Xem mẫu

  1. ĐÔ THỊ THÔNG MINH: ĐÔ THỊ THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI MÔI TRƯỜNG ThS. Dương Trường Phúc Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG - TP.HCM Tóm tắt Đô thị xuất hiện ngày càng nhiều nơi trên Thế giới, trở thành trung tâm và động lực cho nền kinh tế quốc gia và toàn cầu. Đồng thời, đô thị với tư cách là một hệ thống cũng trở thành chủ thể đối mặt với những thách thức cho phát triển liên quan đến biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, đô thị với những phức tạp vốn có và mức độ phức tạp ngày càng biến đổi thì rất khó quản lý bằng phương pháp truyền thống và ngụ ý rằng việc tìm kiếm giải pháp tối ưu để giải quyết các thách thức sẽ không hiệu quả. Bài viết lấy bối cảnh biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa là thách thức chính cho phát triển đô thị, đề cập đến vấn đề đô thị thích ứng và cách tiếp cận mới trong phát triển đô thị thông minh. Thay đổi cách tiếp cận, thay đổi quan điểm về các chính sách đô thị có thể gián tiếp hỗ trợ đô thị thích ứng tốt hơn trong tương lai, góp phần khẳng định vị thế của một đô thị thông minh trong khu vực. Từ khóa: đô thị thông minh, thích ứng, tiếp cận địa lý, toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu 1. Giới thiệu Đô thị xuất hiện ngày càng nhiều nơi trên thế giới bởi các đô thị trở thành hình thái tổ chức xã hội tiêu biểu của nhiều quốc gia với phần lớn dân cư tập trung ở đó (Cohen 2003; Butler 2010) và tập trung hầu hết các hoạt động sản xuất quan trọng (Dobbs et al. 2011; Sassen 2018). Đô thị còn đóng vai trò như một thỏi nam châm thúc đẩy quá trình di cư khi những nơi này mở ra nhiều cơ hội sống hơn so với khu vực nông thôn (Bettencourt et al. 2007; Bettencourt & West 2010; Glaeser 2011). Về khái niệm, đô thị là các đơn vị hành chính cấp dưới của quốc gia, có sự phân bổ dân cư với ranh giới đường biên xác định rõ ràng theo luật định, có quyền tự chủ về quản trị và một bộ phận lớn dân cư làm việc ở những ngành phi nông nghiệp. Và từ đó, có thể xem xét đô thị như một hệ thống với các tiến trình khác nhau (Hình 1). 341
  2. Hình 1. Đô thị là một hệ thống Nguồn: Tác giả Sự phát triển nhanh chóng của khoa học-kỹ thuật và quá trình đô thị hóa đã thúc đẩy hình thành một hình thái đô thị gọi là đô thị thông minh. Năm 2007, thuật ngữ đô thị thông minh (smart city) xuất hiện lần đầu tiên trong một nghiên cứu về sự đổi mới của các đô thị ở châu Âu (Giffinger & Pichler-Milanović 2007). Tiếp đó, trong nhiều nghiên cứu về chiến lược đô thị, Cohen đã phác thảo những đặc điểm, chức năng và mục tiêu của đô thị thông minh có liên quan đến các chỉ số và đưa ra bảng xếp hạng những đô thị ở châu Âu (Cohen 2012a; Cohen 2012b; Cohen 2014; Cohen 2015). Mô hình của Cohen bao gồm 06 yếu tố chính: kinh tế thông minh, môi trường thông minh, con người thông minh, cuộc sống thông minh, giao thông thông minh; chính phủ thông minh; và 18 yếu tố phụ. Tuy vậy, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về đô thị thông minh nhưng về cơ bản đô thị thông minh là đô thị ứng dụng công nghệ thông tin (IT), trí tuệ nhân tạo (AI)… để quản lý nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền đô thị, sử dụng nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên hiệu quả và thích ứng với những biến đổi môi trường bên ngoài. Bên cạnh là động lực mới cho nền kinh tế quốc gia và toàn cầu, đô thị cũng trở thành chủ thể phải đối mặt với những thách thức liên quan đến biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa. 1/ Lối sống và các hoạt động ở đô thị là nguyên nhân của tình trạng gia tăng khí thải nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu (IPCC 2014). Có lẽ những rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu thể hiện qua số lượng và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa bão, lốc xoáy… Trong những trường hợp chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ yếu kém đã làm gia tăng nguy hiểm cho thị dân đối với các hiện tượng này. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy phạm vi địa lý của những hiện tượng thời tiết cực đoan đang có xu hướng lan rộng nhưng đô thị vẫn có nguy cơ rất cao phải đối mặt với những hiểm họa từ biến đổi khí hậu. 2/ Toàn cầu 342
