Xem mẫu

  1. 81 ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT Trần Thị Phương Chi, K15 – NHTMP Trong nền kinh tế ngày càng một phát triển như ngày nay thì đồng tiền và sự ổn định của đồng tiền là điều vô cùng quan trong với mọi quốc gia trên thế giới. Tất cả các nền kinh tế luôn mong muốn sự ổn định giá trị đồng tiền. Sự ổn định này chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ thông ngân hàng. Thông qua việc điều hành CSTT của mình, NHTW có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt… từ đó hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế. Thời gian qua, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định, ổn định thị trường tiền tệ, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Chính vì thế tác giả chọn đề tài “ Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam: thực trạng và một số đề xuất” để có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về chính sách tiền tệ và việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay, cũng như đưa ra một số đề xuất để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới. 1. Một số lý luận chung 1.1. Chính sách tiền tệ và mục tiêu cuối cùng Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.
  2. 82 Nắm giữ các công cụ trong tay, NHTW có thể chủ động tạo ra sự thay đổi trong cung ứng tiền, qua đó tác động đến các biến số vĩ mô nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Trong đó có 2 loại CSTT là: - CSTT nới lỏng: tăng cung tiền hoặc giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất…chống suy thoái - CSTT thắt chặt: giảm cung tiền hoặc tăng lãi suất nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế,…kiềm chế lạm phát. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đối với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt. Xét về mặt tổng thể chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới hướng vào các mục tiêu chủ yếu là: * Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng nội tệ Lạm phát luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa, đặc biệt là khi nền sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao. Lạm phát có thể hiểu là sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hóa theo thời gian. Lạm phát tác động đến kinh tế- xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc,…gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo, giảm sức mua thực tế của nền kinh tế về hàng hóa tiêu dùng, làm vô hiệu hóa hoạt động hạch toán kết quả kinh doanh. Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. Bên cạnh những tác động tiêu cực mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế thì một tỷ lệ lạm phát nhất định lại là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Do đó cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải là triệt tiêu nó. Vấn đề quan trong là phải kiểm soát được lạm
  3. 83 phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống ch người lao động. * Tạo công ăn việc làm Những người trong lực lượng lao động khi không có việc làm sẽ trở thành người thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia đó là phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Khi thất nghiệp ở mức cao, sản xuất sút kém các nguồn lực không được sử dụng hết, thu nhập cả dân cư giảm sút. Khó khăn kinh tế lan sang lĩnh vực xã hội, nhiều hiện tượng tiêu cực phát triển, tác hại của thất nghiệp là rất rõ ràng. Có thể tính toán được sự thiệt hại kinh tế, đó là sự giảm sút to lớn về sản lượng và đôi khi còn kéo theo lạm phát. Những kết quả điều tra xã hội học cũng cho thấy thất nghiệp luôn gắn liền với các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp,…tổn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, làm sói mòn nếp sống lành mạnh…Đồng thời thất nghiệp cũng đặt ra gánh nặng cho ngân sách, thay đổi cơ cấu ngân sách khi các khoản trợ cấp tăng lên. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo việc làm, giảm bớt thất nghiệp chứ không phải là làm cho thất nghiệp bằng không mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, khi nền kinh tế toàn dụng nhân công. * Tăng trưởng kinh tế CSTT phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi rừ đi tỷ lệ tăng giá của cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải được hiểu cả về khối lượng và chất lượng. Chất lượng của sự tăng trưởng được biểu hiện là một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước tăng lên. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một chính sách kinh tế vĩ mô nào. Đó là nền tảng cho mọi sự ổn định, vì một nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thỏa mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế trên trường quốc tế.
