Xem mẫu
- ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ NGHIỆP TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
TS Nguyễn Văn Tuyên*
TÓM TẮT
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển vượt bậc về công nghệ sẽ làm
thay đổi cơ cấu nền kinh tế, nhiều ngành nghề mới xuất hiện sẽ bổ sung hoặc thay thế cho
những ngành nghề truyền thống, vì thế sẽ tác động sâu sắc đến cơ cấu lao động và việc
làm. Từ những kiến thức cơ bản, bài viết này sẽ phân tích, đánh giá tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đến hoạt động giáo dục đại học. Trên cơ sở đó bài viết đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hoạt động giáo dục đại học trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đào tạo, hoạt động, nghề nghiệp.
1. Đặt vấn đề
Lịch sử loài người đã và đang trải qua bốn cuộc cách mạng lớn. Bắt đầu là cuộc cách
mạng về nông nghiệp diễn ra khoảng hơn 10.000 năm trước đã làm thay đổi đời sống xã
hội, khởi đầu là con người biết trồng trọt và chăn nuôi thay thế dần cho việc săn bắt và hái
lượm, biết vận dụng sức mạnh của động vật vào các hoạt động sản xuất, vận tải và thông
tin liên lạc. Nhờ đó, năng suất lao động ngày càng được gia tăng, sản xuất được nhiều của
cải, vật chất hơn và từng bước nâng cao đời sống cho con người trong xã hội, cuộc cách
mạng nông nghiệp ra đời đánh dấu cho lịch sử loài người chuyển từ nền nông nghiệp dùng
sức mạnh cơ bắp sang nền nông nghiệp cơ khí, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tiếp nối cuộc
cách mạng nông nghiệp, hàng loạt cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu từ nửa sau thế kỷ
thứ 18. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, với sự phát minh ra máy hơi nước và
đường sắt, mở đường cho nền sản xuất cơ khí; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai,
mở đầu cho việc sản xuất hàng loạt và dây chuyền sản xuất nhờ sự phát minh ra điện và
dây chuyền lắp ráp, giải phóng dần sức lao động của con người; cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ ba với sự ra đời của các linh kiện bán dẫn, máy tính chủ, máy tính cá nhân
và internet. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu từ thế kỷ 21 và đang diễn ra
trên nền tảng của cách mạng số. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ là số
hóa, internet hóa các thiết bị mà còn là sự hội tụ, dung hợp nhiều công nghệ và tương tác
Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing.
*
108 -
- của chúng trên nhiều lĩnh vực với quy mô rộng lớn như trí tuệ nhân tạo, công nghệ robot,
internet kết nối vạn vật, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu
trữ năng lượng, tính toán lượng tử, xe tự vận hành… sẽ tạo ra hàng loạt thay đổi mang tính
bước ngoặt lịch sử, ảnh hưởng sâu rộng tới kinh tế – xã hội ở tất cả các quốc gia. Với sự
tiến bộ nhanh chóng của công nghệ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra nhiều
hàng hóa và dịch vụ mới, nhiều ngành mới, tạo nhiều công ăn, việc làm mới cho con người
mà con người có thể cảm nhận được sự biến đổi của nó đang diễn ra trong hoạt động hàng
ngày, từ việc đặt xe, thức ăn bằng công nghệ, việc mua sắm trực tuyến đến những biến đổi
lớn trong sản xuất kinh doanh. Trong xu hướng đó, các cơ sở đào tạo nghề nghiệp cần có
sự cải tiến, đổi mới trong giáo dục và đào tạo nghề nghiệp nhằm đáp ứng nguồn nhân lực
phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ và ảnh
hưởng sâu, rộng đối với đời sống xã hội.
2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến đào tạo nghề nghiệp
Theo Klaus Schwab (2018), so với những cuộc cách mạng khác, cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư có nhiều đặc điểm nổi trội: thứ nhất, tốc độ phát triển của cuộc cách
mạng này ngày càng nhanh chóng, sự phát triển của các công nghệ mới lại sản sinh những
công nghệ mới hơn; thứ hai, sự kết hợp của nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ làm thay đổi và
nảy sinh những mô hình mới về các khía cạnh kinh tế, xã hội, cá nhân và vì thế sẽ làm thay
đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của con người và thứ ba, sự tác động của cuộc
cách mạng lần thứ tư mang tính hệ thống giữa các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp,
các quốc gia và toàn xã hội. Do đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động sâu
sắc đến hoạt động của con người trên nhiều lĩnh vực.
