Xem mẫu

ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP
TU TỪ ẨN DỤ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế
NGUYỄN THỊ BẠCH NHẠN
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Thành ngữ là sản phẩm tư duy của con người, nó góp phần tạo ra
những nội dung, khái niệm mới trong tư duy ngôn ngữ. Các đơn vị thành
ngữ đã đóng góp vào sự phong phú, đa dạng về ngôn từ và giá trị biểu hiện
thông qua những biện pháp tu từ đặc sắc. Bài báo đưa ra một số nhận xét về
sự tương đồng và khác biệt của biện pháp tu tư ẩn dụ trong thành ngữ tiếng
Hán và tiếng Việt trên các bình diện kết cấu, đặc điểm ngữ nghĩa nhằm giúp
cho việc vận dụng trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập tiếng Trung được
tốt hơn.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng và khác biệt về nguồn gốc,
kết cấu, ngữ nghĩa. Các biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong thành ngữ tiếng Hán
và thành ngữ tiếng Việt là: Biện pháp tu từ tỉ dụ (so sánh); Biện pháp tu từ tỉ nghĩ (ẩn
dụ); Biện pháp tu từ khoa trương (ngoa dụ); Biện pháp tu từ đối chiếu (đối xứng). Tuy
nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, bài báo chỉ tập trung “Đối chiếu sự tương đồng và
khác biệt của biện pháp tu từ ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt” trên bình
diện cấu trúc và đặc điểm ngữ nghĩa.
2. BIỆN PHÁP TU TỪ ẨN DỤ TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
2.1. Biện pháp tu từ ẩn dụ (tỉ nghĩ) tiếng Hán
Biện pháp tu từ lấy vật tả thành người, lấy người tả thành vật hoặc lấy sự vật A tả thành
sự vật B gọi là biện pháp tu từ ẩn dụ, bao gồm hai loại: biện pháp tu từ nghĩ nhân và
biện pháp tu từ nghĩ vật. [5]
2.1.1. Biện pháp tu từ nghĩ nhân
Xem vật như người, lấy ngôn ngữ, suy nghĩ, tình cảm của người để tả vật [5].
Ví dụ :
矮小而年 高 的垂柳,用苍绿的叶子抚 摸 着快熟的庄稼;密集的芦苇,细 心 地护
卫着脚下偷偷开放的野花。(郭小川《团泊洼的秋天》)

Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 108-116

ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ ẨN DỤ...

109

Cây thùy dương thấp bé mà nhiều tuổi, dùng những tán lá xanh xanh xoa xoa vào
những hoa màu sắp chín; hàng lau sậy chi chít, bảo hộ cẩn thận những bông hoa dại
lén nở dưới chân (Quách Tiểu Xuyên – Mùa thu bên hồ).
2.1.2. Biện pháp tu từ nghĩ vật
Xem người như vật, cũng tức là khiến cho người có động tác, tình thái như vật, hoặc
biến vật A trở thành vật B [5]. Ví dụ :
那肥大的荷叶下面,有一个人的脸,下半截身 子 长 在 水 里 。那不是水生吗?
(孙犁《荷花淀》)
Dưới chiếc lá sen to kia, có khuôn mặt của một người, đoạn nửa dưới thân thể được
lớn lên trong nước kia chẳng phải là thủy sinh sao? (Tôn Lê – Hồ sen).
2.2. Biện pháp tu từ ẩn dụ tiếng Việt
Biện pháp tu từ ẩn dụ trong tiếng Việt còn được gọi là so sánh ngầm, ví ngầm. Tức là
khi sự so sánh nghệ thuật chỉ còn vế B, mà ta vẫn nhận ra vế bị so sánh (ngầm) thì hình
thức này gọi là ẩn dụ (còn gọi là so sánh ngầm). Hay nói cách khác, ẩn dụ là sự gọi tên
một sự vật, một hiện tượng này bằng một tên của một sự vật hay hiện tượng khác, dựa
trên sự liên tưởng tương đồng. [1]
Ví dụ:

“Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng” (Ca dao)

