Xem mẫu

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014

99

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
PHÁI SINH Ở NƯỚC TA
Thái Đắc Liệt1

TÓM TẮT

Thị trường chứng khoán phái sinh là một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển của
thị trường chứng khoán. Qua hơn 13 năm phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt
được một trình độ cao hơn nhiều so với trước đây, đến nay có thể nói thị trường chứng khoán
Việt Nam đã có đủ điều kiện để hình thành thị trường chứng khoán phái sinh. Thị trường chứng
khoán phái sinh ra đời, chắc chắn sẽ làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ngày
càng tốt hơn, giúp cho các chủ đầu tư và công chúng đầu tư khắc phục được nhiều rủi ro khi
tham gia thị trường chứng khoán, nhờ đó ngày càng có nhiều công ty tham gia niêm yết trên thị
trường chứng khoán, số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng sẽ liên tục tăng lên qua
từng năm, thanh khoản trên thị trường sẽ phát triển ổn định và ngày càng cao hơn.
Mục tiêu của bài viết này nhằm đưa ra những kinh nghiệm thành công và không thành
công của một số nước trên thế giới khi tổ chức thực hiện thị trường chứng khoán phái sinh; Mặt
khác bài viết cũng đưa ra các điều kiện cần thiết và bắt buộc phải có khi thị trường chứng khoán
phái sinh ra đời; Bài viết cũng đã phân kỳ các bước thực hiện và lựa chọn sản phẩm phù hợp
cho từng giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh, một số giải pháp cụ thể
nhằm thực hiện có hiệu quả đối với thị trường chứng khoán phái sinh, giúp cho các chủ đầu tư
và công chúng đầu tư hiểu biết sâu hơn về thị trường chứng khoán phái sinh để từng bước chủ
động tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ khóa: Chứng khoán phái sinh, Chủ đầu tư, Công chúng đầu tư.
ABSTRACT

Derivative market is an essential product for development of the stock market. After more
than 13 years of development, Viet Nam stock market has achieved a higher level than before,
and it now has enough conditions to form derivative market. The introduction of derivative
market surely will make Viet Nam’s stock market develop better, helping investors and public
overcome many risks when participating to be listed on the stock market, whereby there will be
more companies participating to be listed on the stock market, the number of domestic and
foreign investors will also continuously increase each year, liquidity on the market will develop
stable and increase higher.
The objective of this article is to provide experiences of success and failure of a number of
countries in the world when implementing derivative market; on the other hand, the article also
gives out necessary and required conditions for the introduction of derivative market; the article
provides steps and guideline for choosing appropriate products for each development stage of
the derivative market, some specific solutions to implement derivative market effectively, helping
investors and public understand derivative market deeper so that they can gradually and actively
involve in Viet Nam’s stock market.
Keywords: Derivative stock, Investor, Public.
1