  3. hóa xóa bỏ ranh giới giữa các quốc gia, điều đó đồng nghĩa những nước giàu và nước nghèo cùng tham gia vào một trật tự kinh tế mới. Sự khác biệt cố hữu giữa hai nhóm nước được gia tăng khi toàn cầu hóa. Và các đô thị, đặc biệt là những đô thị ở các nước đang phát triển với những mối tương tác đa chiều vốn có đang phải trải qua những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng từ những tác động trái chiều của toàn cầu hóa. Những tác động từ biến đổi môi trường bên ngoài có thể làm trì trệ tăng trưởng đô thị và đảo ngược các thành quả đạt được trong quá khứ. Một đô thị phát triển từng ngày với sự phức tạp nội tại trở nên khó quản lý bằng những phương pháp truyền thống. Mức độ phức tạp cũng ngày càng gia tăng do các tương tác và phụ thuộc lẫn nhau đang gia tăng. Tính chất phức tạp lại liên tục thay đổi của đô thị ngụ ý cho việc tìm kiếm giải pháp tối ưu trước những mối nguy bên ngoài sẽ không hiệu quả. Bên cạnh những nỗ lực đáng kể thúc đẩy các chiến lược giảm thiểu tác động, các chiến lược thích ứng với những mối nguy cũng đã được quan tâm trong thời gian gần đây (Galderisi 2014). Trọng tâm của sự thích ứng bắt nguồn từ nhận thức ngày càng tăng về tác động của biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở khu vực đô thị (Brugmann 2012). 2. Thích ứng của đô thị với biến đổi môi trường Thích ứng (adaptation) không phải là một thuật ngữ mới mẻ vì đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực liên quan đến sự thay đổi môi trường bên ngoài (Adger et al. 2009). Thuật ngữ này bắt nguồn từ khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa thông qua những nghiên cứu sâu xa của Charles Darwin về sự tiến hóa và chọn lọc tự nhiên (Smit & Wandel 2006). Những lựa chọn trước thay đổi môi trường rất quan trọng đối với một cộng đồng/một hệ thống. Thích ứng cũng được xem là một lựa chọn phản hồi quan trọng (Fankhauser 1996; Smith 1996; Pielke 1998; Kane & Shogren 2000). Do đó, thích ứng được xem như những điều chỉnh trong hành vi và các đặc tính của hệ thống làm tăng khả năng đối phó với căng thẳng bên ngoài (Brooks 2003) và việc phát triển các chiến lược thích ứng theo kế hoạch để đối phó với những rủi ro được coi là bổ sung cần thiết cho các hoạt động giảm nhẹ tổn thương (Burton 1996; Smith et al. 1996; Parry et al. 1998; Smit et al. 1999). Đô thị thích ứng (urban adaptation) là khả năng thay đổi trong quy trình, thông lệ, hoặc cấu trúc của đô thị nhằm giảm nhẹ hoặc bù đắp các thiệt hại tiềm ẩn hoặc tận dụng các cơ hội liên quan đến tổn thương (Smit & Pilifosova 2003). Thích ứng ở đô thị còn được xác định bằng khả năng phục hồi của đô thị đó. Tổn thương đô thị (urban vulnerability) thường được định nghĩa là xu hướng hệ thống đô thị bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất lợi và phục hồi đô thị (urban 343
