Xem mẫu
- ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐỂ KHAI THÁC NHỮNG LỢI THẾ TỪ TPP
ThS. Đặng Chung Kiên
Trường Đại học Tài chính-Marketing
TS. Trần Nguyên Thảo
Tóm tắt
Đầu tháng 10 vừa qua, cuộc họp lãnh đạo cấp bộ trưởng của 12 nước tham
gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã đạt được thỏa thuận
cuối cùng, mở ra một cơ hội lớn cho tất cả các quốc gia tham gia. So sánh một
cách sơ bộ thì Việt Nam là quốc gia đứng ở vị trí thứ 8/12 về diện tích, 4/12 về
dân số, 11/12 về GDP, 8/12 về hoạt động xuất nhập khẩu. Chắc chắn rằng khi
Hiệp định này được thực thi thì chúng ta sẽ nhận được những lợi ích rất lớn và
cũng có thể khai thác được nhiều cơ hội từ những thỏa thuận thương mại với các
đối tác thành viên. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực thì chúng ta cũng phải đối
mặt với không ít những khó khăn, thách thức. Trên cơ sở khái quát những đặc
điểm cơ bản, những vấn đề chung về Hiệp định lịch sử này, bài viết phân tích và
chỉ ra những lợi thế, cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt
Nam; đồng thời gợi mở một số vấn đề mang tính định hướng về mặt giải pháp.
Hy vọng qua đó, chúng ta có thể khai thác một cách tốt nhất những lợi thế có
được đồng thời giảm thiểu những bất lợi và giải quyết tốt những thách thức đặt
ra, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước.
Từ khóa: Hiệp định TPP, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định đối tác thương mại tự do châu Á Thái Bình Dương, Trans -
Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (TPP), là một thỏa thuận
thương mại giữa các quốc gia thuộc khu vực Thái Bình Dương, bao gồm các
nước: Australia, Brunei, Canada, Chile, Hoa Kỳ, Malaysia, Mexico, Nhật Bản,
Newzealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Cho đến thời điểm này, công tác đàm
phán đã hoàn tất, trong thời gian tới đây, để TPP có hiệu lực thì toàn bộ nội dung
văn kiện này cần được quốc hội và chính phủ các nước phê chuẩn. Khi được
thông qua, TPP sẽ tạo ra một khu vực tự do thương mại lớn nhất trên thế giới -
357
- tính đến thời điểm hiện nay: chiếm khoảng 1/4 diện tích thế giới, với hơn 800
triệu dân, đóng góp 40% GDP và chiếm 1/3 thương mại toàn cầu.
Một điều rất đặc biệt là các nội dung đàm phán trong Hiệp định TPP có
phạm vi rộng hơn rất nhiều so với nội dung các vòng đàm phán trong khuôn khổ
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nếu như WTO chỉ đàm phán về thị
trường hàng hoá, dịch vụ và một số vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thì
trong đàm phán TPP, bên cạnh các vấn đề trên đây, nội dung các vòng đàm phán
còn phân tích sâu đến các vấn đề về mua sắm chính phủ, doanh nghiệp nhà nước
và các đơn vị độc quyền, lao động, môi trường, sự minh bạch và công tác chống
tham nhũng v.v…
Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh -
Trưởng đoàn đàm phán TPP của Việt Nam thì nếu như WTO mang tính đàm
phán một chiều, Việt Nam phải mở cửa thị trường cho các nước thành viên WTO
và không có quyền đòi hỏi họ mở cửa cho mình thì Hiệp định TPP là một hiệp
định “có đi có lại” kiểu như “các nước muốn mình mở thị trường cho họ và họ
cũng mở thị trường cho Việt Nam”1.
Còn theo đánh giá của các chuyên gia trong nước cũng như quốc tế, khi
tham gia “sân chơi” này, Việt Nam sẽ là một trong những nước có lợi nhiều nhất
vì mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những rào cản hàng hoá cho dịch vụ.
Khi các dòng thuế giảm xuống, Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày
dép và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh của mình vào các thị trường lớn, đặc
biệt là thị trường Hoa Kỳ mà không phải cạnh tranh với sản phẩm của một số
nước khác. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại
toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ XXI.
