Xem mẫu
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
44.
1
Trần Thị Thanh Tú*
Lê Hồng Hạnh**
Nguyễn Thị Minh Huệ***
Nguyễn Thị Hồng Thúy**
Tóm tắt
Để hướng tới hệ sinh thái kinh tế xanh, hệ thống tài chính xanh sẽ đóng vai trò quan trọng
khi đảm nhiệm vai trò là kênh dẫn và điều tiết vốn. Nghiên cứu này tập trung vào việc
tổng quan vai trò của hệ thống tài chính xanh, từ đó định vị hệ thống tài chính xanh trong
nền kinh tế xanh trên thế giới và ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện đánh giá
thực trạng phát triển hệ thống xanh ở Việt Nam hiện nay, qua đó, đề xuất xây dựng bộ
chỉ số giúp định vị hệ thống tài chính xanh, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị tới các
chủ thể tham gia vào hệ thống tài chính xanh nhằm hiện thực hóa mục tiêu trong dài hạn.
Từ khóa: Tài chính xanh, kinh tế xanh, chỉ số xanh.
1. Giới thiệu chung
Từng là một quốc gia "xanh" trong thế kỷ 20, song với sự tăng trưởng kinh tế xã hội trong
vài năm trở lại đây, Việt Nam đã đứng đầu tại Đông Nam Á về lượng khí nhà kính phát
thải2. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam thời gian qua dựa nhiều vào khai thác tài
nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô và sơ chế gây thiệt hại cho môi trường và gia tăng tác
động của biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của UNEP (2013) thì Việt Nam có mức độ sử
* Trường Đại học Việt Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội| Email liên hệ: tuttt76@gmail.com
** Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
*** Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
2
Theo Báo cáo kỹ thuật kiểm kê quốc gia khí nhà kính của Việt Nam năm 2014 (Bộ Tài nguyên và Môi
trường năm 2018)
613
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
dụng nguyên liệu thô trong nước (than, dầu, thép) để sản xuất ra một đơn vị GDP vào loại
cao nhất thế giới. Trong khi thế giới ngày càng ít sử dụng nguyên liệu thô để tạo ra một
đơn vị GDP thì Việt Nam lại gia tăng tỷ lệ này. Nếu như năm 1990, Việt Nam sử dụng
khoảng hơn 8kg nguyên liệu thô để tạo ra 1 USD GDP thì con số này đến năm 2008 là
khoảng 13kg, trong khi con số tương ứng để tạo ra 1 USD GDP trung bình của thế giới
năm 1990 là 1,8kg tới năm 2008 chỉ còn khoảng 1,5kg.
Có thể thấy, trái ngược với nền kinh tế xanh - nền kinh tế đảm bảo 3 yếu tố: tăng trưởng
kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, thì mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam
hiện nay vẫn đang ở trạng thái “nâu”, tức là nền kinh tế tập trung khai thác và sử dụng quá
nhiều năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch gây ảnh hưởng đến môi trường. Cũng như nhiều
nước trên Thế giới, Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình “thay máu” từ “nâu” sang “xanh”
với rất nhiều chương trình và hành động. Tuy nhiên, để thực sự đổi màu một nền kinh tế từ
“nâu” sang “xanh” là một vấn đề hết sức khó khăn, cần sự chung tay, đồng lòng của tất cả
mọi người. Việc xây dựng một nền kinh tế xanh cũng đòi hỏi một nguồn lực tài chính rất lớn,
thậm chí phải đánh đổi nhiều điều nhất là với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam. Ngay
cả với những quốc gia phát triển như Mỹ và các nước châu Âu, việc thực hiện chiến lược
tăng trưởng xanh cũng không hề đơn giản. Để xây dựng một nền kinh tế xanh cũng cần phải
có một nguồn lực và nền tảng kinh tế vững chắc.
“Kinh tế xanh” (hay “kinh tế sạch”) là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người
và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể những rủi ro môi trường và
những thiếu hụt sinh thái3. Hiểu một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải
thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. Chiến lược tăng trưởng
cơ bản của nền “kinh tế xanh” là bảo vệ môi trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch
và năng lượng sạch, nhanh chóng đạt được mức tăng trưởng bền vững hay nói cách khác
là tăng trưởng xanh. Phát triển nền kinh tế xanh là mục tiêu của mọi quốc gia hiện nay,
trong đó xây dựng “hệ thống tài chính xanh” là điều kiện nền tảng. Thực tế, theo nghiên
cứu của Nannette (2014) thì chưa có khái niệm cụ thể về tài chính xanh và tài chính xanh
vẫn đang được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này,
nhóm tác giả sẽ sử dụng khái niệm về hệ thống tài chính xanh theo nhóm nghiên cứu đề
tài cấp nhà nước (KX01.27/16-20). Theo đó, hệ thống tài chính xanh được hiểu là: “Hệ
thống tài chính cho phép luân chuyển nguồn tài chính tới các hoạt động đầu tư thông qua
các trung gian tài chính và thị trường tài chính trong đó các hoạt động đầu tư phải đảm
bảo các điều kiện xanh, bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững. Khi đó, các
3
Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP, 2011)
614
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính xanh sẽ mang đặc điểm xanh, bao gồm: trung
gian tài chính xanh, thị trường tài chính xanh, công cụ huy động vốn xanh hay nguồn vốn
xanh, và đầu tư xanh ”.
Hệ thống tài chính xanh đóng vai trò là kênh dẫn vốn và điều tiết nguồn lực cho phát
triển nền kinh tế xanh (điều tiết hoạt động đầu tư). Hệ thống tài chính xanh thúc đẩy
các công cụ xanh như tín dụng xanh của ngân hàng xanh, trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh,
chỉ số tài chính xanh. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính xanh còn giúp thúc đẩy các loại
thị trường xanh.