  4. resilience) là khả năng của một đô thị tránh hoặc đáp trả sự kiện bất lợi đó. Nhiều tác giả nhận thấy mối liên hệ tiềm ẩn giữa tính dễ bị tổn thương và khả năng phục hồi (Turner II et al. 2003; Eakin & Luers 2006; Gallopín 2006; Young et al. 2006; Janssen et al. 2007; Nelson et al. 2007; Polsky et al. 2007; Vogel et al. 2007; Cutter et al. 2008; Turner II 2010; Engle 2011). Mặc dù khả năng dễ bị tổn thương và khả năng phục hồi có thể được xem như các khái niệm riêng biệt, nhưng chúng được kết nối thông qua khái niệm năng lực thích ứng và sự nhấn mạnh nhiều hơn từ tổng hợp có thể giúp đánh giá khả năng thích ứng (Engle 2011). Đô thị hóa đã làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ giữa xã hội và môi trường, và ảnh hưởng đến tính bền vững và khả năng phục hồi của các thành phố theo những cách phức tạp với tốc độ đáng báo động (Romero-Lankao et al. 2016). Trong những thập kỷ qua, tính bền vững, tổn thương, thích ứng và khả năng phục hồi đã trở thành những khái niệm chính nhằm tìm hiểu động lực đô thị hiện tại và đáp ứng một loạt các thách thức hiện ra do đô thị hóa và thay đổi môi trường (Jacobs 2006; Pelling 2010). Phát triển đô thị thích ứng là thiết kế, xây dựng và phát triển liên tục của các khu vực đô thị để dự đoán và phản ứng với những thay đổi trong môi trường và xã hội. Những thay đổi này bao gồm cả các quy trình trong chính thành phố và các phát triển bên ngoài (Graaf 2012). Việc thích ứng bao gồm bốn thành phần chính (1) đặc điểm của mối nguy, (2) đặc điểm của hệ thống, (3) các cấp độ thích ứng và (4) phản ứng thích ứng (Bryant et al. 2000). Thảo luận về các giới hạn về thích ứng thường được xây dựng trên ba khía cạnh: giới hạn về sinh lý, giới hạn về kinh tế và giới hạn về công nghệ (Adger et al. 2009). Các đô thị có khả năng thích ứng rất khác nhau, trong đó đô thị ở các nước đang phát triển có mức độ thích ứng thấp hơn. Nguyên nhân là do có sự khác biệt ở tầm quản lý, các tổ chức xã hội, công nghệ, sự giàu có và chiến lược phát triển của những đô thị đó. Vì vậy, khả năng thích ứng tăng lên khi các đô thị có nhiều khả năng phục hồi và giảm xuống khi các đô thị dễ bị tổn thương (Folke et al. 2002). Nhiều chiến lược và giải pháp thích ứng được nêu ra trong các cuộc thảo luận về phát triển đô thị thường đề cập đến khía cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và đáp ứng các dịch vụ đô thị nhằm hỗ trợ thị dân có nguồn lực để thích ứng với những thay đổi bên ngoài. Song, việc nhận thức lại cách tiếp cận đô thị với tư cách phát triển vùng cũng khá quan trọng. Những nhận thức trước đây có thể đã không còn phù hợp và dẫn đến những thất bại chính sách trong phát triển đô thị, vùng đô thị. Thay đổi cách tiếp cận, thay đổi quan điểm về các chính sách đô thị có thể gián tiếp hỗ trợ đô thị thích ứng tốt hơn trong tương lai. 344
  5. 3. Tiếp cận địa lý trong phát triển đô thị thích ứng Năm 2009, Ngân hàng Thế giới công bố Báo cáo Phát triển Thế giới (WDR) với nhan đề Tái định dạng địa kinh tế (Reshaping economic geography). Báo cáo đề cập đến vấn đề phát triển đô thị, vùng, quốc gia qua lăng kính địa lý dựa trên 03 khái niệm: Mật độ, khoảng cách và chia cắt. Cách tiếp cận này được gọi là tiếp cận 3D, gần giống như khái niệm trong nghiên cứu không gian ba chiều. So với cách tiếp cận địa lý truyền thống trong chính sách phát triển đô thị, vùng đô thị, cách tiếp cận này tỏ ra hiệu quả hơn và giúp người làm chính sách nhìn nhận các vấn đề đô thị tốt hơn để từ đó có những hỗ trợ cho thích ứng đô thị. Mật độ - Density Các hoạt động kinh tế của một khu vực, theo mọi nghĩa, là không đồng đều về mặt địa lý. Có những khu vực tích tụ nhiều tài lực, vật lực, nhân lực (tạm gọi là thành thị) nhưng cũng có những vùng lại khan hiếm những nguồn lực này (tạm gọi là nông thôn). Những danh xưng này gợi mở một khái niệm có tính chất địa lý–mật độ. Trong địa kinh tế (geo-economic), mật độ không đơn thuần là khái niệm đại biểu cho sự tập trung dân số trên một đơn vị diện tích mà còn đề cập đến mức độ tập trung của hoạt động kinh tế trên đơn vị diện tích đất được đo bằng các hoạt