Sự kết hợp của công nghệ kỹ thuật số, vật chất và sinh học không chỉ tác động đến
sự chuyển dịch cơ cấu lao động mà nó còn thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
và nhận thức, đồng nghĩa với việc các cấp quản lý chuẩn bị lực lượng và phát triển các mô
hình đào tạo sao cho người lao động sẵn sàng phối hợp cùng với máy móc ngày càng thông
minh trong công việc. Để thực hiện được điều này, nhất là các ngành nghề ít bị tự động hóa,
con người đòi hòi cần có các kỹ năng xã hội và sáng tạo, đặc biệt là kỹ năng ra quyết định
trong môi trường luôn biến động và cần phát triển nhiều ý tưởng mới. Theo báo cáo của
Diễn đàn kinh tế thế giới (2016) đưa ra 10 kỹ năng tiêu biểu của người lao động đến năm
2020 có một số điểm mới so với năm 2015 (Bảng 1).
- 109
- Bảng 1. Sự thay đổi các kỹ năng trong năm 2020 so với năm 2015
Năm 2020 Năm 2015
1. Giải quyết các vấn đề phức tạp 1. Giải quyết các vấn đề phức tạp
2. Tư duy phản biện 2. Phối hợp với người khác
3. Sáng tạo 3. Quản lý con người
4. Quản lý con người 4. Tư duy phản biện
5. Phối hợp với người khác 5. Đàm phán
6. Trí tuệ cảm xúc 6. Kiểm soát chất lượng
7. Đánh giá và ra quyết định 7. Định hướng dịch vụ
8. Định hướng dịch vụ 8. Đánh giá và ra quyết định
9. Đàm phán 9. Lắng nghe tích cực
10. Tư duy linh hoạt 10. Sáng tạo
Nguồn: World Economic Forum (2016)
Theo đó, một số kỹ năng của người lao động được chú trọng và đánh giá cao như tư
duy phản biện (Critical thinking), sáng tạo (Creativity), đánh giá và ra quyết định (Judgment
and decision making)… và xuất hiện một kỹ năng mới là tư duy linh hoạt (Cognitive
flexibility). Như vậy, trong tương lai nhiều ngành nghề mới sẽ xuất hiện, không chỉ vì dưới
tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố
phi công nghệ khác như áp lực tăng dân số, các chuẩn mực xã hội, văn hóa mới. Hiện tại,
con người chưa thể hình dung sự xuất hiện của những ngành nghề gì nhưng chắc chắn rằng
tư duy và sáng tạo là những yếu tố sản xuất quan trọng hơn cả, dẫn đến nhiều khả năng
khan hiếm lực lượng lao động có tay nghề chuyên môn là một rào cản sự đổi mới, sáng tạo,
sức cạnh tranh và tăng trưởng.
Cũng theo dự báo của Diễn đàn kinh tế thế giới (2020) đến năm 2025, các kỹ năng
tiêu biểu của người lao động cũng có nhiều điểm khác biệt so với năm 2020. Trong đó,
năm kỹ năng thuộc nhóm giải quyết vấn đề (problem – solving), hai kỹ năng thuộc nhóm
tự quản lý (self – management), hai kỹ năng thuộc nhóm sử dụng và phát triển công nghệ
(technology use and development) và một kỹ năng tương tác (working with people) (Bảng
2). Nhìn chung, theo dự báo này, đến năm 2025 sẽ tập trung chủ yếu vào các kỹ năng tự
quản lý và giải quyết vấn đề thông qua nền tảng công nghệ.