Với mục tiêu duy trì tính “mở” của Hiệp định TPP, tức là có cơ chế kết nạp
thêm thành viên mới trong tương lai đồng thời các bên vẫn có thể tiếp tục đàm
phán những vấn đề phát sinh sau khi Hiệp định có hiệu lực, nội dung TPP đưa ra
nhiều đề xuất và biện pháp liên quan để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại lợi ích
nhiều nhất cho tất cả những nước đang và sẽ tham gia Hiệp định.
1. Những lợi ích, cơ hội cho Việt Nam từ TPP
Như đã trình bày trên đây, TPP chứa đựng những đặc điểm rất đặc thù và
chính điều đó đã làm cho TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặt của
thế kỷ XXI, tạo ra một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, bao gồm:
phương thức tiếp cận thị trường một cách toàn diện; tiếp cận mang tính khu vực
1
Theo nội dung họp báo cung cấp thông tin về kết thúc đàm phán Hiệp định TPP của Bộ Công
Thương do Thứ trưởng Trần Quốc Khánh chủ trì ngày 9.10.2015 tại Hà Nội.
358
- trong việc đưa ra các cam kết; công tác giải quyết các thách thức, rủi ro đối với
thương mại; trong đó cũng bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại
và là nền tảng cho hội nhập. TPP đề ra những tiêu chuẩn rất cao, cả về thương
mại, kỹ thuật, IP (sở hữu trí tuệ), môi trường, lao động... Và hiệp định không chỉ
giảm thuế quan thông thường, mà còn là giảm rất sâu (gần như bằng 0). Rất nhiều
quan điểm đánh giá cho rằng có thể coi đây là sự khởi đầu của các FTA (hiệp
định thương mại tự do) thế hệ mới, mang tính thế kỷ.
Thông qua việc nghiên cứu những thỏa thuận đã được thông qua sau hơn
hai mươi phiên đàm phán của Hiệp định, có thể nêu ra một số các lợi ích và cơ
hội cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất: Những lợi ích, cơ hội từ việc giảm thuế đối với các loại hàng hóa
nhập khẩu từ các nước thuộc TPP: Người tiêu dùng Việt Nam và nhất là những
ngành sản xuất có sử dụng các loại nguyên vật liệu nhập khẩu từ các nước thuộc
TPP làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi rất lớn từ hàng hóa, nguyên vật
liệu giá rẻ. Điều này giúp giảm chi phí sinh hoạt và nâng cao đời sống cho người
dân; giúp giảm chi phí sản sản xuất, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của
những ngành hàng này.
Đây là một lợi thế, một cơ hội lớn cho chúng ta, tuy nhiên cũng cần hết sức
lưu ý bởi nội dung quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP yêu cầu các
sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên khác phải có
xuất xứ “nội khối”, tức là phải không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ ba
ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Điều này là khó khăn
đối với doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam, nhất là đối với ngành xuất khẩu
hàng may mặc và giày da - những ngành sản xuất có thế mạnh của chúng ta - do
năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, các ngành sản
xuất này đang còn phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Theo tính
toán thì hiện tại tỷ lệ nguyên vật liệu nhập khẩu từ các đối tác thuộc TPP chỉ
chiếm trên 10%. Để khai thác tốt lợi thế này, chúng ta cần tích cực tìm kiếm
nguồn cung nguyên vật liệu phù hợp từ các nước thành viên TPP, từng bước tiến
tới chủ động được nguyên liệu sản xuất là phương cách tối ưu.