Xuất phát từ vai trò cốt yếu của hệ thống tài chính xanh đóng góp vào kinh tế xanh,
kết quả nghiên cứu kinh nghiệm từ các Quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Anh, Châu
Âu, Nam Phi, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy việc xanh hóa hệ thống tài chính được
nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nhằm khắc phục và hạn chế những tác động tiêu
cực của phát triển kinh tế tới môi trường, cải thiện môi trường thông qua xanh hóa nền
kinh tế. Những kết quả nghiên cứu bước đầu là cơ sở khoa học quan trọng cho việc đưa
ra mô hình phát triển tài chính xanh phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia. Mặc dù đây
là một lĩnh vực khá mới, song nhận thấy được vai trò quan trọng của phát triển hệ tống
tài chính xanh, Việt Nam bước đầu hướng tới sự phát triển của hệ thống tài chính xanh
nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, cho tới nay các chính sách về tài chính
xanh tại Việt Nam mới đang ở dạng gợi mở về các định hướng phát triển. Các quy định
cụ thể về triển khai, vận hành thị trường vẫn đang được nghiên cứu, chưa được ban hành,
trong đó có việc xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ xanh hóa của hệ thống tài chính.
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá thực trạng phát triển hệ thống xanh ở Việt
Nam hiện nay, qua đó, đề xuất xây dựng bộ chỉ số giúp định vị hệ thống tài chính xanh,
đồng thời đưa ra một số khuyến nghị tới các chủ thể tham gia vào hệ thống tài chính xanh
nhằm hiện thực hóa mục tiêu trong dài hạn. Việc đóng góp xây dựng bộ chỉ số đánh giá
mức độ xanh hóa của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ đóng góp
lớn về khoa học lí luận và học thuật cho các nghiên cứu về kinh tế và tài chính ở Việt
Nam cũng như thế giới.
2. Đánh giá thực trạng phát triển hệ thống tài chính xanh ở Việt Nam
Trước nhu cầu thúc đẩy tăng trưởng xanh của Việt Nam, nhu cầu vốn phục vụ cho mục
tiêu này là rất lớn. Theo Báo cáo Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định – INDC
615
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Việt Nam4, Việt Nam cần khoảng 20 tỷ USD để đầu tư cho tăng trưởng xanh trong giai
đoạn 2021-2030. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã có những hành động cụ thể trong
việc thiết lập chính sách phát triển tài chính xanh tại Việt Nam. Trong đó, đã có một số
chính sách phát triển thị trường vốn xanh được ban hành. Về mặt phát triển ngân hàng
xanh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hoàn thiện Kế hoạch hành động của ngành ngân
hàng (Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 6/8/2015), Đề án phát triển ngân hàng xanh
(Quyết định số 1604/QĐ-NHNN) và đưa ra các chương trình tín dụng góp phần sử dụng
tài nguyên hiệu quả, tạo sinh kế và nâng cao mức sống của người dân, giải quyết từng
bước các vấn đề môi trường và xã hội; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực theo
hướng đầu tư theo chiều sâu, sử dụng công nghệ cao…
Thực trạng phát triển hệ thống tài chính xanh tại Việt Nam được xem xét đánh giá trên
hai góc độ: (i) Nguồn vốn xanh và (ii) Đầu tư xanh.
Đối với nguồn vốn xanh, các doanh nghiệp Việt Nam có thể vay vốn thông qua kênh
tài chính trực tiếp gồm: Thị trường Carbon, Thị trường trái phiếu xanh, Thị trường Cổ
phiếu xanh, Hệ thống chỉ số xếp hạng xanh, Mạng lưới nhà đầu tư xanh. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn tài chính xanh thông qua kênh tài chính gián
tiếp như ngân hàng xanh hoặc các quỹ đầu tư xanh. Hiện nay, các NHTM cũng đã tự xác
định mức độ cam kết cao đối với các vấn đề xanh trong chiến lược đầu tư. Nhìn chung,
nhiều tổ chức đã cam kết hỗ trợ đầu tư xanh và thực hiện các mục tiêu của Chiến lược
tăng trưởng xanh quốc gia. Điều này cũng được thể hiện thông qua chỉ số tỷ trọng tín
dụng xanh của toàn ngành ngân hàng tăng hơn 2,5 lần trong vòng 4 năm từ 1,5% năm
2016 đến 4,1% năm 2019.
Đối với đầu tư xanh, tại Việt Nam, các doanh nghiệp quy mô đủ lớn đã bắt đầu quan
tâm hơn tới bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội. Một số doanh nghiệp điển hình
trong xu hướng đầu tư xanh như: Tập đoàn Vingroup, Vinamilk, Tập đoàn Hoa Sen, Công
ty Coca Cola Việt Nam, COFICO Công ty cổ phần xây dựng số 1, Toyota Việt Nam. Bên
cạnh đó, ở cấp độ vĩ mô, Chính phủ và NHNN đã ban hành nhiều chỉ thị nhằm thúc đẩy
phát triển đầu tư xanh.
2.1. Thực trạng phát triển nguồn vốn xanh
Nguồn vốn xanh trong nền kinh tế hiện nay đến từ một số nguồn chính như: nguồn vốn
xanh của các NHTM và tổ chức tài chính quốc tế, nguồn vốn từ hoạt động tín dụng xanh
4
Là một báo cáo do Chính phủ Việt Nam xây dựng theo gợi ý của Công ước khung của LHQ về biến đổi
khí hậu (UNFCCC). Báo cáo được gửi cho Ban thư ký UNFCCC và công bố vào tháng 10/2015.
616
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
và nguồn vốn có được thông qua việc phát hành các công cụ huy động vốn xanh, bao
gồm trái phiếu xanh và vốn chủ sở hữu xanh.
Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho tài chính xanh ở Việt Nam hiện nay đến từ Chính phủ,
các tổ chức phát triển quốc gia, các định chế quốc tế hay ngân hàng phát triển song
phương và đa phương, các doanh nghiệp và cá nhân. Tương tự như nguồn vốn thông
thường, nguồn vốn xanh cũng được huy động theo hai kênh là kênh tài chính trực tiếp và
kênh tài chính gián tiếp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động phát triển nguồn vốn xanh từ
tín dụng xanh mới chỉ bước đầu được một số các NHTM quan tâm triển khai bởi những
lợi ích của việc trở thành ngân hàng xanh chưa thực sự rõ ràng. Với các nỗ lực chung,
đến nay nền tảng pháp lý, thể chế, chính sách cho ngân hàng-tín dụng xanh về cơ bản đã
hình thành. Dư nợ tín dụng xanh qua thống kê chưa đầy đủ đến tháng 6/2019 đã tăng rất
nhanh lên đến 317.600 tỷ đồng. Tỷ trọng tín dụng xanh cũng tăng mạnh từ 1,5% lên 4,1%
tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Hai nhóm công cụ huy động tài chính xanh phổ biến hiện
nay là Trái phiếu xanh (Green Bonds) và Vốn chủ sở hữu xanh (Green Equity). Tuy nhiên
đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam, công cụ huy động tài chính xanh chủ yếu vẫn sử dụng
qua hình thức phát hành trái phiếu xanh.
Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ có 2 văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến định nghĩa
trái phiếu xanh là Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 4 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ
và Nghị định số 153/2020/NĐ-CP. Thị trường trái phiếu xanh ở Việt Nam mới đang trong
giai đoạn triển khai thí điểm, chưa có sản phẩm phát hành rộng rãi trên thị trường.
Trong khi đó, thị trường cổ phiếu xanh ở Việt Nam cũng đang được đưa vào giai đoạn
tạo lập. Các hoạt động chính đã được triển khai đến nay có thể được chia thành 3 nhóm:
(i) nâng cao hiểu biết toàn thị trường về tài chính xanh; (ii) khuyến khích sự tham gia của
các doanh nghiệp với tài chính xanh; (iii) xây dựng và áp dụng chỉ số phát triển bền vững
toàn thị trường.
2.2. Thực trạng đầu tư xanh
Xét trên cấp độ vĩ mô, trên cơ sở ban hành cơ chế chính sách đối với phát triển bền vững,
quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong các Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
tại nhiều kỳ Đại hội Đảng. Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 1393/QĐ – TTg phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2012
– 2020 và tầm nhìn đến 2050. Các hoạt động thu hút nguồn lực cho đầu tư xanh cũng tích
cực được phối hợp thực hiện giữa các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ và các cơ quan
Chính phủ. NHNN cũng ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy
617
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín
dụng. Bên cạnh đó, sáng kiến Khu công nghiệp sinh thái hướng tới mô hình khu công
nghiệp bền vững tại Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với UNIDO thực hiện từ
năm 2014.
Xét trên cấp độ vi mô – cấp độ doanh nghiệp, những đánh giá từ khảo sát PCI 2016
cho thấy đa số các doanh nghiệp đều biết đến các quy định về môi trường áp dụng với
các doanh nghiệp (87%), tuy nhiên trong số này chỉ có một thiểu số các doanh nghiệp
trong nước. Trái ngược với hiệu ứng tích cực đạt được trong việc phổ biến các quy định
trên tới doanh nghiệp, thực tế lại có tới hơn 80% doanh nghiệp tại Việt Nam chưa thi
hành đầy đủ các quy định về môi trường trong sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, làn sóng
khởi nghiệp xanh đã và đang trên đà phát triển ngày càng mạnh mẽ. Các doanh nghiệp
quy mô đủ lớn đã bắt đầu quan tâm thỏa đáng hơn tới bảo vệ môi trường và trách nhiệm
xã hội.
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển các trung gian tài chính xanh
Thực trạng phát triển ngân hàng xanh
Phát triển tín dụng xanh là một hoạt động tiên phong của các NHTM Việt Nam trong nỗ
lực thực hiện Đề án Phát triển tín dụng xanh, hướng tới Chiến lược ngân hàng xanh ở
Việt Nam. Quy mô dư nợ tín dụng xanh có xu hướng tăng nhanh. Số lượng NHTM triển
khai các sản phẩm tín dụng xanh cũng gia tăng nhanh chóng. Từ con số 3 NHTM theo
chương trình thí điểm vào năm 2016 thì đến quý I/2019, đã có gần 20 NHTM triển khai
các sản phẩm tín dụng xanh (trên tổng số 178 TCTD, không bao gồm quỹ tín dụng nhân
dân). Các ngân hàng chính sách (như NH Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển) tích
cực triển khai các dự án tăng trưởng bền vững hướng đến nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân (như nước sạch vệ sinh môi trường, chống biến đổi khí hậu…). Các NHTM
Nhà nước tiếp tục mở rộng triển khai tín dụng xanh từ chương trình của NHNN. Các
NHTM tư nhân và Ngân hàng nước ngoài cũng tích cực tung ra các sản phẩm hướng đến
phát triển bền vững.
Các NHTM Việt Nam đạt được những tiến bộ khá tích cực trong việc phát triển hệ
thống ngân hàng xanh thông qua hoàn thiện hệ thống quản trị, cải thiện chính sách cổ
đông, công bố thông tin cũng như kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, trình độ của Việt Nam còn
kém rất xa so với các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Singapore…
Các NHTM đã chú trọng xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội. Kết
quả đến nay đã có 3 NHTM áp dụng được Hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường
618
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
và xã hội (ESMS), 17 NHTM đã xây dựng quy trình thẩm định rủi ro môi trường và xã
hội trong các quy định nội bộ và đa phần đã thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã
hội trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, đa phần các NHTM chưa có bộ phận riêng,
chuyên trách về phát triển ngân hàng – tín dụng xanh.