động kinh tế hoặc sản lượng tạo ra (Ngân hàng Thế giới 2009). Mật độ không đồng đều trong không gian kinh tế của một vùng biểu thị cho độ gập ghềnh vốn là bản chất tự nhiên của nền kinh tế thị trường vì thị trường có tính chọn lọc cao đối với những vùng có nhiều thuận lợi địa lý “trời phú” hoặc khu vực có sự ngẫu nhiên trong lịch sử có lợi (Ngân hàng Thế giới 2009). Sự phân hóa này là hình thái ban đầu của quá trình phát triển vùng nhưng dần về sau sẽ hội tụ. Mật độ cao thường gắn với những ảnh hưởng tiêu cực như tắc nghẽn giao thông, bình quân diện tích đất đầu người thấp. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tích cực lại ít được thảo luận rằng mật độ cao sẽ: i) tạo ra mạng lưới xã hội rộng và dày đặc cùng các thể chế tạo thuận lợi cho sự tương tác đó (Fingleton 2007) nhằm thúc đẩy hình thành và tích lũy vốn xã hội; ii) làm tăng quy mô thị trường, kích thích nhu cầu và sự đáp ứng cho sự đổi mới (Klasen & Nestmann 2006) dẫn đường cho phát triển khoa học-công nghệ; iii) cải thiện sức khỏe cộng đồng thông qua các chương trình dịch tễ công cộng và cấp thoát nước. Do đó, ưu thế của mật độ cao không chỉ dừng lại ở thu nhập và của cải mà còn bao gồm cả khía cạnh xã hội. Khoảng cách - Distance Tăng trưởng cân đối theo không gian trong hàng thập kỷ là thất bại chính sách cho một số nước đang phát triển như Việt Nam. Để một quốc gia phát triển thì 345
  6. phải có những vùng phát triển trước những vùng khác, tức nghĩa là những vùng có mật độ cao so với những vùng có mật độ thấp. Điều này vô hình trung tạo ra khoảng cách. Trong địa kinh tế, khoảng cách không giống với khoảng cách trong hình học của Euclicd mà biểu hiện các chi phí để đến được những nơi có mật độ kinh tế cao nhằm ám chỉ sự di chuyển dễ dàng hoặc khó khăn của hàng hoá, dịch vụ, lao động, vốn, thông tin và ý tưởng (Ngân hàng Thế giới 2009). Trong thương mại và dịch vụ, khoảng cách liên quan đến thời gian và chi phí vận chuyển; trong dịch chuyển lao động, khoảng cách bao hàm cả “chi phí tinh thần” vì cư dân phải rời bỏ nơi chốn thân quen và phải đánh đổi bằng tình trạng sức khỏe xấu hơn, tuổi thọ ngắn hơn để có những cơ hội cho cuộc sống. Khoảng cách kinh tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự lan tỏa giữa các vùng vì ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động có mối quan hệ tương tác theo không gian (Trương Thị Kim Chuyên 2011). Thêm nữa, những rào cản hữu hình (trạm thu phí…) và vô hình (chính sách…) cũng làm gia tăng khoảng cách. Chia cắt – Division Trạm thu phí hay địa giới hành chính là một trong những rào cản chính gia tăng khoảng cách và đồng thời cũng gia tăng sự cách biệt giữa các vùng mà bên ngoài dường như không nhận thấy. Trong địa kinh tế, điều này gọi là chia cắt. Nếu chia cắt diễn ra càng mạnh mẽ sẽ gây nên những ảnh hưởng rất lớn đến việc lưu thông hàng hoá, vốn, con người và ý tưởng. Những vùng biên giới xa xôi, nơi quần cư của nhiều dân tộc ít người thường được xem là những vùng đại diện cho sự chia cắt. Ở một khía cạnh khác, đa văn hóa, đa sắc tộc ở đô thị mang đến không gian văn hóa đa dạng, nhiều kinh nghiệm và sự sáng tạo (Alesina & Ferrara 2005) nhưng cũng là nguyên nhân của chi phí điều phối cao vì không thể áp dụng chính sách chung cho toàn xã hội (Shabani et al. 2012). Thêm nữa, khi truyền thông không đầy đủ, có thể gây trở ngại cho việc phổ biến chính sách, khoa học–công nghệ ảnh hưởng hưởng xấu đến tăng trưởng (Eris 2010). Trong khuôn khổ bài viết, sự khác biệt việc tiếp cận theo cách mới so với cách cũ được chỉ ra trong bảng dưới đây nhằm lí giải vì sao nhiều chính sách phát triển cho những vùng đô thị chưa thật sự thành công bởi cách tiếp cận trong chính sách phát triển vùng thường phân tích theo các hợp phần riêng lẻ như điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng, thể chế… 346