Thứ hai: Tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện
thuận lợi trong hợp tác quốc tế nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta
có thể tăng cường triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung nhất là đối với
các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, từ đó nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta sẽ có nhiều cơ hội cho hàng hóa của Việt
Nam thâm nhập vào các thị trường lớn trong khối, tạo động lực mạnh mẽ để thúc
đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ
359
- góp phần thúc đẩy hơn nữa việc thu hút đầu tư của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và các
nước vào Việt Nam. TPP chắc chắn sẽ tiếp tục thúc đẩy đầu tư của các nước vào
Việt Nam. Hiện tại thì đầu tư trực tiếp của các nước trong TPP vào Việt Nam đạt
trên 100 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng lượng vốn FDI của Việt Nam. Với các
dòng vốn đầu tư từ các thành viên TPP có trình độ phát triển cao sẽ mang lại
nhiều lợi ích về kỹ thuật công nghệ, kỹ năng quản lý cũng như các lĩnh vực dịch
vụ có giá trị gia tăng cao. Mặt khác, việc tăng các mức đầu tư cũng sẽ giúp thúc
đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế
tiềm năng về nông nghiệp.
Thứ ba: Cơ hội tiếp cận các thị trường lớn của các đối tác thuộc TPP về
lĩnh vực thương mại, dịch vụ: Xét trên phương diện lý thuyết thì khi TPP được
thực thi, Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác một
cách thuận lợi hơn rất nhiều so với hiện nay, bởi vì khi đó sẽ gần như không còn
các vấn đề về điều kiện đầu tư và cũng sẽ rất ít các rào cản về thuế quan, thương
mại…. Đây là những cơ hội, lợi ích có được khi hàng hóa Việt Nam được tiếp
cận các thị trường này với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0. Có thể thấy rằng, đối
với các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Mexico thì với mức thuế suất bằng
0 hoặc thấp sẽ mang lại một lợi thế cạnh tranh rất lớn. Đồng thời đó cũng sẽ mở
ra những triển vọng hết sức thuận lợi cho nhiều chủng loại hàng hóa của chúng ta.
Mặt khác thì tiếp tục kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận không nhỏ những
người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu. Lợi ích này chắc
chắn không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt hàng mà chúng ta hiện đang có thế
mạnh xuất khẩu như dệt may, giầy dép, thủy sản… mà nó còn là động lực mạnh
đến các mặt hàng khác hiện chưa có kim ngạch đáng kể để gia tăng sức cạnh
tranh, mở rộng thị trường.
Để có thể tận dụng và khai thác hiệu quả những cơ hội, lợi ích có được từ
hai nội dung vừa trình bày trên đây (thứ hai và thứ ba), Việt Nam chúng ta cần
đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác kinh doanh - thương mại quốc
tế. Trong đó cần đặc biệt chú trọng hoạt động định hướng, tư vấn của các cơ quan
cấp trung ương thông qua việc tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, tiếp xúc
thương mại… Đồng thời đó là các chính sách, chương trình hỗ trợ và ưu đãi cụ thể.
Thứ tư: Khi tham gia TPP, đòi hỏi chúng ta cũng phải có những sự cải
cách, những sự thay đổi nhất định để có thể đáp ứng những yêu cầu chung của
“sân chơi” này. Những sự thay đổi và cải cách đó chắc chắn sẽ theo hướng “mở”
hơn, “thoáng” hơn. Mặt khác, TPP còn bao hàm cả những cam kết chặt chẽ trong
các vấn đề về sự hài hòa giữa các quy định của pháp luật (của các nước thành
viên), về tạo thuận lợi trong kinh doanh và năng lực cạnh tranh, về công tác hỗ
360
- trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, về các điều khoản hành chính và thể
chế,… Đây có thể được xem là những lợi ích có tính thường xuyên và lâu dài đối
với các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội nước ta, nhất là đối với nhóm
doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế nước ta hiện nay - doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Và vì vậy, đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
phát triển, có những bước đột phá để vươn lên, khẳng định vị trí, vai trò và thế
mạnh của mình.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của các doanh nghiệp
trong nước cũng như tất các các chủ thể kinh tế có mảng hoạt động này, thiết nghĩ
các cơ quan, đơn vị liên quan đến việc tư vấn, soạn thảo và ban hành các quy định
cụ thể cần phải có sự nghiên cứu thật chuyên sâu, đòi hỏi phải có được những
chuyên gia về kinh tế, chính sách am hiểu tường tận các vấn đề liên quan nhằm
sớm đưa ra được những quy định cụ thể mang tính thuận lợi bảo đảm cho hoạt
động của doanh nghiệp kinh doanh và hợp tác.