Các NHTM đã chú trọng nâng cao năng lực quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong các
hoạt động thông qua việc tham gia các Tọa đàm, Hội thảo và đáp ứng các tiêu chuẩn của các
Tổ chức quốc tế trong triển khai tín dụng xanh để trang bị những kiến thức mới, tiếp cận
những quy định của NHNN về phát triển ngân hàng xanh. Các NHTM cũng chủ động học
hỏi, đáp ứng các yêu cầu ESG trong các chương trình hợp tác với Tổ chức quốc tế để triển
khai tín dụng xanh. Các tổ chức quốc tế (như EU, GIZ, IFC…) đã tích cực thực hiện các
chương trình tài trợ vốn, hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực phát triển tài chính xanh cho
Việt Nam. Có thể nói, các NHTM Việt Nam hiện nay mới ở cấp độ 3 trong 5 cấp độ phát
triển ngân hàng xanh của Kaufler, 2010. (Trần Thị Thanh Tú và cộng sự, 2020).
3. Đề xuất xây dựng bộ chỉ số Tài chính xanh để định vị hệ thống tài chính xanh
3.1. Các nghiên cứu liên quan tới xây dựng bộ chỉ số tài chính xanh
Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu đề xuất xây dựng bộ chỉ số kinh tế xanh như
nghiên cứu của Danlu (2018) áp dụng cho thị trường Trung Quốc đã đề xuất mô hình chỉ
số phát triển kinh tế xanh (GEI- Green economy development Index). Theo đó, chỉ số này
sẽ có mối quan hệ hàm số với các biến như: Đầu tư năng lượng tái tạo (INV), Tín dụng
xanh (CRE), đầu tư xử lý ô nhiễm (IPG), trình độ kỹ thuật (TE), và cấu trúc lĩnh vực.
Nhóm tác giả đã ứng dụng bộ chỉ số GEI đối với 150 doanh nghiệp niêm yết có sử dụng
năng lượng tái tạo ở Trung Quốc. Kết quả cho thấy sự phát triển về nền kinh tế xanh
không chỉ phụ thuộc vào đầu tư vào năng lượng tái tạo của các doanh nghiệp, mà còn phụ
thuộc vào các ràng buộc khác liên quan tới tài chính hành vi. Cụ thể như cần kết hợp các
chính sách về tín dụng xanh của chính phủ với các tổ chức tài chính để tối ưu hóa hiệu
quả của sử dụng năng lượng tái tạo. Nghiên cứu của Puhakka (2017) cũng cho kết quả
tương tự như nghiên cứu của Danlu (2018) khi cho rằng yếu tố về các chính sách và quy
định của chính phủ là yếu tố quan trọng tác động tới việc chuyển đổi thành nền kinh tế
xanh. Bên cạnh đó, tác giả đã tổng hợp khung các yếu tố tác động tới nền kinh tế xanh
liên quan tới 5 phương diện chính: (1) Kinh tế và thị trường nói chung, (2) Nghiên cứu
khoa học và phát triển, (3) Các chính sách và quy định, (4) Nguồn vốn trong xã hội, (5)
Nhận thức của cộng đồng. Anton (2016) đã xây dựng bộ chỉ số kinh tế xanh (GEI) gồm
26 chỉ tiêu. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng chỉ số này đối với 193 quốc gia. Theo đó, các
chỉ tiêu này bao trùm các vấn đề chính như: (1) Quản trị quốc gia, (2) Tỷ lệ của tài trợ
619
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
cho khai thác nhiên liệu hóa thạch/đầu tư cho các doanh nghiệp về môi trường/năng lượng
tái tạo/bằng sáng chế liên quan đến môi trường so với tổng GDP, (3) Diện tích trang trại
hữu cơ so với tổng diện tích đất nông nghiệp, (4) Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng
nguồn cung năng lượng sơ cấp, (5) Dấu chân sinh thái (không bao gồm khí thải carbon),
(6) Lượng năng lượng tiêu thụ/Nước rút bình quân/Lượng khí thải /Xử lý khí thải bình
quân/Lượng khí thải nhà kính trên mỗi đầu người, (7) Tiêu thụ nguyên liệu trong nước,
(8) Chỉ số ô nhiễm không khí/nước, (9) Tỷ lệ các khu bảo tồn biển và trên cạn, (10) Tỷ
lệ các loài bị đe dọa tuyệt chủng, (11) Tỷ lệ chuyển đổi đất, (12) Khoảng cách đói nghèo,
(13) Chỉ số nhu cầu cơ bản, (14) Tiết kiệm ròng được điều chỉnh (tiết kiệm đích thực)
theo tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập quốc dân, (15) Chỉ số phát triển con người, (16)
Tỷ số việc làm trên dân số trong độ tuổi lao động, (17) Chỉ số công việc tốt, (18) Hệ số
Gini, (19) Mức độ hài lòng về cuộc sống. Có thể thấy bộ chỉ số GEI được đề xuất rất bao
trùm, thể hiện được nhiều nội dung tác động và cần được xem xét khi hướng tới nền kinh
tế xanh. Kết quả khảo sát cho thấy Thụy Sĩ, Áo và Thụy Điển là ba quốc gia được xếp
hạng cao nhất, và Kazakhstan, Yemen và Turkmenistan có xếp hạng thấp nhất. Tuy nhiên,
đáng ngạc nhiên Mỹ xếp hạng trong 15 quốc gia có điểm GEI thấp nhất trong tổng số
mẫu nghiên cứu gồm 193 quốc gia. Bên cạnh đó, cũng cần nhấn mạnh rằng, tương tự như
hầu hết các nghiên cứu khác, yếu tố quản trị quốc gia là một yếu tố then chốt tác động tới
nhóm chỉ số này.