110 -
- Bảng 2. Top 10 kỹ năng tiêu biểu của người lao động đến năm 2025
Năm 2025
1. Tư duy phân tích và sáng tạo 6. Khả năng lãnh đạo và tầm ảnh hưởng xã hội
2. Học tập chủ động và có chiến lược 7. Sử dụng, giám sát và điều khiển công nghệ
3. Giải quyết các vấn đề phức tạp 8. Thiết kế và lập trình công nghệ
4. Tư duy phản biện và phân tích 9. Kiên cường, chịu đựng căng thẳng và tính
linh hoạt
5. Sáng tạo, tự xây dựng ý tưởng phát kiến 10. Lập luận, giải quyết vấn đề, tạo ra ý
tưởng mới
Nguồn: World Economic Forum (2020)
Cuộc cách mạng lần thứ tư đang tác động làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội con người. Tuy nhiên, cũng chính sự tiến bộ nhanh của công nghệ đồng nghĩa
với việc nhiều ngành nghề sẽ bị giảm sút thậm chí đi đến triệt tiêu một số việc làm. Một ví
dụ điển hình là ngành nông nghiệp, tại Hoa Kỳ vào những năm đầu thế kỷ thứ XIX, khoảng
90% lao động trong nông nghiệp là nông dân nhưng con số này hiện nay chưa đến 2%
(Klaus Schwab, 2018). Sự tiến bộ công nghệ phát sinh nhiều loại hình công việc, đặc biệt
là những công việc có tính đặc thù máy móc lặp đi lặp lại và đòi hỏi lao động chân tay phải
thật chính xác, đã được tự động hóa. Minh chứng cho điều này là đầu năm 2017, Foxconn
(Trung Quốc) – Công ty sản xuất thiết bị cho Apple, Samsung và Microsoft đã thay thế
60.000 công nhân bằng robot. Hiện nay, Amazon có khoảng 30.000 robot làm việc tại các
nhà kho trên toàn thế giới… (Võ Xuân Thịnh, 2018).
Thực tế cho thấy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có vẻ tạo ra ít việc làm mới
hơn trong các ngành công nghiệp so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước. Tuy nhiên,
đối với các ngành nghề khác, sự tiến bộ của công nghệ thông tin và các công nghệ khác,
cách mạng công nghiệp lần thứ tư có xu hướng làm tăng năng suất bằng cách thay thế dần
lao động chân tay. Nghiên cứu của Carl Benedikt và Michael Osborne (2013), đã lượng
hóa tác động tiềm năng của đổi mới công nghệ đối với thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702
nghề nghiệp khác nhau theo thứ tự có khả năng được tự động hóa (Bảng 3).
Bảng 3. Khả năng tự động hóa một số nghề nghiệp
Các nghề nghiệp dễ tự động hóa Các nghề nghiệp khó tự động hóa nhất
Nghề nghiệp Xác suất Nghề nghiệp Xác suất
Tiếp thị qua điện thoại 0,99 Nhân viên xã hội chăm sóc bệnh
nhân tâm thần và chăm sóc người
nghiện chất kích thích 0,0031
Nhân viên khai thuế 0,99 Biên đạo múa 0,0040
Giám định bảo hiểm 0,98 Bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật 0,0042
- 111
- Các nghề nghiệp dễ tự động hóa Các nghề nghiệp khó tự động hóa nhất
Nghề nghiệp Xác suất Nghề nghiệp Xác suất
Trọng tài, quan chức thể thao 0,98 Bác sĩ tâm lý 0,0043
Thư ký pháp lý 0,98 Quản lý nhân sự 0,0055
Tiếp viên, nhân viên lễ tân 0,97 Chuyên gia phân tích hệ thống 0,0065
máy tính
Giới bất động sản 0,97 Chuyên gia nhân chủng và khảo
0,0077
cổ học
Nhà thầu lao động nông trang 0,97 Kỹ sư hàng hải và kiến trúc sư
0,010
hải quân
Thư ký và trợ lý hành chính, trừ Quản lý bán hàng 0,013
nhân viên pháp lý, y tế và điều hành 0,96
Chuyển phát thư tín 0,94 Giám đốc điều hành 0,015
Nguồn: Klaus Schwab (2018).