Câu ca dao trên có 4 ẩn dụ : bướm, hoa, chim xanh, vườn hồng. Chỉ trong văn cảnh của
câu ca dao này, chúng ta mới hiểu được các ẩn dụ đó nói về một chàng trai và một cô
gái đang ở trong một nỗi chia li…
Ở một trường hợp khác, người con gái không được so sánh với hoa, mà lại so sánh với
bến để nói lên lòng chung thủy đợi chờ của người con gái :
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (Ca dao)
Biện pháp tu từ ẩn dụ trong tiếng Việt gồm có 2 loại tương đương tiếng Hán đó là: Biện
pháp tu từ vật hóa, biện pháp tu từ nhân hóa.
2.2.1. Biện pháp tu từ nhân hóa
Biện pháp tu từ nhân hóa (hay còn gọi là nhân hóa cách). Ở đây, người ta chuyển những
tính chất, những hoạt động của sinh vật, nhất là của người sang cho sự vật hay hiện
tượng khác [1].
Ví dụ:
Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai, Khăn vắt trên vai?... (Ca dao)

110

NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN – NGUYỄN THỊ BẠCH NHẠN

Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài thơ Buổi sáng nhà em có câu:
Ông Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay!…
2.2.2. Biện pháp tu từ vật hóa
Vật hóa (còn gọi vật cách hóa) là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một
hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược lại với nhân hóa, tức là lấy những từ
ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của loài vật, đồ vật để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của
con người, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui, và nhiều khi qua đó để thể hiện tình
cảm, thái độ sâu kín của mình. [1]
Ví dụ:

“Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Chẳng may quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng. ” (Ca dao)

3. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ ẨN DỤ TRONG
THÀNH NGỮ TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Sự tương đồng
3.1.1. Tương đồng về cấu trúc
Biện pháp tu từ ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt có sự tương đồng khá lớn
về mặt cấu trúc. Điều này cũng phản ánh sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc. Có hai
dạng chính là thành ngữ ẩn dụ nhân hóa và thành ngữ ẩn dụ vật hóa.
Đối với ẩn dụ nhân hóa, thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán cũng như tiếng Việt đều cùng có
dạng cấu trúc đối xứng giữa các vế. Ví dụ: thành ngữ tiếng Hán có câu:“燕妒莺惭”
[Yến đố oanh tàm] (ý nói đến vẻ đẹp của người con gái khiến chim yến phải đố kị, chim
oanh cũng thấy xấu hổ vì thua kém). Ở đây gồm cụm chủ - vị đối nhau: yến đố đối với
oanh tàm. Thành ngữ tiếng Việt cũng có câu tương tự: Chim sa cá lặn (ca ngợi vẻ đẹp
lộng lẫy của người phụ nữ). Ở câu này cũng gồm hai vế chủ - vị đối nhau: chim sa đối
với cá lặn. Ngoài ra, thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán và tiếng Việt còn giống nhau ở kiểu cấu
tạo gồm chỉ một cấu trúc chủ - vị. Ví dụ:“花枝招展”[Hoa chi chiêu triển] (Hoa lá
đung đưa) hay“饿虎扑食”[Ngã hổ phốc thực] (Hổ đói vồ mồi). Ở đây ta có hoa chi
là chủ ngữ, chiêu triển là cụm động từ, ngã hổ là chủ ngữ, phốc thực là cụm động từ.
Tương tự, thành ngữ tiếng Việt cũng có những câu như: cá nằm trên thớt, chó cắn áo rách...
3.1.2. Tương đồng về đặc điểm ngữ nghĩa
Thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng về đặc điểm ngữ
nghĩa. Cả hai đều có chung 8 phạm trù ngữ nghĩa như sau: thành ngữ ẩn dụ chỉ hành
vi, hoạt động: 拔苗助长 [Bạt miêu trợ trưởng] (kéo mạ giúp lớn), bắt cá hai tay;

ĐỐI CHIẾU SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỆN PHÁP TU TỪ ẨN DỤ...