Thứ năm: Những lợi ích trong việc thực thi các thỏa thuận cam kết đối với
hoạt động mua sắm công: TPP đã dành trọn 1 chương (chương 15) để thể hiện
các quy định, các điều khoản liên quan đến vấn đề này. Việc mở cửa thị trường
mua sắm công sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho sự minh bạch hóa thị trường quan
trọng này. Cũng chính vì vậy mà có thể xem TPP như là một cơ hội, một động
lực tốt để giải quyết hàng loạt những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công
và hoạt động đấu thầu trong lĩnh vực được xem là khá “nhạy cảm” này. Lâu nay
chúng ta vẫn có cảm nhận rằng là lĩnh vực “độc quyền”.
Theo tìm hiểu, chương quy định về mua sắm công trong TPP bao gồm 11
điều quy định rất chặt chẽ các nội dung, các vấn đề liên quan đến mảng công tác
này như điều khoản quy định về những nguyên tắc chung, các biện pháp chuyển
tiếp, công bố thông tin mua sắm, điều kiện tham gia thầu, năng lực nhà cung cấp,
đấu thầu hạn chế, các thương thuyết, trường hợp ngoại lệ, v.v…. Điều này cho
thấy rằng thỏa thuận về mua sắm công của TPP cũng mang những nét tương đồng
với các nội dung trong Hiệp định về mua sắm chính phủ của WTO. Tuy nhiên,
những điều khoản quy định trong nội dung này của TPP có phần “được nới rộng”
hơn so với một số quy định tương ứng của Hiệp định trong WTO. Chúng ta cần
có sự nghiên cứu thật kỹ lưỡng các điều khoản quy định trong nội dung này nhằm
có thể vận dụng một cách phù hợp và hài hòa trong điều kiện thực tế Việt Nam
hiện nay.
Thứ sáu: Thực thi TPP cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải thực hiện
các cam kết đặt ra những yêu cầu với các tiêu chuẩn rất cao về lao động và môi
trường (được thể hiện tại chương 19 và chương 20 của Hiệp định). Đánh giá khái
361
- quát nội dung quy định tại hai chương này của Hiệp định, có thể thấy rằng TPP
cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề này. Trong đó thể hiện TPP đã đưa ra rất
nhiều các điều khoản chi tiết quy định một cách rất chặt chẽ và chi tiết những nội
dung liên quan đến vấn đề về tiêu chuẩn lao động, việc làm, tham vấn lao động,
hợp đồng lao động, thực thi Luật lao động, đối thoại, hợp tác,… (Chương 19) và
các vấn đề về bảo vệ môi trường, bảo vệ tầng Ozone, thương mại và đa dạng sinh
học, giải quyết việc phá rừng, giám sát chất thải, khai thác nguồn lợi thủy sản, …
(Chương 20). Rõ ràng TPP đã đặt ra những “yêu cầu cao” so với điều kiện hiện
tại của chúng ta. Tuy nhiên xét về lâu dài thì điều này là hết sức cần thiết. Đây
cũng sẽ là cơ hội tốt để chúng ta thực hiện tốt hơn nữa và nhanh chóng đưa ra
những giải pháp hữu hiệu trong vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động.
2. TPP - những thách thức đối với Việt Nam
Với việc cam kết thực hiện rất nhiều các điều khoản quy định ở nhiều mảng
và lĩnh vực hoạt động mà Việt Nam còn ở “vị trí thấp” so với hầu như tất cả các
nước trong TPP thì chắc chắn chúng ta cũng phải đối mặt với không ít những khó
khăn, thách thức đặt ra. Nếu đánh giá một cách khái quát nhất thì chúng ta thấy
rằng mỗi cơ hội, lợi ích nêu trên cũng lại chứa đựng những điều có thể xem như
bất lợi, thách thức đối với Việt Nam - khi xét ở mặt trái của nó. Như đánh giá của
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mĩ Phạm Quang Vinh thì “Thách thức
lớn nhất của Việt Nam là làm sao chúng ta nâng được năng lực của mình lên
ngang tầm để có thể tranh thủ được các cơ hội này”2. Dưới đây là một số thách
thức cụ thể cho Việt Nam từ TPP:
Một là: Các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách
thức không nhỏ, trong đó đặc biệt là sức ép trong việc mở cửa thị trường, cạnh
tranh trong điều kiện phần lớn doanh nghiệp hoạt động với quy mô vốn còn hạn
chế, khả năng quản lý còn nhiều yếu kém. Việc giảm thuế đối với các loại hàng
hóa nhập khẩu từ các nước thuộc TPP là cơ hội, lợi ích cho người tiêu dùng
nhưng cũng là thách thức cho hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nước. Nếu
chúng ta không có những bước điều chỉnh cho phù hợp và kịp thời thì chắc chắn
sẽ gặp không ít khó khăn.