  7. Bảng 1. So sánh giữa hai cách tiếp cận trong phát triển đô thị TT Khía cạnh Tiếp cận địa kinh tế Tiếp cận truyền thống 1 Mật độ - Mật độ biểu hiện mức độ tập - Mật độ chỉ sự tích tụ của trung của hoạt động kinh tế trên dân cư (người/km²). đơn vị diện tích đất (tổng - Tập trung vào chính sách GDP/km²). về đô thị hoá. - Chính sách chú trọng đến nỗ lực cải thiện dịch vụ công ở đô thị. 2 Khoảng - Khoảng cách biểu hiện các chi - Khoảng cách thường cách phí để đến được những nơi có ám chỉ chiều dài giữa hai mật độ kinh tế cao. địa điểm (khoảng cách - Đôi khi còn ám chỉ “chi phí tinh tuyệt đối). thần” cho việc xa rời lãnh thổ - Chưa quan tâm đến khía thân quen. cạnh kinh tế và chi phí - Chính sách chính là tập trung tinh thần. khuyến khích thu hút đầu tư về đô - Tập trung chính sách thị thông qua marketing địa phát triển cơ sở hạ tầng để phương. kết nối. 3 Chia cắt - Sự chia cắt diễn ra khi các - Sự chia cắt thường xem đường biên giới giữa các quốc gia xét giữa vùng phát triển và không được quản lí tốt. vùng nghèo. - Giữa các vùng trong quốc gia, - Vùng cao, vùng sâu, sự chia cắt diễn ra khi có sự phân vùng xa xem là vùng bị hóa sâu sắc về văn hoá, ngôn ngữ, chia cắt. sắc tộc và tôn giáo. - Các công cụ chính sách - Kết hợp cả ba công cụ: thể chế, thường dàn trải và ít mục cơ sở hạ tầng và cơ chế khuyến tiêu. khích có mục tiêu rõ ràng. Nguồn: Điều chỉnh từ (Trương Thị Kim Chuyên 2011) Một trong những tác lực thị trường có liên quan đến cách tiếp cận 3D là tính kinh tế nhờ sự tích tụ. Tính kinh tế nhờ sự tích tụ được tăng cường theo mật độ và suy yếu theo khoảng cách. Điều này có thể giải thích vì sao người dân thường chọn nơi có mật độ cao và chấp nhận trả giá để đến được vùng giàu có hơn. Một số nước mắc phải nỗi lo sợ vô cớ về đô thị hoá trong quá trình phát triển vì sự tập trung hóa vào một vùng là không tốt. Điều này có thể do ảnh hưởng tư duy dàn trải trong phát 347
  8. triển vùng của Liên Xô trong thế kỷ trước. Ví dụ ở Việt Nam tuy thị dân chỉ chiếm 30% nhưng GDP trong sản lượng quốc gia do khu vực này mang lại chiếm đến 70%, và sẽ rất vô ích nếu các nhà hoạch định chính sách tốn công để hạn chế việc nhập cư vào đô thị. Tuy nhiên các thành phố mật độ cao chưa hẳn đã hấp dẫn được nhà đầu tư nếu thành phố không thoả mãn các nhu cầu về đất đai và địa điểm của những ngành kinh tế chủ đạo của mình. Bên cạnh đó, qui mô và mức độ tập trung cao của thành phố cũng gây nên những vấn nạn như vấn đề tội phạm, ô nhiễm… Tóm lại, sự tích tụ sẽ được nhiều lợi ích chỉ khi cơ sở hạ tầng được đáp ứng đầy đủ. Thông thường trách nhiệm phát triển cơ sở hạ tầng giao cho địa phương, nhưng không phải nguồn lực và năng lực của địa phương lúc nào cũng có. Bên cạnh đó, các thành phố mới sẽ khó hoạt động tốt nếu không được bố trí gần các thành phố đã phát triển. Tuy nhiên điều này phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lí của chính phủ. 4. Kết luận Bên cạnh là động lực mới cho phát triển kinh tế quốc gia và toàn cầu, hệ thống đô thị trong thế kỷ này phải đối mặt với những thách thức cho phát triển liên quan đến biến đổi khí hậu và toàn cầu hóa. Để tiếp tục tồn tại và phát triển, đô thị phải thích ứng đồng nghĩa với giảm thiểu những tác động và tận dụng cơ hội có thể có của những mối nguy bên ngoài để phát triển. Đồng thời, thay đổi cách tiếp cận trong phát triển đô thị có thể dẫn đến những thay đổi trong quan điểm của chính quyền đô thị và gián tiếp giúp hệ thống đô thị thích ứng tốt hơn trong tương lai. Việc thích ứng tốt với thách thức bên ngoài, đô thị có thể duy trì/tạo ra thương hiệu tạo nên sự khác biệt với những đô thị xung quanh. Tài liệu tham khảo 1. Adger, W.N. et al., 2009. Are there social limits to adaptation to climate change? Climatic Change, 93(3–4), pp.335–354. 