111

thành ngữ ẩn dụ chỉ trạng thái: 愁肠寸断 [Sầu trường thốn đoạn] (Đau đứt ruột),
ngậm đắng nuốt cay; thành ngữ ẩn dụ chỉ ứng xử trong gia đình và xã hội: 忠臣孝子
[Trung thần hiếu tử], ăn cháo đái bát; thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ động vật: 沉鱼落
雁 [Trầm ngư lạc nhạn] (Cá lặn nhạn rơi), ăn ốc nói mò; thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ
thực vật: 百花齐放 [Bách hoa tề phóng] (Trăm hoa đua nở), ép liễu nài hoa; thành
ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể: 愁眉苦脸 [Sầu mi khổ liễm], môi hở răng
lạnh; thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ con số: 十死一生 [Thập tử nhất sinh], chia năm sẻ
bảy; thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên: 拔山超海 [Bạt sơn chiêu
hải], dãi nắng dầm mưa.
3.2. Sự khác biệt
3.2.1. Sự khác biệt về cấu trúc
Bên cạnh sự tương đồng về mặt cấu tạo, thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán và tiếng Việt còn có
những nét riêng khác biệt. Trước hết là sự khác biệt về số lượng âm tiết. Thành ngữ ẩn
dụ tiếng Hán đa phần có loại thành ngữ kết cấu 4 âm tiết, một số ít còn lại là năm âm
tiết hoặc sáu âm tiết. Đối với thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt, chủ yếu là loại thành ngữ bốn
âm tiết, ngoài ra, còn có khá nhiều loại sáu âm tiết (Ăn cây nào rào cây ấy) và tám âm
tiết (Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời).
Điểm khác biệt thứ hai là về cấu tạo: thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán gồm 3 kiểu cấu tạo:
Danh + động + danh + động: 兔死狐悲 (thỏ chết cáo buồn), 龙飞凤舞(rồng bay
phượng múa); Động + danh + động + danh: 闭月羞花 (bế nguyệt tu hoa: Hoa nhường
nguyệt thẹn / Trăng mờ hoa thẹn), 飞鹰走狗 (phi nhạn tẩu cẩu: nhạn bay chó chạy);
Danh từ + cụm động từ: 桃李争艳 (đào lê tranh sắc), 狗急跳墙 (chó cùng dứt giậu)
[6]; còn thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt có 6 kiểu cấu tạo: nếu gọi A là yếu tố đứng đầu
của vế thứ nhất, B là yếu tố đứng đầu của vế thứ hai, X là yếu tố đứng sau A, Y là yếu
tố đứng sau B ta có hai kiểu cấu tạo sau: AX+AY: ví dụ như: nửa dơi nửa chuột, bẻ
hành bẻ tỏi; AX+BY: ví dụ như: ăn gió nằm sương, dao to búa lớn; thành ngữ ẩn dụ
có kết cấu là danh ngữ: anh hùng rơm, bạn nối khố; thành ngữ ẩn dụ có kết cấu là
động ngữ: ăn cơm thiên hạ, ăn cướp cơm chim, thành ngữ ẩn dụ có kết cấu là tính ngữ:
ngang cành bứa, trơ mắt ếch; thành ngữ ẩn dụ có kết cấu chủ - vị: Anh hùng mạt lộ,
áo gấm về làng. [2]
Như vậy, có thể thấy cấu tạo của thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt rất đa dạng và phong phú.
Điều này cho phép tạo ra khối lượng thành ngữ ẩn dụ vô cùng đồ sộ. Về mặt cấu tạo,
thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán và tiếng Việt đều có kiểu cấu tạo đối xứng và cấu tạo kiểu
chủ - vị. Tuy nhiên, trong thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt còn có kiểu cấu tạo là kết cấu danh
ngữ, kết cấu động ngữ và kết cấu tính ngữ. Điều này chưa thấy xuất hiện ở thành ngữ ẩn
dụ tiếng Hán.
3.2.2. Sự khác biệt về đặc điểm ngữ nghĩa

112

NGUYỄN THỊ KHÁNH VÂN – NGUYỄN THỊ BẠCH NHẠN

Qua khảo sát, chúng tôi thu được rất nhiều kết quả thể hiện sự khác nhau về đặc điểm
ngữ nghĩa của thành ngữ ẩn dụ tiếng Hán và tiếng Việt. Kết quả đó được thể hiện qua
bảng dưới đây:

nguon tai.lieu . vn