Giải quyết vấn đề này, chắc chắn đòi hòi chúng ra phải đưa ra những giải
pháp mang tính đồng bộ và sự quyết tâm thực hiện của tất cả các ban ngành, các
chủ thể có liên quan. Trong đó chúng ta cần phải sớm thực hiện chuyển dịch cơ
2
Xem Đại sứ Việt Nam tại Mỹ: TPP là kỳ tích lịch sử - http://news.zing.vn/Dai-su-Viet-Nam-tai-My-
TPP-la-ky-tich-lich-su-post586359.html
362
- cấu kinh tế theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, bảo đảm chất lượng và hiệu
quả của tăng trưởng kinh tế; tận dụng tốt những thời cơ, cơ hội nhằm nhanh
chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa so với những sản phẩm
cùng loại từ các quốc gia khác.
Hai là: Tham gia TPP, chúng ta cam kết phải “mở toang” cửa thị trường
dịch vụ cho các “đối thủ” mạnh trong lĩnh vực này, họ là những nhà cung cấp có
tiềm lực lớn, lại có kinh nghiệm hoạt động lâu năm và hiện đang nắm giữ nhiều
ưu thế về dịch vụ trên thế giới - trong đó nổi bật hơn cả là những nhà cung cấp
trong lĩnh vực dịch vụ có tiếng tăm của Hoa Kỳ (là lĩnh vực tạo ra gần 70% GDP
quốc gia này), Nhật Bản (chiếm khoảng 73% GDP), Mexico (cũng khoảng 70%
GDP). Điều này chắc chắn dẫn đến những khó khăn lớn đặt ra cho các đơn vị
cung cấp dịch vụ của Việt Nam. Cho đến thời điểm hiện nay, dịch vụ vẫn là một
mảng hoạt động thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của Việt Nam là còn
hạn chế và khá dè dặt. Hơn nữa, chúng ta biết rằng với cách thức đàm phán theo
phương pháp chọn - bỏ trong TPP sẽ làm cho việc thực hiện mở cửa thị trường
dịch vụ của Việt Nam đối với các đối tác thuộc TPP thay đổi rất mạnh mẽ (TPP
chỉ cho phép các nước bảo lưu một số lượng hạn chế các ngành, phân ngành và
phải giải trình với lý do hợp lý để được bảo lưu. Còn nếu không giải trình được lý
do thì sẽ phải tuân thủ đúng những nguyên tắc TPP, tức là phải mở cửa). Chính vì
vậy mà đây cũng là điểm được nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng sẽ tạo ra bất lợi
lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP.
Đây là một thách thức lớn cho nền kinh tế của Việt Nam khi tham gia TPP.
Để giải quyết được vấn đề này, thiết nghĩ Nhà nước cần đưa ra những chính sách
ưu đãi cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ nhanh chóng vươn lên. Mặt khác, chính những nhà cung cấp dịch vụ của
Việt Nam cũng cần phải có sự đầu tư, thay đổi mô hình hoạt động, cách thức quản
lý cho phù hợp với xu thế mới,… từ đó khẳng định vị thế và uy tín của mình.