2. Alesina, A. & Ferrara, E.L., 2005. Ethnic diversity and economic performance. Journal of Economic Literature, 43(3), pp.762–800. 3. Bettencourt, L. & West, G., 2010. A unified theory of urban living. Nature, 467(7318), pp.912–913. 4. Bettencourt, L.M. et al., 2007. Growth, innovation, scaling, and the pace of life in cities. Proceedings of the national academy of sciences, 104(17), pp.7301–7306. 5. Brooks, N., 2003. Vulnerability, risk and adaptation: A conceptual framework, Tyndall Centre Working Paper, No. 38. Norwich, UK, Tyndall Centre for Climate Change Research, University of East Anglia. 348
  9. 6. Brugmann, J., 2012. Financing the resilient city. Environment and Urbanization, 24(1), pp.215–232. 7. Bryant, C.R. et al., 2000. Adaptation in Canadian agriculture to climatic variability and change. Climate Change, 45(1), pp.181–201. 8. Burton, I., 1996. The growth of adaptation capacity: Practice and policy. In J. Smith, N. Bhatti, G. Menzhulin, R. Benioff, M.I. Budyko, M. Campos, B. Jallow, and F. Rijsberman (eds.) Adapting to Climate Change: An International Perspective. New York, USA: Springer-Verlag, pp. 55–67. 9. Butler, D., 2010. Cities: The century of the city. Nature, 467(7318), pp.900–901. 10. Cohen, B., 2014. The 10 smartest cities in Europe, Fast Company. 11. Cohen, B., 2015. The smartest cities in the world 2015: Methodology, Fast Company. 12. Cohen, B., 2012a. The top 10 smart cities on the planet, Co. Exist, 11. 13. Cohen, B., 2012b. What exactly is a smart city, Co. Exist, 19. 14. Cohen, J.E., 2003. Human Population: The Next Half Century. Science, 302(5648), pp.1172–1175. 15. Cutter, S.L. et al., 2008. A place-based model for understanding community resilience to natural disasters. Global Environmental Change, 18, pp.598–606. 16. Dobbs, R. et al., 2011. Urban world: Mapping the economic power of cities, McKinsey Global Institute. 17. Eakin, H. & Luers, A.L., 2006. Assessing the vulnerability of social environmental systems. Annual review of Environment and Resources, 31, pp.365–394. 18. Engle, N.L., 2011. Adaptive capacity and its assessment. Global Environmental Change, 21, pp.647–656. 19. Eris, M., 2010. Population heterogeneity and growth. Economic Modelling, 27(5), pp.1211–1222. 20. Fankhauser, S., 1996. The potential costs of climate change adaptation. In J. Smith, N. Bhatti, G. Menzhulin, R. Benioff, M.I. Budyko, M. Campos, B. Jallow, and F. Rijsberman (eds.) Adapting to Climate Change: An International Perspective. New York, USA: Springer-Verlag, pp. 80–96. 21. Fingleton, B., 2007. A multi-equation spatial econometric model, with application to EU manufacturing productivity growth. Journal of Geographical Systems, 9(2), pp.119–144. 349
  10. 22. Folke, C. et al., 2002. Resilience and sustainable development: Building adaptive capacity in a world of transformations. AMBIO: A journal of the human environment, 31(5), pp.437–440. 23. Galderisi, A., 2014. Adapting cities for a changing climate: An integrated approach for sustainable urban development. WIT Transactions on Ecology and the Environment, 191, pp.549–560. 24. Gallopín, G.C., 2006. Linkages between vulnerability, resilience, and adaptive capacity. Global Environmental Change, 16, pp.293–303. 25. Giffinger, R. & Pichler-Milanović, N., 2007. Smart cities Ranking of European medium-sized cities, Vienna University of Technology, Centre of Regional Science. 26. Glaeser, E., 2011. Cities, productivity, and quality of life. Science, 333(6042), pp.592–594. 