng Chính phủ (=66,7% mức lương cơ bản tại thời điểm năm 2001) và giữ nguyên trong suốt 18 năm đến nay không thay đổi. Mức trợ cấp hiện nay chỉ bằng 9,4% mức lương cơ bản, không đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu nhất cho HSSV nhưng chưa được điều chỉnh. + Các quy định xác định các xã khu vực miền núi, vùng cao ban hành cách đây trên 20 năm theo các Quyết định số 21/UB-QĐ ngày 26/01/1993; Quyết định số 33/UB-QĐ ngày 4/6/1993; Quyết định số 42/UB-QĐ ngày 23/5/1997 của Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và miền núi, chưa có sự cập nhật, điều chỉnh gắn với sự phát triển kinh tế của các xã, tạo ra sự không công bằng khi thực hiện chế độ chính sách cho HSSV. Có những HSSV là người DTTS ở vùng kinh tế - xã hội tốt hơn lại được hưởng trợ cấp, trong khi HSSV ở các xã miền núi có điều kiện khó khăn hơn rất nhiều lại không được hưởng. + Điều kiện để các đối tượng chính sách được quy định ở rất nhiều văn bản quy phạm khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành gây khó khăn trong việc tổng hợp, viện dẫn các văn bản để xác định kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng. - Thứ ba: Các chính sách đào tạo nghề cho người DTTS hiện nay cơ bản còn gắn chung với các chính sách khác. Thiếu các chính sách chú trọng tới vấn đề văn hóa bản địa của từng cộng đồng người DTTS gắn với đặc trưng của từng vùng, miền, địa phương. Chính sách hiện nay hướng tới việc tách họ ra khỏi cộng đồng hơn là hướng tới cộng đồng DTTS, đi ngược lại với yếu tố văn hóa, tâm lý cấu kết cộng đồng của người DTTS. Vì vậy, hiệu quả chưa được như mong đợi. III. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP Từ thực tiễn công tác đào tạo nghề của tỉnh Lào Cai và việc thực hiện chính sách đào tạo nghề đối với người DTTS như đã phân tích ở trên, để công tác đào 242
  9. tạo nghề cho người lao động có hiệu quả, trong đó có người DTTS, chúng tôi kiến nghị, đề xuất một số giải pháp sau: - Chính phủ, các Bộ và các cơ quan ngang Bộ xem xét, sớm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về đào tạo nghề chưa sát thực tế hoặc đã ban hành quá lâu hiện nay không còn phù hợp để khắc phục những hạn chế đã nêu tại mục 3, phần II của tham luận này. Đảm bảo chính sách có tính thống nhất, đồng bộ, khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng, phù hợp với thực tiễn. - Khi xây dựng, ban hành chính sách đào tạo nghề cho người DTTS cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố đặc thù của người DTTS, không tư duy theo lối áp đặt chính sách. Có thể đồng bộ hóa chính sách hoặc ban hành các chính sách riêng về đào tạo nghề cho người DTTS một cách xuyên suốt, trong đó ngoài việc hỗ trợ học phí, sinh hoạt phí cần có cơ chế giám sát sau đào tạo và chính sách về sinh kế để người dân có thể ứng dụng kết quả đào tạo vào phát triển kinh tế - xã hội. - Cần bổ sung cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn để thu hút, phát triển các doanh nghiệp tại địa phương, khuyến khích doanh nghiệp tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ là người lao động DTTS. Đồng thời, có chính sách ưu tiên miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt vấn đề trên. - Để chính sách đào tạo nghề cho người DTTS thực thi có hiệu quả cần đặc biệt chú trọng đến yếu tố cộng đồng và văn hóa bản địa của người DTTS. Chính sách cần theo phương châm hướng đến cộng đồng và được áp dụng linh hoạt, đặc biệt trong đào tạo nghề cần khai thác tối đa sự tham gia của cộng đồng DTTS tại địa phương (sự tham gia của các nghệ nhân, già làng, trưởng bản giàu kinh nghiệm, kiến thức, văn hóa bản địa). - Từ những phân tích trên, trường Cao đẳng Lào Cai đề xuất Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho phép Nhà trường xây dựng, triển khai thí điểm dự án “Mang nghề đến cộng đồng” tại một huyện của Lào Cai, từ đó có những đánh giá kết quả, nhân rộng mô hình, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, đổi mới mô hình tăng trưởng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sở LĐTBXH tỉnh Lào Cai. (2019). Báo cáo 112/BC-LĐTBXH ngày 20/3/2019 của Sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư ngày 06/6/2014 và Kế hoạch số 208-KH/ TU của Tỉnh uỷ ngày 04/3/2019 “Về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao”. 2. Số liệu thống kê về đào tạo nghề, việc làm của Sở LĐTBXH tỉnh Lào Cai giai đoạn 2000- 2019. 3. UBND tỉnh Lào Cai. (2018). Kế hoạch số 63/KH-UBND ngày 23/2/2018 của về phân luồng học sinh THCS, THPT trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025. 243
nguon tai.lieu . vn