Tuy nhiên, khi đi sâu hơn về tài chính xanh, một nội dung của kinh tế xanh, số lượng
bài nghiên cứu xây dựng chỉ số tài chính xanh còn hạn chế. Shah (2016) đã phát triển chỉ
số thân thiện với tài chính dựa trên phân tích nhân tố và trọng số phi tuyến để so sánh
mức độ chia sẻ rủi ro tài chính và hỗ trợ giữa các quốc gia. Zhang và cộng sự (2018) đã
hình thành chỉ số phát triển tài chính thông qua phân tích kinh tế lượng, và chỉ ra rằng
trong ngắn hạn, chỉ số phát triển tài chính và giá năng lượng của Pakistan có liên quan
đáng kể đến tiêu thụ năng lượng. Zhong và cộng sự (2018) chia hệ thống chỉ số phát triển
tài chính xanh thành hai loại: Chỉ số hoạt động thị trường tài chính xanh và chỉ số môi
trường sinh thái tài chính xanh, từ đó xây dựng chỉ số phát triển tài chính xanh. Nhóm
nghiên cứu của chi nhánh trung ương Wuxi của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (2019)
đã đánh giá tính bền vững của phát triển tài chính xanh từ ba khía cạnh tài chính xanh,
đầu tư xanh và xã hội xanh, đồng thời đo lường và đánh giá mức độ toàn diện của phát
triển bền vững xanh tài chính ở Trung Quốc bằng cách xây dựng một hệ thống đánh giá
620
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
toàn diện về phát triển bền vững của vật liệu xanh. Wang (2021)5 đã xây dựng chỉ số tài
chính xanh dựa trên việc đánh giá các dự án tại Trung Quốc, gồm có: (1) Dự án phát triển
nông nghiệp xanh, (2) Dự án phát triển lâm nghiệp xanh, (3) Công trình công nghiệp tiết
kiệm năng lượng, tiết kiệm nước bảo vệ môi trường, (5) Bảo vệ thiên nhiên, phục hồi hệ
sinh thái và phòng chống thiên tai, (6) Dự án tái chế tài nguyên, (7) Dự án năng lượng tái
tạo và năng lượng sạch, (8) Dự án tiết kiệm nước nông thôn và đô thị, (9) Xây dựng các
dự án tiết kiệm năng lượng và công trình xanh, (10) Dự án giao thông xanh, (11) Dự án
dịch vụ tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường, (12) Dự án nước ngoài áp dụng các
thông lệ quốc tế hoặc tiêu chuẩn quốc tế, (13) Tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường,
(14) Năng lượng mới và các phương tiện sử dụng năng lượng mới.
Như vậy, có thể thấy, tuy rằng mỗi quốc gia có một đặc thù riêng, do đó, sẽ ảnh hưởng
tới việc xây dựng bộ chỉ số khác nhau, nhưng cần nhấn mạnh rằng, một số chỉ số chung
như quản trị quốc gia, khối lượng tiêu thụ nước/khí thải…v.v. sẽ được sử dụng như công
cụ để đánh giá mức độ tiếp cận tới tài chính xanh cũng như kinh tế xanh.
3.2. Kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ số Tài chính xanh trên thế giới
Mức độ phát triển của hệ thống tài chính xanh thường được các quốc gia đánh giá sử dụng
bốn phương pháp chính dựa trên cơ sở: (i) Tham gia hệ thống Tài chính khí hậu toàn cầu;
(ii) Các hoạt động tài chính vì khí hậu cụ thể ở các tổ chức tín dụng; (iii) Các bộ chỉ số
cho công cụ tài chính xanh; (iv) Bộ chỉ số cho hệ thống tài chính xanh.
Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã và đang tham gia rất tích cực vào các
hiệp hội, mạng lưới phát triển kinh tế xanh để chia sẻ kinh nghiệm, vốn đầu tư cũng như
hợp tác phát triển các dự án mang quy mô toàn cầu như Hiệp hội tài chính phát triển quốc
tế (International Development Bank Club - IDFC), Mạng lưới của Nhà kinh tế trưởng
(Chief Economist)… Bên cạnh đó bản thân các quốc gia cũng tự phát triển các công cụ
và bộ chỉ số tài chính xanh qua đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh,
đồng thời, trợ giúp cho các tổ chức trung gian tài chính xanh xác định được chính xác
hơn các dự án đầu tư xanh.
Ngay từ năm 2015, nhóm các Ngân hàng Phát triển Đa phương (Multilateral
Development Banks, gọi tắt là MDB) đã thành lập một báo cáo chung về tài chính khí
hậu (climate finance). Nhóm IDFC (2011) gồm 26 Tổ chức Tài chính Phát triển
(development finance institution) hàng đầu tầm quốc gia, khu vực và quốc tế từ khắp nơi
5
Wang, X., Zhao, H. & Bi, K. The measurement of green finance index and the development forecast of
green finance in China. Environ Ecol Stat (2021). https://doi.org/10.1007/s10651-021-00483-7
621
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
trên thế giới, 19 trong số đó đến từ các nước và khu vực đang phát triển - đã liên tục hỗ
trợ các nỗ lực của cộng đồng quốc tế để theo dõi và công bố các cam kết hỗ trợ tài chính
giảm thiểu và thích ứng với thay đổi khí hậu toàn cầu. Cả hai nhóm MDBs và IDFC đã
công bố độc lập số liệu tài chính khí hậu trong các năm qua cho tới khi họ muốn hợp tác
cách thức thực hiện và công bố kết quả trên cùng một báo cáo từ năm 2015 cho tới nay.