27. Graaf, D.R., 2012. Adaptive urban development: A symbiosis between cities on land and water in the 21st century, Holland: Rotterdam University Press. 28. IPCC, 2014. Climate Change 2014 (Synthesis Report). Contribution of Working Groups I, II and III to the Fifth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Geneva, Switzerland. 29. Jacobs, M., 2006. Fairness and Futurity : Essays on Environmental Sustainability and Social Justice, Oxford, UK: Oxford University Press. 30. Janssen, M.A., Anderies, J.M. & Ostrom, E., 2007. Robustness of social- ecological systems to spatial and temporal variability. Society and Natural Resources, 20(4), pp.307–322. 31. Kane, S. & Shogren, J.F., 2000. Linking Adaptation and Mitigation in Climate Change Policy. Climate Change, 45(1), pp.75–102. 32. Klasen, S. & Nestmann, T., 2006. Population, population density and technological change. Journal of Population Economics, 19(3), pp.611–626. 33. Nelson, R., Adger, W.N. & Brown, K., 2007. Adaptation to environmental change: Contributions of a resilience framework. Annual review of Environment and Resources, 32, pp.395–419. 34. Ngân hàng Thế giới, 2009. Tái định dạng địa kinh tế, Hanoi: NXB Văn hóa thông tin. 35. Parry, M. et al., 1998. Adapting to the inevitable. Nature, 395, pp.741–742. 36. Pelling, M., 2010. Adaptation to Climate Change: From Resilience to Transformation, UK: Routledge. 350
  11. 37. Pielke, R.A., 1998. Rethinking the role of adaptation in climate policy. Global Environmental Change, 8(2), pp.159–170. 38. Polsky, C., Neff, R. & Yarnal, B., 2007. Building comparable global change vulnerability assessments: The vulnerability scoping diagram. Global Environmental Change, 17, pp.472–485. 39. Romero-Lankao, P. et al., 2016. Urban sustainability and resilience: From theory to practice. Sustainability, 8(12), p.1224. 40. Sassen, S., 2018. Cities in a world economy, Sage Publications. 41. Shabani, Z.D., Akbari, N. & Esfahani, R.D., 2012. Effect of Population Density, Division and Distance on Regional Economic Growth. Iranian Economic Review, 16(31), p.2012. 42. Smit, B. et al., 1999. The Science of Adaptation: A Framework for Assessment. Mitigation and Adaptation Strategies for Global Change, 4, pp.199–213. 43. Smit, B. & Pilifosova, O., 2003. Adaptation to climate change in the context of sustainable development and equity. Sustainable Development, 8(9), pp.1–9. 44. Smit, B. & Wandel, J., 2006. Adaptation, adaptive capacity and vulnerability. Global Environmental Change, 16(3), pp.282–292. 45. Smith, J.B. et al., 1996. Adapting to Climate Change: An International Perspective, New York, USA: Springer-Verlag. 46. Smith, K., 1996. Environmental Hazards: Assessing Risk and Reducing Disaster, London, UK: Routledge. 47. Trương Thị Kim Chuyên, 2011. Một vài suy nghĩ về chính sách phát triển vùng ở Việt Nam nhìn từ cách tiếp cận của Báo cáo Phát triển Thế giới 2009, Hội thảo Cơ sở khoa học cho phát triển vùng trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, Hà Nội. 48. Turner II, B.L. et al., 2003. A framework for vulnerability analysis in sustainability science. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 100, pp.8074–8079. 49. Turner II, B.L., 2010. Vulnerability and resilience: coalescing or paralleling approaches for sustainability science? Global Environmental Change, 20, pp.570–576. 50. Vogel, C. et al., 2007. Linking vulnerability, adaptation, and resilience science to practice: pathways, players, and partnerships. Global Environmental Change, 17, pp.349–364. 51. Young, O.R. et al., 2006. The globalization of socio-ecological systems: an agenda for scientific research. Global Environmental Change, 16, pp.304–316. 351
nguon tai.lieu . vn