TS, Trường Đại học Mở Tp.HCM. Email: thaidacliet@gmail.com

100

TRAO ĐỔI HỌC THUẬT

1. Đặt vấn đề
Thị trường chứng khoán là thị trường
cao cấp của thị trường tài chính, thị trường
chứng khoán phái sinh là sản phẩm của thị
trường tài chính phát triển, bởi vậy chỉ có thị
trường chứng khoán phát triển ở một trình độ
nhất định mới có thể hình thành nên thị trường
chứng khoán phái sinh. Đến nay, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã được thành lập khá
lâu, nhưng chỉ hơn 7 năm trở lại đây thị trường
chứng khoán Việt Nam mới có bước phát triển
đáng kể; Hai sở giao dịch chứng khoán đã
được thành lập, đó là Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và Sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), một
Trung tâm lưu ký chứng khoán đã ra đời, gần
89 công ty chứng khoán đang hoạt động và
hơn 700 công ty đã được niêm yết cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ trên hai sàn giao dịch chứng
khoán Việt Nam. Đến năm 2013 chỉ tính riêng
tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu
đã đạt trên 32 tỷ đô la Mỹ, tương đương 25
phần trăm GDP của năm 2013, số lượng tài
khoản của các nhà đầu tư đạt trên 1,3 triệu tài
khoản giao dịch, trong đó nhà đầu tư nước
ngoài có khoảng 16.000 tài khoản, so với cuối
năm 2007 tổng số tài khoản giao dịch chứng
khoán đã tăng hơn 3,5 lần và số lượng tài
khoản của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng gần
hai lần, chứng tỏ nhu cầu của các nhà đầu tư
chứng khoán đã có sự gia tăng đáng kể, giá trị
giao dịch hàng ngày của hai sàn trên thị trường
có lúc đạt trên 5000 tỷ đồng.
Trên thế giới thị trường chứng khoán
phái sinh đã có từ lâu, ở nước ta thị trường
chứng khoán phái sinh tuy chưa chính thức
được nhà nước công nhận về mặt pháp lý,
nhưng trên thực tế nó đã được hình thành và
phát triển ở trình độ ban đầu trên thị trường
chứng khoán phi tập trung. Hiện nay ở nước ta
đang tồn tại ba loại sản phẩm phái sinh, trước
hết là phái sinh về hàng hóa, kế đến là phái
sinh về tiền tệ, sau cùng là chứng khoán phái
sinh. Các phái sinh về hàng hóa và tiền tệ được
hình thành sớm hơn, việc tổ chức triển khai
thực hiện các phái sinh này còn ở trình độ rất
thấp, các sản phẩm cơ sở để thực hiện các giao
dịch phái sinh này không đáng kể, nhà đầu tư

tham gia giao dịch trên thị trường phái sinh
này không nhiều, cơ chế chính sách cho việc
thực hiện các giao dịch phái sinh hàng hóa và
tiền tệ chưa được rõ ràng và đầy đủ, cơ chế
thanh toán bù trừ giữa người mua và người
bán chưa được triển khai thực hiện nên kết quả
đạt được của loại phái sinh này thường thấp
hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra lúc ban đầu.
Đối với chứng khoán phái sinh thì nhà
nước gần như chưa có chủ trương cụ thể nào
để cho thị trường chứng khoán phái sinh hoạt
động, nhưng do yêu cầu đòi hỏi khách quan
của thị trường nên trong chừng mực nhất định
thị trường chứng khoán phái sinh đã xuất hiện
trên thị trường chứng khoán phi tập trung dưới
nhiều dạng thức khác nhau như quyền mua cổ
phần, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn,
hợp đồng hợp tác đầu tư,… Sự xuất hiện của
các loại chứng khoán phái sinh này một mặt
làm cho thị trường chứng khoán thêm sôi động
và đa dạng, một mặt nó giúp cho các thành
viên tham gia thị trường chứng khoán nâng
cao thêm trình độ và kiến thức để phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh sau này.
Quá trình nghiên cứu thị trường chứng
khoán phái sinh, tác giả đã tập trung nghiên
cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,…Mặt
khác, tác giả cũng đã tìm hiểu và phân tích
tương đối rõ nét về các loại hình chứng khoán
phái sinh đã tồn tại trên thị trường chứng
khoán Việt nam từ năm 2007 đến năm 2010.
Qua đó, phân tích, đánh giá đúng mức về ưu
nhược điểm của quá trình hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán phái sinh, từ đó
khẳng định rằng đã đến lúc thị trường chứng
khoán Việt Nam phải thừa nhận thị trường
chứng khoán phái sinh và xem nó như một
công cụ cần thiết nhằm đa dạng hóa các sản
phẩm cho thị trường, nâng cao thêm về chất
cho thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo
điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển mạnh hơn trong những
năm sắp tới.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán phái sinh
Thị trường chứng khoán phái sinh là một
định chế tài chính bậc cao, nó được bắt đầu từ