Hàng năm, Báo cáo về hoạt động tài chính vì khí hậu ở các tổ chức tín dụng được
chuẩn bị bởi Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank Group - WBG) và Cơ quan Phát
triển Pháp (Agence Française de Développement - AFD). Mục tiêu của báo cáo này là
minh họa một số trong nhiều cách mà các tổ chức tài chính hiện đang sử dụng để tích hợp
các cân nhắc về biến đổi khí hậu vào hoạt động cho vay và dịch vụ tư vấn của họ. Các tổ
chức tài chính này được gọi là các ngân hàng hỗ trợ (Supporting Banks) - đã công khai
xác nhận hỗ trợ của họ cho năm nguyên tắc tự nguyện cho việc hành động vì biến đổi khí
hậu trong các tổ chức tài chính, và quan tâm đến việc tham gia (trên cơ sở tự nguyện)
trong chia sẻ kiến thức liên tục và phát triển mới nổi phương pháp hoạt động và thực hành
các nguyên tắc.
Trên thế giới đã có một số bộ chỉ số được sử dụng cho hệ thống kinh tế xanh như: (i)
Bộ chỉ số Tài chính xanh toàn cầu (Global Green Finance Index – GGFI) đã được Z/Yen
cùng phát triển, như một phần của Sáng kiến Tài chính dài hạn (Long Finance Initiative)
và Tổ chức Phi chính phủ Finance Watch, (ii) Bộ chỉ số Kinh tế xanh toàn cầu (Global
Green Economy Index – GGEI) là chỉ số nền kinh tế xanh đầu tiên được đưa ra vào năm
2010 và đồng thời là sản phẩm được tham chiếu rộng rãi nhất trên toàn thế giới ngày nay.
GGEI được các nhà hoạch định chính sách, tổ chức quốc tế, xã hội dân sự và khu vực tư
nhân sử dụng rộng rãi. GGEI đo lường hoạt động kinh tế xanh của 130 quốc gia và cách
các chuyên gia đánh giá hoạt động đó. Chỉ số hiệu suất GGEI sử dụng các chỉ số định
lượng và định tính để đo lường mức độ hoạt động của mỗi quốc gia trên bốn khía cạnh
chính: lãnh đạo và biến đổi khí hậu, các lĩnh vực hiệu quả, thị trường và đầu tư, cuối cùng
là môi trường, (iii) Bộ chỉ số Đo lường tiến độ hướng tới nền kinh tế xanh (Measuring
Progress towards a Green Economy) bởi UNEP, (iv) Bộ chỉ số Đánh giá xanh (Green
Evaluations) của S&P Global.
4. Xây dựng Bộ chỉ số Tài chính xanh (Green Finance Indicator – GFI) cho Việt Nam
Chỉ số tài chính xanh (Green Finance Index – GFI) là chỉ số đánh giá mức độ phát triển
tài chính xanh, được nghiên cứu đề xuất trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và
kết quả điều tra khảo sát, phỏng vấn sâu với các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân
622
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
hàng ở Việt Nam. Chỉ số tài chính xanh (GFI) được chia thành 2 cấu phần: Ngân hàng
xanh (GBI); Chứng khoán xanh (GSI).
TÓM TẮT CÔNG THỨC CỦA BỘ CHỈ SỐ
Chỉ số tài chính xanh (Green Finance Index - GFI)
GFI = α1 * GBI + α 2 * GSI
(αi là trọng số thể hiện vai trò và mức độ ảnh hưởng của từng khu vực đến tăng
trưởng xanh của nền kinh tế. Trọng số αi có thể là quy mô của khu vực đó so với
GDP hoặc có thể là trọng số đánh giá dựa trên ý kiến chuyên gia về mức độ ảnh
hưởng của khu vực ngân hàng và chứng khoán đến tăng trưởng xanh của nền
kinh tế)
Chỉ số ngân hàng xanh Chỉ số chứng khoán xanh
(Green Banking Index – (Green Securities Index – GSI)
GBI)
GSI = σ1 GREEN VNINDEX + σ 2
𝒏
GREEN VNBOND INDEX
𝑮𝑩𝑰𝑽𝑵 = ∑ 𝜷𝒊 ∗ 𝑮𝑩𝑰𝒊
𝒊=𝟏 Trong đó:
Trong đó: σ 2 trọng số theo mức vốn hóa thị trường
i là một ngân hàng thương mại GREEN VNINDEX = Tổng giá trị thị
trường của nhóm cổ phiếu xanh / Số chia
Việt Nam cụ thể
𝛽𝑖 là trọng số phản ánh mức độ GREEN VNBOND INDEX = Tổng giá trị
thị trường của nhóm trái phiếu xanh / Số
ảnh hưởng của ngân hàng i
chia
n là số lượng ngân hàng thương
Số chia = Giá trị thị trường sau khi điều
mại Việt Nam trong hệ thống chỉnh / Giá trị thị trường trước khi điều
ngân hàng. chỉnh*Số chia trước khi điều chỉnh
623
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Nghiên cứu đo lường các chỉ số thành phần của GFI được phân tích cụ thể dưới đây:
• Chỉ số ngân hàng xanh (Green Banking Index - GBI)
Chỉ số ngân hàng xanh (Green Banking Index - GBI) được hiểu là việc đánh giá mức
độ đáp ứng của từng ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại
nói chung của Việt Nam theo các thang điểm từ 1 đến 5, tương ứng với các cấp độ của
Kaeufer (2010). Việc đo lường chỉ số ngân hàng xanh GBI được đề xuất dựa trên kết quả
nghiên cứu của Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2019).