  4. 84 * Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng Trong dài hạn: các mục tiêu trên xét trong dài hạn không có mâu thuẫn với nhau Trong ngắn hạn: xét cả 3 mục tiêu thì mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả mâu thuẫn với hai mục tiêu còn lại. Bởi vì thực hiện mục tiêu giảm lạm phát, ổn định giá cả thì phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt làm lãi suất tăng lên dẫn đến giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu và do đó làm giảm tổng cầu nền kinh tế, thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Và như vậy, trong ngắn hạn không thể thực hiện được hai mục tiêu còn lại. Ngược lại, khi nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp giảm, nền kinh tế phát triển quá nóng sẽ dẫn đến lạm phát gia tăng Mối quan hệ giữa mục tiêu tạo công ăn việc làm và mục tiêu tăng trưởng kinh tế không mâu thuẫn với nhau trong cả ngắn hạn và dài hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Hầu hết NHTW đều đặt ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Nhưng trong ngắn hạn, dưới áp lực của chính trị, họ có thể tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để hạn chế tình trạng thất nghiệp,…Ngân hàng trung ương không thể đạt đồng thời tất cả các mục tiêu trong ngắn hạn và thường thì NHTW theo đuổi một mục tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn. 1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ Công cụ của chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng cung tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ 1.2.1. Công cụ trực tiếp Công cụ trực tiếp là các công cụ tác động trực tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông (hoặc các mức lãi suất). NHTW sử dụng các công cụ này dưới dạng: + Quy định hạn mức tín dụng
  5. 85 + Khống chế trực tiếp lãi suất tiền gửi- lãi suất cho vay: thông qua quy định trần lãi suất và các lãi suất điều hành. + Khống chế trực tiếp tỷ giá mua- bán ngoại tệ của các ngân hàng: Trong đó, công cụ tài chính trực tiếp được áp dụng phổ biến nhất trong thời kỳ tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. 1.2.2 Công cụ gián tiếp Đây là những công cụ tác động trước hết đến mục tiêu hoạt động của CSTT, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền tệ cung ứng và lãi suất. Gồm có: * Dự trữ bắt buộc (DTBB) DTBB là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM. Đây là công cụ quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến khối lượng tiền cung ứng và tác động một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng. * Chính sách tái cấp vốn Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định và điều kiện cho vay của NHTW đối với các NHTM. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Các NHTM đi vay NHTW nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và hình thành nên bộ phận dự trữ đi vay. Sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng chính sách tiền tẹ của NHTW vì vậy, nó có hiệu ứng thông báo tới thị trường. Các tuyên bố của
  6. 86 NHTW về chiều hướng biến động lãi suất tái chiết khấu có tác dụng hướng dẫn hành vi của thị trường. Công cụ này có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian, tuy nhiên, mức độ hiệu quả của nố căn cứ vào mức độ phụ thuộc vào vốn của NHTM vào NHTW vì thế mà kém chủ động. Công cụ này thường được sử dụng cùng với công cụ DTBB. * Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của NHTW trên thị trường mở thông qua việc mua ban các chứng khoán. Các chứng khoán được mua bán là các chứng khoán đã phát hành trước đây và đang lưu hành trên thị trường thứ cấp như: tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương; thương phiếu…. Các hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất.Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả nhất vì nó rất linh hoạt và chủ động. Điều kiện để sử dụng hiệu quả công cụ này là sự phát triển của thị trường vốn thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. 2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam 2.1.Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam giai đoạn gần đây. 2.1.1. Giai đoạn 2008-2010 Đây là giai đoạn đầy khó khăn cho nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng bất động sản Mỹ sau đó lan rộng ra nhiều nước trên thế giới đã để lại những thách thức to lớn cho sự phát triển kinh tế toàn cầu. Tại Việt Nam, từ năm 2008, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, lạm phát ở mức cao trên hai con số. NHNN đã sử dụng các công cụ điều hành CSTT một cách linh hoạt, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý. Chính sách lãi suất:
  7. 87 Các lãi suất chủ chốt được NHNN điều chỉnh linh hoạt. Trong ba quý đầu năm 2008, với mục tiêu kiềm soát lạm phát, ổn định giá cả, NHNN liên tục điều chỉnh tăng các mức lãi suất chủ đạo; lái suất cơ bản điều chỉnh tăng 4 lần từ 8.25%/năm đến 14.00%/năm; lãi suất tái cấp vốn 6,50%/năm- 15,00%/năm ; lãi suất tái chiết khấu: 4,5%/năm- 13,0%/năm. Biểu 1: Diễn biến lãi suất điều hành tại Việt Nam giai đoạn Nguồn: NHNN Việt Nam. Sbv.gov.vn Dưới tác động của chính sách lãi suất, lạm phát có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, trong khi đó, tăng trưởng kinh tế có sự suy giảm mạnh (6 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng kinh tế đạt 6,5% giảm so với mức 7,9% cùng kì năm trước). Do đó NHNN tiếp tục kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng khuyến khích sản xuất, giảm đà suy thoái, từ nửa cuối năm 2008-2009, NHNN cắt giảm các mức lãi suất chủ đạo trong thời gian ngắn:lãi suất cơ bản 14.00%/năm- 7,0%/năm; lãi suất tái cấp vốn 15,00%/năm- 7,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu 13,0%/năm- 5,0%/năm. Việc làm này giúp các tổ chức tín dụng cắt giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện doanh nghiêp tiếp cận vốn từ ngân hàng để duy trì và mở rông sản xuất. Chính sách về dự trữ bắt buộc:
  8. 88 Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 2008-2011 Nguồn: NHNN Việt Nam. sbv.gov.vn Để thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, đầu năm 2008, NHNN tăng tỷ lệ DTBB lên 1%. Đồng thời, 17/3/2008 NHNN cũng phát hành tín phiếu bắt buộc với tổng trị giá phát hành là 20300 tỷ đồng nhằm thu bớt tiền trong lưu thông. Cùng với việc tăng các lãi suất chủ chốt đã khiến các NHTM đã phải trải qua những ngày tháng khó khăn về thanh khoản. Từ cuối năm 2008, NHNN liên tục điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB với biên độ cắt giảm 1-2% nhằm hỗ trợ các ngân hàng về thanh khoản. Từ sau năm 2010, công cụ này ít được sử dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc gần như không thay đổi Chính sách tỷ giá: Thời điểm giữa 6/2008, thị trường có nhiều đột biến, NHNN chủ động điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn nhu cầu thị trường, mở rộng biên độ giao dịch USD/VND từ mức 1% lên mức 2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng NHNN công bố. Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đáp ứng tối đa cá nhu cầu thiết yếu, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Từ cuối năm 2008, tỷ giá về cơ bản được NHNN điều hành ổn định Ngiệp vụ thi trường mở:
  9. 89 Bảng 1: Cung tiền ròng qua nghiệp vụ thị trường mở (2008-2011). Nguồn: NHNN (tỷ đồng) Trong năm 2008, trước những biến động bất thường của thị trường, nhằm đáp ứng khả năng thanh toán cho các TCTD, NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng; năm 2009,cũng bơm ròng tới 122.830 tỷ đồng; năm 2010, bơm ròng 294.304 tỷ đồng, trong khi đó,6 tháng đầu năm 2011, chỉ bơm ròng 13.056 tỷ đồng. Như vậy, khi các TCTD thiếu hụt nghiêm trọng về vốn khả dụng thì thị trường mở thực sự là “ phao” hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng, bảo đảm khả năng thanh toan cho các TCTD trong trường hợp thị trường có những biến động đột xuất. 2.2.2. Giai đoạn từ năm 2011 đến nay Nhìn lại các mục tiêu mà CSTT Việt Nam đã đưa ra và các chính sách, công cụ để thực hiện các mục tiêu này thì trước 2011, Việt Nam luôn theo đổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu đó là 2 mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Hai mục tiêu này về ngắn hạn mâu thuẫn với nhau việc đó đã dẫn đến các công cụ để thực hiện CSTT không đồng bộ, nhất quán và mâu thuẫn với nhau, do đó, không thể hoàn thành các mục tiêu đề ra