Theo kết luận của nghiên cứu này, có thể trong một hoặc hai thập kỷ tới có khoảng
47% số việc làm tại Hoa Kỳ có nguy cơ bị tự động hóa (Dẫn theo Klaus Schwab, 2018).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quy mô dịch
chuyển lao động rộng hơn và tốc độ nhanh hơn nhiều so với các cuộc cách mạng công
nghiệp trước đó. Sự dịch chuyển này dẫn đến sự phân hóa mạnh mẽ hơn trong thị trường
lao động: nhu cầu và mức lương cao hơn đối với các công việc trí tuệ, sáng tạo; nhu cầu sẽ
giảm đáng kể đối với lao động chây tay với thu nhập thấp, đặc biệt là đối với các công việc
đều đặn, lặp đi lặp lại với thu nhập trung bình.
Tổ chức lao động quốc tế ILO dự báo trong vòng hai thập niên tới, khoảng 56% lao
động tại năm quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot,
đặc biệt 86% người lao động Việt Nam trong ngành dệt may, da giày (vốn là thế mạnh xuất
khẩu) và 3/4 lao động trong ngành điện, điện tử có thể phải đối mặt với nguy cơ mất việc
làm do tự động hóa. Nhiều nhà máy sản xuất gốm sứ, mỹ nghệ ở Bình Dương, các nhà máy
chế biến thủy hải sản ở Cần Thơ, An Giang cũng đã đầu tư các dây chuyền tự động hóa
cao. Các công ty lớn của Việt Nam đương nhiên càng có xu hướng tự động hóa mạnh mẽ
để tăng sản lượng và giảm giá thành sản phẩm. Nhà máy sữa Mega của Vinamilk đã được
đầu tư tới 2.400 tỉ đồng để làm tự động hóa các khâu sản xuất từ chiết rót, tiệt trùng cho
đến khâu đóng gói, đóng thùng (Nguyễn Đức Nghĩa, 2018).
Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có ảnh hưởng sâu sắc đến nền
kinh tế, xã hội toàn cầu, đặc biệt là giáo dục, đặt ra những vấn đề cấp bách cho nền giáo
dục. Nếu xem giáo dục đại học là bước chuẩn bị hành trang cần thiết cho người học tự tin
112 -
- bước vào đời sống kinh tế – xã hội, thì nhà trường cần trang bị một cách đầy đủ những kỹ
năng cần thiết cho người học, không chỉ hiện tại mà còn ngay cả trong tương lai.
3. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề nghiệp tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Nhìn chung tại Việt Nam hiện nay, chương trình đào tạo vẫn chưa được linh hoạt, nội
dung chưa phù hợp với nhu cầu và xu thế thị trường lao động mà cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang tác động. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và
toàn diện, các danh mục nghề và chương trình đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục
vì ranh giới giữa các lĩnh vực rất nhỏ. Các trường cơ sở thực hiện hoạt động đào tạo theo
hai hướng: một mặt, phải đáp ứng tính định hướng xã hội, mặt khác đào tạo cung cấp nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tuy nhiên, áp lực đối với các cơ sở càng
lớn khi chương trình đào tạo vừa đáp ứng tính chuyên môn cao trong lĩnh vực cụ thể, vừa
đảm bảo tính liên ngành (công nghệ thông tin, kỹ thuật số, mạng, kiến thức chuyên ngành)
và các kỹ năng khác như: khả năng tư duy có hệ thống, khả năng tổng hợp, khả năng sáng
tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác liên ngành,... Trong bối cảnh kiến thức về
công nghệ thay đổi rất nhanh thì việc hướng tới chương trình giáo dục đào tạo hiện đại là
điều rất cần thiết.
Theo xu hướng ấy, tại Việt Nam từ năm 2006, “Giáo dục mở” đã được nêu trong văn
kiện của Đảng với chủ trương chuyển dần mô hình giáo dục sang mô hình giáo dục mở.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế định hướng: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo
hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo
dục, đào tạo”. Đối với giáo dục nghề nghiệp, Nghị quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 chủ
trương “sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh
hoạt đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động”. Như vậy, hệ thống giáo dục nghề
nghiệp mở và linh hoạt đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kỹ năng, thúc đẩy và hỗ
trợ phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao từng bước đáp ứng được yêu cầu việc làm của
thị trường lao động.
Theo Lâm Văn Quản (2018), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã tổng kết so sánh mô
hình đào tạo truyền thống và mô hình đào tạo trong nền kinh tế mới với nhiều biến động
(Bảng 4).