• Chỉ số chứng khoán xanh (Green Securities Index – GSI)
Chỉ số chứng khoán xanh (Green Securities Index – GSI) được đề xuất xây dựng cho
Việt Nam được hiểu là chỉ số cổ phiếu xanh và chỉ số trái phiếu xanh. Đề xuất xây dựng
chỉ số chứng khoán xanh được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế
về xây dựng chỉ số cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh của các nước có thị trường chứng
khoán phát triển.
5. Khuyến nghị và một số hướng đi để phát triển hệ thống tài chính xanh ở Việt Nam
5.1. Khuyến nghị định vị hệ thống tài chính xanh ở Việt Nam
Trong phần này, nhóm nghiên cứu tập trung vào việc đề xuất lộ trình cụ thể phát triển tài
chính xanh đến năm 2050 và định vị hệ thống tài chính xanh ở Việt nam. Đề xuất về lộ
trình phát triển tài chính xanh được chia làm ba giai đoạn:
• Giai đoạn 1 (Lộ trình đến năm 2025): Thành lập thí điểm mô hình ngân hàng
xanh, quỹ đầu tư xanh, doanh nghiệp đầu tư xanh.
• Giai đoạn 2 (Lộ trình đến năm 2040): Áp dụng toàn diện hệ thống chỉ số đánh giá
mức độ xanh hóa của hệ thống tài chính GFI.
Trong đó:
Bước đầu, triển khai áp dụng riêng lẻ từng bộ chỉ số thành phần, bắt đầu bằng Bộ chỉ số
đánh giá Mức độ phát triển của ngân hàng xanh – Green Banking Sub-Index (GBI), sau
đó đến Bộ chỉ số Đầu tư xanh – Green Investment Sub-Index (GII), Bộ chỉ số Chứng
khoán xanh – Green Stock Sub-Index (GSI), và cuối cùng là tới Bộ chỉ số Phát triển bền
vững doanh nghiệp – Sustainability Sub-Index (SSI).
Sau khi đã lần lượt đưa từng bộ chỉ số thành phần vào áp dụng, Bộ chỉ số tổng hợp Tài
chính xanh – Green Finance Indicjator (GFI) sẽ được triển khai áp dụng.
624
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
• Giai đoạn 3 (Lộ trình đến năm 2050): Việt Nam tiến tới vận hành toàn diện Hệ
thống tài chính xanh với 4 trụ cột chính: Trung gian tài chính xanh, Các công cụ
huy động vốn xanh, Các doanh nghiệp đầu tư xanh và Thị trường tài chính xanh.
Hình 1: Mô hình cấu trúc hệ thống tài chính xanh
Nguồn
vốn xanh
Nguồn: Đề tài nghiên cứu “Phát triển hệ thống tài chính xanh nhằm thúc đẩy kinh tế xanh ở Việt Nam”, thuộc
Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020.
Các khuyến nghị đưa ra dựa trên lộ trình đã đề xuất, tập trung vào: (i) Điều kiện thực hiện
giải pháp bao gồm nhóm các điều kiện về khung pháp lý, quản lý và giám sát thị trường;
(ii) Các đề xuất khuyến nghị cụ thể đối với từng thành phần tham gia vào thị trường tài
chính xanh gồm Chính phủ, NHNN, NHTM, trung gian tài chính phi ngân hàng, doanh
nghiệp và người tiêu dùng.
5.2. Đề xuất mô hình đo lường mức độ tác động của hệ thống tài chính xanh đến nền
kinh tế
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu sử dụng các bộ chỉ số để đo lường mức độ hiệu
quả của tài chính xanh đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Theo
đó, các mô hình để đo lường rất đa dạng nhưng phổ biến nhất là sử dụng phương pháp
bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis- DEA) và phương pháp phân tích theo thứ bậc
(Analytic Hierarchy Process- AHP). Phương pháp DEA và AHP đều có ưu điểm là dễ sử
dụng và có tính hiệu quả cao trong việc đánh giá, tính điểm và xếp hạng. Nghiên cứu của
Muhammad và cộng sự (2020) cũng đã sử dụng phương pháp DEA để đo lường chỉ số
625
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
tài chính carbon thấp (low carbon finance index). Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được
bộ chỉ số và xếp hạng chỉ số này theo thứ tự của các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt,
phương pháp AHP được sử dụng rộng rãi trong cách tính, đo lường trong các dự án hướng
tới mục tiêu bền vững (Nguyễn Hồng Trường, 2020).
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng phương
pháp AHP để đánh giá hiệu quả của tài chính xanh đối với các doanh nghiệp, sau đó mở
rộng mô hình đánh giá này trở thành đánh giá cấp độ vĩ mô. Tham khảo nghiên cứu của
Wang (2021)6 đã xây dựng chỉ số tài chính xanh dựa trên các việc đánh giá các dự án tại
Trung Quốc, nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình sử dụng các nhóm biến áp dụng ở Việt
Nam gồm: (i) Nhóm số liệu về phát triển nông nghiệp/lâm nghiệp xanh, (ii) Nhóm số
liệu về tín dụng xanh, (iii) Nhóm số liệu về sử dụng năng lượng tái tạo và năng lượng
sạch, (iv) Nhóm số liệu về tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường, (v) Nhóm chỉ số
về ưu đãi/hỗ trợ của chính phủ đối với các hoạt động hướng tới tài chính xanh.
Trong các nghiên cứu tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ phát triển mô hình đánh giá tác
động của hệ thống tài chính xanh, thông qua bộ chỉ số hệ thống tài chính xanh GFI, tính
thử GFI của hệ thống tài chính Việt Nam, từ đó đo lường tác động của hệ thống tài chính
xanh đến nền kinh tế. Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, nghiên cứu này sẽ mang tính mở
đường cho nghiên cứu tiếp theo của nhóm trong tương lai gần.