Ba là: Khi thực thi TPP chắc chắn cũng sẽ dẫn đến tình trạng phá sản, thất
nghiệp ở các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh. Vấn đề này tiếp tục dẫn
đến hàng loạt các hệ lụy trong công tác an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, giải
quyết việc làm. Mặt khác, với các quy định chặt chẽ trong nội dung về lao động
của TPP cũng tạo ra những thay đổi rất lớn đối với môi trường lao động ở nước
ta. Cùng với đó là việc chúng ta cũng sẽ phải có sự điều chỉnh, sửa đổi khá nhiều
quy định của pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ v.v… cũng
là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam.
Thiết nghĩ đối với vấn đề này, chúng ta cần có được những dự báo chính
xác, các chính sách giải quyết mang tính chiến lược có tầm nhìn trung và dài hạn
363
- nhằm tránh gặp phải tình trạng “bỡ ngỡ”, “trở tay không kịp” khi xảy ra các vấn
đề tương tự. Nếu cần thiết, chúng ta có thể hình thành một cơ quan chuyên trách
trong việc cung cấp các thông tin, tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ đối với những
công tác liên quan đến TPP nói riêng, vấn đề hội nhập nói chung.
Bốn là: TPP không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ngành nông nghiệp Việt
Nam trước rất nhiều thách thức. Cho đến thời điểm hiện nay, nền nông nghiệp
nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, quy mô hộ gia đình là chủ yếu, xuất khẩu nông
sản chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô… Mặt khác, cơ hội giảm thuế quan chung
cho tất cả các đối tác cũng dẫn đến tăng lượng hàng nhập khẩu hàng hóa nông sản
từ các nước thành viên TPP vào Việt Nam với giá cạnh tranh, tạo áp lực lớn cho
sản xuất trong nước.
Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà
Công Tuấn trong Hội thảo “Tác động của TPP đối với nông nghiệp và lao động
Việt Nam” do Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh) và Trường Đại học Văn Hiến tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh ngày
28/10/2015, thì quy trình sản xuất theo lối nông hộ vẫn còn khá phổ biến ở Việt
Nam khiến chất lượng nông sản khó đồng nhất. Nguyên liệu để sản xuất nông sản
vẫn bị phụ thuộc vào Trung Quốc với chất lượng chưa được kiểm soát cũng khiến
cho nông sản Việt Nam khó vượt qua được các đợt kiểm tra chất lượng đột xuất.
Việc lượng tồn dư chất hóa học, kháng sinh, vi sinh vật trong nông sản khiến
hàng xuất khẩu bị trả lại, gây thiệt hại rất cao.
Bên cạnh đó, tuy cắt giảm thuế nhưng nhiều nước vẫn còn hàng rào phi thuế
cao. Các quy định khác của Hiệp định TPP về bảo vệ bản quyền (giống, thuốc
bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc thú y), lao động, nguồn gốc xuất xứ, bảo vệ môi
trường … cũng rất chặt chẽ. Rõ ràng đây cũng là một thách thức không nhỏ đối
với ngành nông nghiệp của chúng ta.
Trong giới hạn của một bài tham luận hội thảo, sau đây bài viết xin được đi
sâu phân tích các khía cạnh trong việc định hướng để đưa ra những kiến nghị, giải
pháp cho riêng lĩnh vực nông nghiệp nước ta như sau:
1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa nông lâm
thủy sản Việt Nam thông qua việc thực hiện tăng cường nguồn nhân lực và nâng
cao năng suất lao động; phát triển lực lượng lao động tiên tiến phục vụ cho
ngành.
2. Đẩy nhanh quá tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu; tăng
364
- cường đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất trong nước nhằm ổn định và chủ động
được nguyên liệu đầu vào, từng bước thay thế nguyên liệu nhập khẩu.
3. Nhà nước cần đưa ra những chính sách cụ thể nhằm tăng cường năng lực
cho hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam ở các lĩnh vực liên quan đến
nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay. Đồng thời, cần khẩn
trương hoàn thiện môi trường kinh doanh, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và nhà
đầu tư v.v…
4. Tại mỗi tỉnh, thành và cấp trung ương, chúng ta có thể hình thành một cơ
quan chuyên trách trong việc cung cấp các thông tin, tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ
đối với những công tác liên quan đến vấn đề TPP nói riêng, hội nhập nói chung.