- 113
- Bảng 4. So sánh mô hình đào tạo truyền thống và mô hình đào tạo mở
Mô hình đào tạo truyền thống Mô hình đào tạo mở
Dạy nghề theo khả năng cung Dạy nghề theo khả năng cầu
Dạy nghề cho việc làm Học nghề cho khả năng có việc làm
Đào tạo tại chức Học suốt đời
Dạy nghề tập trung vào người dạy Tự học và tập trung vào người học
Giáo dục và đào tạo tách rời Giáo dục và đào tạo phải tích hợp
Chuyên môn hóa sâu Hướng đến đa kỹ năng
Công nhận kỹ năng, trình độ dựa theo Công nhận dựa vào năng lực và quá trình học
thời kỳ đào tạo và thi tốt nghiệp tập trước đó
Điểm vào, điểm ra cố định Mềm dẻo, linh hoạt vào và ra khỏi hệ thống
Dạy nghề để làm công ăn lương Dạy nghề để làm công và tự tạo việc làm
Hệ thống hành chính quan liêu Hệ thống phân cấp đòi hỏi cả cơ sở đào tạo quốc
gia mạnh và tự chủ
Tập chung nhiều vào chính quy Cả chính quy và không chính quy
Chính sách và cung ứng dạy nghề do Chia sẽ trách nhiệm và theo thị trường
Nhà nước chịu trách nhiệm
Quản trị chủ yếu do nhà nước Cùng tham gia quản lý, thừa nhận xã hội hóa,
đối thoại xã hội.
Nguồn: Lâm Văn Quản (2018)
4. Một số giải pháp căn bản hoàn thiện đào tạo nghề nghiệp phù hợp với bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt
động đào tạo; thay đổi mục tiêu đào tạo, mô hình đào tạo truyền thống bằng cách chuyển
tải và đào tạo kiến thức hoàn toàn mới phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở
đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp căn bản nhằm hoàn thiện giáo dục đại học phù hợp
với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như sau:
Thứ nhất, sự phát triển công nghệ thông tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết
nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức
và phương pháp giảng dạy. Các lớp học truyền thống với những nhược điểm như: chi phí
tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, không thuận lợi cho một số đối tượng,... sẽ được
thay thế bằng các lớp học trực tuyến, lớp học ảo. Do đó, cần thực hiện các hình thức đào tạo
online, mô phỏng, số hóa vào bài giảng,... Khai thác hệ thống học online ngày càng được
phổ biến hơn, thông qua hệ thống online sẽ thu thập dữ liệu cho từng cá nhân. Khi tích tụ
được lượng dữ liệu đủ lớn về cá nhân người học (thời lượng học, phương pháp, lộ trình đào
tạo, mức độ tương tác, kết quả học tập.,..), là phương pháp giáo dục tốt nhất cho từng học
114 -
- sinh với lộ trình tối ưu cá nhân hóa phương pháp học tập mà ngay cả giáo viên tốt nhất cũng
không bằng được. Sử dụng hệ thống máy tính và dữ liệu lớn để thiết kế chương trình, tổ
chức giảng dạy cho từng đối tượng một cách hiệu quả nhất. Chất lượng đào tạo trực tuyến
được kiểm soát dễ dàng bằng các công cụ hỗ trợ, như các cảm biến và kết nối không gian
mạng. Không gian học tập cũng sẽ đa dạng hơn, thay vì những phòng thí nghiệm hay phòng
mô phỏng truyền thống.
Thứ hai, chương trình học cũng được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của người học. Đối với các chương trình đào tạo bậc cử nhân, bên cạnh các
kiến thức về nghề nghiệp, cần phải mở rộng cung cấp thêm các khối kiến thức tự nhiên xã
hội, công nghệ thông tin, quản lý mạng,... nhằm mục đích làm cho người học có thể thích
nghi nhanh với sự thay đổi của công nghệ, làm việc hiệu quả trong môi trường có tính
kết nối cao, giữa các lĩnh vực. Các kỹ năng quan trọng đối với nguồn nhân lực trong môi
trường tương tác công nghệ cần phải được đưa vào chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo:
kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo, tư duy phản biện, tư duy hệ thống, kỹ năng ra
quyết định trong điều kiện không chắc chắn,... đặc biệt giáo dục người học phương pháp
và ý thức học tập suốt đời.