Tài liệu tham khảo
Adelphi (2016), Green Finance in Asia: Five new country studies show opportunities for small
businesses, truy cập ngày 6/11/2017 từ https://www.adelphi.de/en/news/green-finance-asia-
five-new-country-studies-show-opportunities-small-businesses
ALCB Fund (2017), Undersanding the African Green Bond Market, truy cập ngày 6/11/2017 từ
http://www.alcbfund.com/wp-content/uploads/2017/05/African-Green-Bond-Market.pdf.
Bihari, S (2011), Green banking-towards socially responsible banking in India, International
Journal of Business Insights and Transformation, 4(1), trang 84-87.
Böhnke Eidt, Knierim Richert, Röber Volz (2014), How to Make Green Finance Work -
Empirical Evidence from Bank and Company Surveys, German Development Institute (DIE).
Vietnam State Bank (2015), Decision No. 1552 / QD-NHNN on issuing Action Plan of the banking
sector to implement the National Strategy on Green Growth.
6
Wang, X., Zhao, H. & Bi, K. The measurement of green finance index and the development forecast of
green finance in China. Environ Ecol Stat (2021). https://doi.org/10.1007/s10651-021-00483-7
626
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Danlu, B., & Lingyu, D. (2018). Officials transfer and local government functions transformation:
taking the local government’s investment attracting behaviors as an example. Journal of
Finance and Economics, 44(09), 137-152.
Duan Jin và Niu Mengqi (2011), The paradox of green credit in China, Science Direct, 5, trang
1979-1986.
Elena Dova and Oriana Negulescu (2014), A model of green investments approach, Science
Direct, Procedia Economics and Finance, 14, trang 847-852.
IFC (2013), Mobilizing Public and Private Funds for Inclusive Green Growth Investment in
Developing Countries - An Expanded Stocktaking Report Prepared for the G20 Development
Working Group, IFC Climate Business Department.
IFC (2015), Green Finance: A bottom-up approach to track existing flows, IFC Climate Business
Department.
Höhne, Khosla, Fekete, Gilbert (2012), Mapping of Green Finance, Delivered by IDFC Members,
Ecofys.
Ministry of Finance (2015), Circular No. 155/2015 / TT-BTC of the Ministry of Finance dated
10/06/2015 on issuing imformation public on Vietnamses Stock Market.
Nguyễn Phú Hà (2015), Mô hình ngân hàng xanh: kinh nghiệm quốc tế và bài học rút ra cho
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở 14-07-2015, Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồng (2017), Chiến lược phát triển hệ thống tài chính xanh của Trung Quốc, truy
cập ngày 20/5/2017 từ http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=19481.
Nguyen Thi Minh Hue and Tran Thi Thanh Tu (2016), roles and products of the bank towards
green development & green investment (green bank), GDPRTE Project.
OECD (2012), Defining and measuring green investments: Implication for institutional
investors’ asset allocations, Working Papers on Finance, Insurance and Private Pensions, 24.
OECD (2014), African Economic Outlook South Africa, OECD Publishing. Truy cập 5/11/2017 từ
http://www.africaneconomicoutlook.org/fileadmin/uploads/aeo/2014/PDF/Pocket_Edition_A
EO2014-EN_mail.pdf
Phakathi, B. (2017), The bond of up to R1bn will be certified by Climate Bonds Standard and
will be used to fund projects aligned to the city’s climate change strategy, truy cập ngày
6/11/2017từ https://www.businesslive.co.za/bd/national/2017-03-22-cape-town-issues-
green-bond/
Puhakka, R., Pitkänen, K., & Siikamäki, P. (2017). The health and well-being impacts of
protected areas in Finland. Journal of Sustainable Tourism, 25(12), 1830-1847.
Shah, K. U., Arjoon, S., & Rambocas, M. (2016). Aligning corporate social responsibility with
green economy development pathways in developing countries. Sustainable
Development, 24(4), 237-253.
627
- HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Stadium, M. (2014), Review of green economy and climate finance: Overview of South Africa's
Key National Initiatives, National Treasury.
The State Bank of Vietnam (2015), Decision No. 155/2015/ QD-NHNN promulgating the
banking sector action plan to implement the national strategy on the green growth to 2020.
Trần Thị Thanh Tú & cộng sự (2017), Tài chính – Ngân hàng – Kế toán xanh, kinh nghiệm
quốc tế và hàm ý cho Việt Nam, Nhà xuất bản KH & KT.
Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Nhung, (2019), Đầu tư xanh - cơ hội và thách thức, Kỷ yếu
Hội thảo quốc gia, 6/2019 “Phát triển hệ thống tài chính xanh nhằm thúc đẩy kinh tế xanh
- Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”.
Trịnh Thị Phan Lan. (2019). Đầu tư xanh - kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam, Kỷ
yếu Hội thảo quốc gia, 6/2019 “Phát triển hệ thống tài chính xanh nhằm thúc đẩy kinh tế
xanh - Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”.
Zhang, L., Guo, S., Wu, Z., Alsaedi, A., & Hayat, T. (2018). SWOT analysis for the promotion
of energy efficiency in rural buildings: A case study of China. Energies, 11(4), 851.
Zhong, J., Wang, M., Drakeford, B., & Li, T. (2019). Spillover effects between oil and natural
gas prices: Evidence from emerging and developed markets. Green Finance, 1(1), 30-45.
Ullah M.M (2013), Green Banking in Bangladesh- A Comparative Analysis, World Review of
Business Research 3(4), trang. 74 – 83.
UNEP (2013), Green Economy Modelling Report of South Africa – Focus on Natural Resource
Management, Agriculture, Transport and Energy Sectors, Geneva, Switzerland: UNEP.
628
nguon tai.lieu . vn