Cũng thông qua đó, chúng ta đưa ra được những dự báo chính xác, tư vấn các
chính sách giải quyết mang tính chiến lược có tầm nhìn trung và dài hạn nhằm
tránh gặp phải tình trạng “bỡ ngỡ”, “trở tay không kịp” khi xảy ra các vấn đề
tương tự. Cơ quan này cũng sẽ tập trung triển khai các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực thực thi pháp luật và các quy định khác có liên quan; nâng cao năng lực
phân tích và dự báo thị trường hàng hóa nông sản phẩm; nâng cao khả năng vận
dụng cam kết và các biện pháp được áp dụng trong các FTA.
Ngoài ra, bên cạnh 4 thách thức đã được nêu ra trên đây, khi tham gia TPP
cùng với việc cam kết thực hiện những thỏa thuận mang tính bao trùm ở rất nhiều
các lĩnh vực như thể hiện trong nội dung Hiệp định thì Việt Nam chúng ta cũng
còn phải đối mặt với những bất lợi - có thể xem là những thách thức - từ việc thực
thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh, hàng rào kỹ thuật thương
mại - TBT, biện pháp vệ sinh dịch tễ - SPS … và các ràng buộc mang tính thủ tục
khi ban hành các quy định liên quan đến TBT, SPS hay bất lợi từ việc mở cửa thị
trường mua sắm công v.v…
Nhìn chung, với kết quả đạt được sau nhiều năm thương lượng giữa các
bên, và cũng đã phải mất một vài lần lỡ hẹn, thì việc đi đến hoàn tất đàm phán
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương - TPP vừa qua có thể xem là một
“kỳ tích lịch sử” mang tầm vóc thời đại. TPP đã mở ra rất nhiều cơ hội không chỉ
cho các nước đã tham gia đàm phán hiện nay (12 nước) mà còn là một “cơ hội
mở” để tiếp tục có sự tham gia của các quốc gia khác trên thế giới. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc TPP đã mở ra một chương mới cho hoạt động thương mại
toàn cầu. Có lẽ cũng chính vì vậy mà rất nhiều chuyên gia đều đánh giá rất cao và
xem đây là một Hiệp định thương mại Thế kỷ. Khi TPP được thông qua và thực
thi chắc chắn sẽ đem đến cho chúng ta những cơ hội lớn nhưng đồng thời cũng
tạo ra những thách thức không nhỏ. Một điều rất quan trọng là tất cả chúng ta cần
365
- nhanh chóng có những bước đi phù hợp, và thậm chí nếu cần thiết cũng phải có
những sự thay đổi một cách hợp lý nhất để qua đó phát huy hiệu quả những thế
mạnh vốn có, khai thác tốt những lợi ích, cơ hội nhằm đưa đất nước ngày một
phát triển, đi lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như mong muốn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://tpp.moit.gov.vn/
2. http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/hiep-dinh-TPP
3. http://www.trungtamwto.vn/
4. http://www.trungtamwto.vn/chuyen-de/tpp
5. http://news.zing.vn/
6. http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/6009/bo-cong-thuong-cung-cap-
thong-tin-ket-thuc-dam-phan-hiep-dinh-tpp.aspx
7. http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr091019080134/nr09101908364
9/ns110923115344
8. http://ilos.com/c2xWU0evx_c.video
9. https://vi.wikipedia.org/wiki
10. http://www.ezlawblog.com/2015/05/10-kien-thuc-can-ban-ve-hiep-inh-
tpp.html
11. http://cand.com.vn/doanh-nghiep/Hop-bao-chinh-thuc-sau-khi-ket-thuc-
dam-phan-TPP-368563/
12. http://vietstock.vn/chu-de/343/hiep-dinh-tpp.htm
13. http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/bo-truong-vu-huy-hoang-tra-loi-hop-bao-
ket-thuc-dam-phan-tpp-20151006070304215.chn
14. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te-thi-truong-
XHCN/2015/34950/Hiep-dinh-Doi-tac-Kinh-te-xuyen-Thai-Binh-
Duong-Co-hoi.aspx
366
nguon tai.lieu . vn