Thứ ba, các khóa đào tạo ngắn hạn hay các chương trình bổ sung kiến thức cho từng
đối tượng khác nhau tại các doanh nghiệp là thực sự cần thiết trong bổi cảnh cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Nhu cầu của xã hội về bổ sung kiến thức sẽ vô cùng lớn khi có sự
chuyển dịch trong cơ cấu ngành nghề, sự thay đổi công nghệ. Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư sẽ mở ra thị trường đào tạo và huấn luyện vô cùng lớn đối với các công ty cung
cấp dịch vụ giáo dục, đặc biệt đối với các trường đại học vốn có thế mạnh về đào tạo. Tuy
nhiên, các trường đại học cần phải cởi mở và đối thoại nhiều hơn với xã hội, với thị trường
lao động để triển khai và thực hiện các chương trình thiết thực và hiệu quả, nhưng vẫn
không đánh mất bản chất học thuật riêng biệt và nhiệm vụ giáo dục rộng hơn.
Thứ tư, đào tạo đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi đội ngũ
giảng dạy phải có trình độ cao về chuyên môn, công nghệ thông tin, hệ thống mạng. Do
đó, cán bộ giảng dạy phải liên tục cập nhật kiến thức chuyên môn, công nghệ... bằng cách
thường xuyên tham gia các lớp huấn luyện, hội thảo, hội nghị. Ngoài ra, các trường đại
học phải mở rộng đối thoại, hợp tác với doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu, tập
huấn và tư vấn; qua đó cán bộ giảng dạy có cơ hội tiếp cận điều kiện sản xuất, kinh doanh
thực tế và nắm bắt được những thay đổi của thị trường để thực hiện các điều chỉnh trong
hoạt động giảng dạy.
Thứ năm, tổ chức nghiên cứu quán triệt các Nghị quyết Trung ương để nhận thức đầy
đủ hơn về giáo dục nghề nghiệp mở. Đổi mới tư duy về phát triển giáo dục nghề nghiệp mở,
linh hoạt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiến hành
- 115
- rà soát, kiến nghị loại bỏ, sửa đổi và bổ sung cơ chế, chính sách và các chế định liên quan
đến phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở; giảm thiểu tối đa các rào cản, nhất là rào
cản về thủ tục hành chính. Đổi mới cách thức quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyển
vai trò kiểm soát sang giám sát; đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyển sang áp
dụng phương thức quản trị của doanh nghiệp vào hoạt động giáo dục đào tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thái Bình (2018). Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt tạo cơ hội học nghề,
lập nghiệp bền vững. Báo Đại biểu Nhân dân, ngày 3/10/2018. http://daibieunhandan.vn/
default.aspx?tabid=74&NewsId=411493
Nguyễn Đức Nghĩa (2018). Đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh giáo dục đại học 4.0. Hội thảo
hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội, ngày 18/10/2018.
Lâm Văn Quản (2018). Phát triển nghề nghiệp mở linh hoạt trong trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0. Hội thảo hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực gắn với cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, ngày 18/10/2018.
Klaus Schwab (2018). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bộ Ngoại giao dịch và hiệu đính, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Võ Xuân Thịnh (2018). Sàn giao dịch việc làm – Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Hội thảo hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực gắn với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, ngày 18/10/2018.
Trần Anh Tuấn (2016). Dự báo nhu cầu nhân lực các ngành trọng điểm giai đoạn 2017 – 2020 đến
2025. Cổng thông tin Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25/01/2017.
World Economic Forum (2016). The future of jobs employment, skills and workforce strategy for
the Fourth Industrial Revolution. Global Challenge Insight report. https://www.google.com.
vn/search?q=top+10+skills+2020+world+economic+forum&tbm=isch&source)
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-19-NQ-TW-2017-nang-cao-
chat-luong-hieu-qua-hoat-dong-cua-don-vi-su-nghiep-cong-lap-365583.aspx
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi-moi-can-
ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx
https://www.weforum.org/agenda/2020/10/top-10-work-skills-of-tomorrow-how-long-it-takes-
to-learn-them/
116 -
nguon tai.lieu . vn