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014

thị trường nông sản phẩm. Những năm mưa
thuận, gió hòa nông sản phẩm trúng mùa, giá
cả hàng hóa sẽ xuống thấp, những năm thời
tiết khắc nghiệt, nông sản phẩm trở nên khan
hiếm, giá cả hàng hóa trở nên đắt đỏ hơn, mối
liên hệ giữa con người và nông sản phẩm là
một vấn đề vô cùng quan trọng và con người
phải luôn tìm cách giải quyết thật tốt vấn
đề này thông qua thị trường chứng khoán
phái sinh.
Lịch sử hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh trên thế giới:
Tại châu Âu từ thế kỷ thứ XI trên thị
trường mua bán nông sản phẩm, bên cạnh các
giao dịch thanh toán trực tiếp theo phương
thức tiền – hàng, các nông gia cũng như các
nhà buôn bán ngủ cốc còn tiến hành thực hiện
việc mua bán theo dạng hợp đồng kỳ hạn, mua
bán trước, giao nhận hàng hóa sau. Đến giữa
thế kỷ thứ XIX tại Hoa Kỳ, nhờ sự tiến bộ
nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật năng suất
và sản lượng cây trồng tăng lên rất nhanh, việc
tiêu thụ hàng hóa trở nên khó khăn hơn rất
nhiều so với trước đây. Do đó, để giảm thiểu
các rủi ro về giá cả cho các nông gia và người
tiêu dùng, chính phủ Hoa Kỳ đã cho thành lập
một hội đồng mậu dịch kỳ hạn (CBOT) vào
năm 1848 tại Thành phố Chicago. Hội đồng
mậu dịch kỳ hạn này bao gồm các nông gia có
đầu óc kinh doanh và các nhà buôn bán ngũ
cốc trong vùng. Một năm sau đó, hội đồng
mậu dịch này cho ra đời trung tâm giao dịch
mua bán nông sản phẩm kỳ hạn và hàng nông
sản phẩm được giao dịch theo phương thức
đấu giá tập trung, các hợp đồng mua bán kỳ
hạn được cam kết thực hiện, người nắm hợp
đồng mua có quyền và nghĩa vụ phải mua,
người nắm hợp đồng bán có quyền và nghĩa vụ
phải bán. Nhưng với cơ chế hợp đồng kỳ hạn,
khi đến thời điểm giao nhận hàng nếu giá cả
sản phẩm tăng cao hơn so với giá đã ghi trong
hợp đồng thì người mua sản phẩm có lời và
người bán sản phẩm bị thiệt; Ngược lại, nếu
đến thời điểm giao nhận hàng hóa, giá cả sản
phẩm thấp hơn so với giá cả đã ghi trong hợp
đồng thì người mua sản phẩm bị thiệt và người
bán sản phẩm có lời.
Để khắc phục nhược điểm này, năm
1864 Hoa Kỳ đã có một bước phát triển đáng

101

kể trong việc chuyển hợp đồng kỳ hạn thành
hợp đồng tương lai. Hợp đồng tương lai đã
làm thay đổi căn bản hợp đồng kỳ hạn, khắc
phục được những nhược điểm cơ bản của hợp
đồng kỳ hạn, người sở hữu hợp đồng tương lai
có thể kết thúc vị thế của hợp đồng trước thời
hạn và giá trị bắt buộc phải thực hiện của hợp
đồng ở thời điểm đã quy định trong hợp đồng
không còn giá trị. Hợp đồng tương lai được
giao dịch mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp
như là chứng khoán phái sinh.
Sự ra đời của hợp đồng tương lai đã làm
thay đổi cơ bản về bản chất của hợp đồng kỳ
hạn, nó vừa là công cụ bảo vệ người mua lại
vừa là công cụ bảo vệ người bán. Cơ chế hoạt
động của hợp đồng tương lai trở thành quy tắc
chuẩn mực chung cho tất cả các thị trường
phái sinh trên thế giới, những thành công của
hợp đồng tương lai lan tỏa rất nhanh và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội
của các nước.
Sau năm 1898 một loạt các hợp đồng
tương lai và hợp đồng quyền chọn đã ra đời.
Hiện tại ở Hoa Kỳ có 6 thị trường hợp đồng
quyền chọn đã đăng ký hoạt động với Ủy ban
Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC), 12 thị trường
hợp đồng tương lai chịu sự giám sát và quản lý
của Ủy ban giao dịch hàng hóa phái sinh
(CFTC). Hàng hóa trên thị trường phái sinh
ngày càng phong phú và đa dạng, chứng khoán
cơ sở của các hợp đồng tương lai và quyền
chọn bao gồm các sản phẩm nông nghiệp như
bơ, trứng, bột mì, gạo, năng lượng, dầu thô,
điện, cao su, sắt thép, vàng bạc và các sản
phẩm tài chính cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất,
tiền tệ,…và gần đây nhất là các chỉ số biến
động giá của quyền chọn được chọn làm
chứng khoán cơ sở.
Ở châu Á các nước có thị trường chứng
khoán phái sinh phát triển như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Singapore,…
Ở Nhật Bản, thị trường chứng khoán
phái sinh phát triển đạt ở trình độ rất cao, sở
giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE) có hai
sản phẩm chứng khoán phái sinh, đó là chỉ số
chứng khoán TOPIX và quyền chọn hợp đồng
tương lai trái phiếu chính phủ, hai sản phẩm
chứng khoán phái sinh này đạt mức tăng

102

TRAO ĐỔI HỌC THUẬT

trưởng rất cao, chiếm tỷ trọng trên 90 phần
trăm khối lượng giao dịch trên toàn thị trường.
Hàn Quốc là một trong những nước có
thị trường chứng khoán phái sinh phát triển
nhất trên thế giới, ba sản phẩm giao dịch thành
công nhất của thị trường chứng khoán phái
sinh Hàn Quốc là chỉ số KOSPI 200 (1996),
hợp đồng quyền chọn chỉ số KOSPI 200
(1997) và hợp đồng giao sau trái phiếu KTB 3
năm (1999). Tính đến năm 2011 hợp đồng
giao dịch quyền chọn KOSPI 200 đạt trên 3,6
tỉ hợp đồng, giá trị giao dịch đạt trên 436 tỉ đô
la Mỹ. Nếu tính về số lượng hợp đồng chứng
khoán phái sinh, Hàn Quốc đứng thứ
nhất trong 10 sở giao dịch chứng khoán trên
thế giới.
Ở Ấn Độ, thị trường chứng khoán phái
sinh đã được nghiên cứu từ năm 1996, nhưng
đến năm 1998 Hội đồng nghiên cứu thị trường
chứng khoán phái sinh mới đưa ra được một
bản báo cáo bao gồm những đề xuất và khuyến
nghị về việc thành lập thị trường chứng khoán
phái sinh ở Ấn Độ. Báo cáo và khuyến nghị
này đã được Ủy ban Chứng khoán và giao dịch
Ấn Độ (SEBI) chấp thuận và cho thành lập Sở
Giao dịch Chứng khoán phái sinh và thị trường
chứng khoán phái sinh sau này. Theo yêu cầu
của SEBI một hội đồng cấp quốc gia khác
cũng được thành lập để nghiên cứu và đảm
bảo an toàn cho giao dịch hợp đồng tương lai
chỉ số cũng như việc phòng ngừa rủi ro trong
việc thanh toán bù trừ. Sau vài năm thị trường
chứng khoán phái sinh Ấn Độ đã có bước phát
triển vượt bậc, năm 2000 – 2001 khối lượng
chứng khoán phái sinh giao dịch đạt trên 207
triệu đô la Mỹ, đến năm 2007 – 2008 khối
lượng giao dịch chứng khoán phái sinh đạt trên
3275 tỉ đô la Mỹ. Chính nhờ sự phát triển của
sàn chứng khoán phái sinh mà Ấn Độ được
xem là một trong những nước có thị trường
chứng khoán phái sinh phát triển nhanh, sôi
động và thành công nhất.
Đối với Singapore, thị trường chứng
khoán phái sinh được xây dựng từ năm 1984,
phương thức giao dịch tại thời kỳ này là khớp
lệnh tại sàn. Từ năm 2004, Sở Giao dịch
Chứng khoán Singapore đã đưa hệ thống giao
dịch trực tuyến vào giao dịch trên thị trường
chứng khoán phái sinh, phương thức giao dịch

này tạo ra bước ngoặt thật sự cho thị trường
chứng khoán phái sinh. Ở Singapore có 4 thị
trường chứng khoán phái sinh chủ yếu, đó là
hợp đồng phái sinh cổ phiếu, hợp đồng phái
sinh hàng hóa, hợp đồng phái sinh lãi suất và
hợp đồng phái sinh ngoại hối. Các sản phẩm
phái sinh tài chính tại thị trường chứng khoán
Singapore là hợp đồng tương lai chỉ số
NIKKE, hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu
MSCI Đài Loan, hợp đồng tương lai chỉ số cổ
phiếu MSCI Singapore và quyền chọn cổ
phiếu (structured Warrant). Singapore hiện
đứng trong nhóm 10 thị trường giao dịch hợp
đồng tương lai chỉ số cổ phiếu lớn nhất trên
thế giới.
Lịch sử hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, các công cụ phái sinh có
nguồn gốc từ hàng hóa, tiền tệ và chứng khoán
đã được sử dụng từ nhiều năm nay.
Phái sinh hàng hóa được quản lý và điều
hành bởi Bộ công thương, đối với các sản
phẩm cơ bản như gạo, cà phê, cao su, thép đã
được các doanh nghiệp trong nước sử dụng
nhiều trên các sở giao dịch phái sinh nước
ngoài dưới dạng giao dịch theo hợp đồng kỳ
hạn và hợp đồng tương lai. Ở trong nước thì có
ba sàn giao dịch hàng hóa là trung tâm giao
dịch cà phê Buôn Mê Thuộc, sở giao dịch
hàng hóa Việt Nam và Sàn Giao dịch Sài Gòn
Thương Tín. Đến năm 2006 thì trung tâm giao
dịch cà phê Buôn Mê Thuộc được thành lập,
nhưng đến cuối năm 2010 thì trung tâm này
mới đi vào hoạt động nhưng chỉ dừng lại ở
bước đầu thử nghiệm. Đến năm 2011 sở giao
dịch hàng hóa Triệu Phong chính thức được
thành lập với nhiệm vụ giao dịch phái sinh đối
với ba mặt hàng là cà phê, cao su và thép,
nhưng các giao dịch phái sinh này cũng chỉ
dừng lại ở mức độ thăm dò, sự tham gia của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nhà đầu
tư không đáng kể do khung pháp lý phục vụ
cho các giao dịch này chưa được rõ ràng và
chặt chẽ, hệ thống thanh toán bù trừ của trung
tâm chưa được hình thành nên các rủi ro mang
đến cho khách hàng thường rất cao.
Phái sinh tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước
quản lý và điều hành, đây là loại công cụ phái

TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 4 (37) 2014

sinh xuất hiện sớm nhất ở nước ta, nhưng nó
chỉ diễn ra chủ yếu ở các ngân hàng, trong đó
Ngân hàng Thương mại là một bên trong hợp
đồng, bên còn lại có thể là doanh nghiệp, các
định chế tài chính hoặc cá nhân tham gia.
Trong thời gian đầu phái sinh tiền tệ chủ yếu
tập trung ở các ngân hàng lớn như
Vietcombank, Eximbank, Techcombank, ACB
và một số ngân hàng nước ngoài như Ngân
hàng HSBC, Ngân hàng Citibank. Nhưng
trong vài năm gần đây ngày càng có nhiều
Ngân hàng Thương Mại trong nước giới thiệu
và cung cấp các sản phẩm phái sinh về tiền tệ
cho giới đầu tư. Năm 1999 Ngân hàng Nhà
nước có quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN 7
quy định giao dịch kỳ hạn với tư cách là công
cụ tài chính phái sinh đầu tiên của Việt Nam,
tuy nhiên mức độ giao dịch của công cụ này
chỉ chiếm từ 5 – 7 phần trăm khối lượng giao
dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Sau này các công cụ phái sinh về lãi suất và tỷ
giá tiếp tục xuất hiện và được các Ngân hàng
Thương Mại sử dụng nhiều hơn nhằm đáp ứng
yêu cầu biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị
trường tiền tệ.
Thị trường chứng khoán chịu sự quản lý
của Bộ tài chính mà trực tiếp là Ủy ban Chứng
Khoán Nhà Nước. Mặc dù thị trường chứng
khoán đã ra đời cách đây hơn 13 năm, nhưng
các chủ trương của nhà nước về quản lý thị
trường chứng khoán phái sinh chỉ dừng lại ở
mức độ chung nhất. Ngày 01/03/2012, Thủ
tướng chính phủ có quyết định số 252/QĐTTg phê duyệt đề án phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020,
trong đó có đoạn viết như sau: “Xây dựng và
phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
được chuẩn hóa theo hướng phát triển các
công cụ từ giản đơn đến phức tạp; Về dài hạn
cần thống nhất hoạt động thị trường chứng
khoán phái sinh có công cụ gốc là chứng
khoán, hàng hóa và tiền tệ,”. Từ đó đến nay
Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước cũng chưa có văn bản nào
hướng dẫn thực hiện thị trường chứng khoán
phái sinh. Nhưng trong thực tiễn thị trường
chứng khoán phái sinh vẫn được manh nha
hình thành dưới nhiều dạng khác nhau.

103

Trong năm 2007 nhiều công ty niêm yết
phát hành tăng vốn hai, ba lần dưới dạng
quyền mua cổ phần như Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín, công ty gạch men Thăng Long,
công ty SAM, công ty REE,…Ngày
26/10/2007 lần đầu tiên Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và tổng công
ty Điện lực Việt Nam thực hiện bán đấu giá 75
triệu quyền mua cổ phần của công ty thủy điện
Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH), sau đấu giá
quyền mua cổ phần của công ty VSH, ngày
17/3/2008 Sở Giao dịch Chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh và tổng công ty Thép Việt
Nam thực hiện tiếp phiên đấu giá quyền mua
cổ phần của công ty cổ phần Kim khí Thành
Phố Hồ Chí Minh với 10 triệu quyền mua cổ
phần, kết quả đấu giá quyền mua cổ phiếu của
hai phiên đấu giá nói trên đều được các nhà
đầu tư mua hết.
Trong các năm 2008 và 2009 thị trường
chứng khoán có xu hướng sụt giảm, đến năm
2010 thị trường chứng khoán có vẻ khởi sắc
trở lại, khoảng giữa năm 2010 công ty chứng
khoán VN – DIRECT cho ra đời sản phẩm hợp
đồng hợp tác đầu tư trên 20 triệu cổ phiếu có
tính thanh khoản cao trên Sở Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội. Tham gia hợp đồng
hợp tác đầu tư này nhà đầu tư có thể giao dịch
quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán cổ
phiếu tùy theo sự biến động của giá cổ phiếu
trên thị trường.
Đầu năm 2010 công ty vàng Thế Giới đã
giới thiệu cho các nhà đầu tư kinh doanh sản
phẩm chỉ số VTG – VN INDEX dưới dạng
hợp đồng tương lai chỉ số. Ví dụ: chỉ số VN
INDEX ngày 01/04/2010 là 510 (hệ số
10.000), đến ngày 01/05/2010 chỉ số VN
INDEX là 540. Như vậy, nếu một nhà đầu tư
sở hữu một đơn vị VTG – INDEX vào ngày
01/04/2010 sẽ có 5,1 triệu đồng, đến ngày
01/05/2010 giá trị của nhà đầu tư đó có được
là 5,4 triệu đồng, nhà đầu tư lãi được 300.000
đồng.
Tuy nhiên, sau khi triển khai mô hình
này được một thời gian, các giao dịch chứng
khoán phái sinh này gặp phải một số vướng
mắc như các văn bản pháp lý, trung tâm thanh
toán bù trừ chưa được triển khai thực

nguon tai.lieu . vn