  10. 90 Tuy nhiên, năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế về tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, thậm chí còn có thể chậm hơn năm 2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi kinh tế thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải như lạm phát, nhập siêu ở mức cao, tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế, một số bộ phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối...) diễn biến còn phức tạp... Để tháo gỡ dần các khó khăn đó, đồng thời góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 8/11/2010 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ đạo sát sao các Bộ, ngành chức năng trong nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân hàng tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Chủ trương của Chính phủ được thể hiện rõ nét thông qua Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 15/TB-VPCP ngày 14/02/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ. Từ năm 2011, điều hành CSTT ở Việt Nam đã có những thay đổi phù hợp hơn, cụ thể là từ việc theo đổi đa mục tiêu như trước Việt Nam đã chuyển sang CSTT đơn mục tiêu, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. CSTT đã tập trung nhiều hơn vào ổn định tiền tệ được đo lường bằng mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô- là mục tiêu dài hạn của CSTT. Với mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN tập trung vào điều hành linh hoạt các công cụ về lãi suât, tỷ giá và nghiệp vụ thị trường mở theo hướng ổn định đồng nội tệ. Chính sách lãi suất: NHNN đã thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt để giảm mặt bằng lãi suất. đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần lượt tăng khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ.
  11. 91 Biểu 2: Diễn biến lãi suất liên ngân hàng Riêng trong năm 2012, trần lãi suất huy động VND được điều chỉnh giảm tới 5 lần, từ 14%/năm vào ngày 13/3/2012 xuống 8% vào ngày 24/12/2012. Trong năm 2013, NHNN tiếp tục giảm 2%/năm đối với các mức lãi suất điều hành, giảm 3%/năm đối với trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND dành cho các lĩnh vực ưu tiên, giảm 1%/năm trần lãi suất tiền gửi VND, đồng thời cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 6 tháng trở lên. Biểu 3: Lãi suất chủ chốt 2011-2014
  12. 92 Gần đây nhất vào ngày 18/3/2014, NHNN đã quyết định giảm các mức lãi suất điều hành thêm 0,5%. Cụ thể là, lãi suất tái cấp vốn giảm xuống 6,5%/năm, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng xuống 7,5% và lãi suất tái chiết khấu còn 4,5%. Ngày 29/10/2014, trần lãi suất tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm, kỳ hạn từ 01 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 6%/năm xuống 5,5%, điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên từ 8%/năm xuống 7%/năm.Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Chính sách tỷ giá: Cùng với các chính sách cho lãi suất, tỷ giá và thị trường vàng không còn căng thẳng. Biểu 4: Diễn biến tỷ giá Nếu như năm 2010 và 2011, NHNN liên tục phải điều chỉnh tăng tỷ giá để đến cuối năm 2011, tỷ giá tăng 10,01% so với cùng kỳ năm 2010 và đứng ở mức 20.828 VND/USD và trong hơn một năm trở lại đây, tỷ giá khá ổn định. Các trường hợp vay vốn bằng ngoại tệ cũng bị thu hẹp. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và tự do được thu hẹp, tỷ lệ đô la hóa giảm mạnh. Các tổ chức kinh tế và cá nhân đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các ngân hàng, tạo điều kiện cho NHNN mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ
  13. 93 ngoại hối nhà nước đạt mức kỷ lục khoảng 35 tỷ USD. Thị trường vàng cũng không còn bị "sốt", nhu cầu vàng trong dân đã bão hòa, khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới dần được thu hẹp, NHNN không phải tổ chức đầu thầu bán vàng miếng, góp phần hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của Quỹ Bình ổn tỷ giá. Nghiệp vụ thị trường mở: Biểu 5: Hoạt động thị trường mở (2013-2014) Nguồn: NHNN Việt Nam Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà vốn khả dụng của các NHTM. Đặc biệt, từ đầu năm 2013 đến nay, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) bằng công cụ OMO thường xuyên và mạnh mẽ với tần suất liên tục. Công cụ này giúp NHNN linh hoạt trong việc điều chỉnh lãi suất theo sát thị trường và phù hợp với mục tiêu CSTT III. Đánh giá hiệu quả điều hành CSTT và những thách thức. Một số đề xuất 3.1.Những kết quả đạt được Trong hơn 3 năm gần đây, NHNN đã có nhiều đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt và nhất quán hơn. Sự đổi mới mang tính bước ngoặt này trong đó phải kể đến việc thay đổi mục tiêu cuối cùng đã mang lại những hiệu
  14. 94 quả rất tích cực. Tính nhất quán trong chính sách tiền tệ rất quan trọng vì người dân và doanh nghiệp có thể dự đoán các quyết định của NHNN, từ đó chủ động lên kế hoạch cho mình và đơn vị kinh doanh. Chính sách tiền tệ được điều hành nhất quán trong hơn 3 năm qua đã tạo được sự yên tâm, tin tưởng của công chúng đối với NHNN.có sự chuyển giao giữa các công cụ, các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng linh hoạt và phổ biến thay thế các công cụ trực tiếp, theo đó NHNN có thể sửa chữa kịp thời theo diễn biến thị trường. Về mục tiêu kiểm soát lạm phát: NHNN đã đạt những thành tựu nhất định trong kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ Biểu 6: Diễn biến lạm phát Việt Nam Nguồn: Tổng cục Thống kê Việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và nhất quán của NHNN đã đóng góp rất nhiều cho sự ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, thể hiện cụ thể qua những kết quả như: Việt Nam đã kiểm soát lạm phát hiệu quả với tỉ lệ lạm phát hiện nay khoảng 4%, là mức thấp kỷ lục trong một thập kỷ qua. Bên cạnh những biện pháp kiểm soát giá cả của Chính phủ thì việc kiểm soát cung tiền và điều hòa thanh khoản trên thị trường tiền tệ của NHNN là yếu tố quan trọng kéo tỉ lệ lạm phát xuống thấp như hiện nay, đồng thời giúp thị trường ngoại hối và giá trị tiền đồng ổn định từ ba năm nay, đảm bảo thanh khoản của hệ thông ngân hàng.
  15. 95 Biểu 6: Mức cung tiên M2 của Việt Nam Nguồn: NHNN Việt Nam NHNN tăng cường các giải pháp điều hành nhằm kiềm chế tín dụng tăng dưới 20% nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất, kinh doanh hiệu quả, tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%.. Theo đó, sử dụng và điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ mà tập trung ở ba công cụ chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để điều tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống năm 2013 đạt 12,51%, năm 2014 là 12,62%, cung tiền M2 liên tục tăng . Việc NHNN điều chỉnh phá giá đồng nội tệ một vài lần trong những năm qua là cần thiết cân bằng cung cầu trên thị trường ngoại hối và hỗ trợ xuất khẩu.
  16. 96 Biểu 7: Diễn biến thị trường vàng tại Việt Nam Ngoài ra, không thể không nói đến sự ổn định của thị trường vàng. NHNN đã loại bỏ được những cơn sốt vàng và giảm thiểu hiện tượng vàng hóa trong nền kinh tế, thị trường vàng đã về gần hơn với trị trường thế giới. Ngày nay dân chúng không còn quá chú trọng tích trữ vàng như trước đây. Kết quả này góp phần không nhỏ vào mục tiêu kiểm soát lạm phát của Chính phủ. Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Biểu 8: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam Nguồn: TCTK Điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cũng góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP. Ngoài sự điều chỉnh cung tiền cho phù hợp, NHNN đã chỉ đạo các ngân hàng tăng
  17. 97 cường hoạt động tín dụng bằng việc những năm gần đây liên tục cắt giảm các mức lãi suất điều hành qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng hạ mức lãi suất cho vay, tăng dư nợ tín dụng, cung cấp nguồn vốn giá rẻ để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý. Ngoài ra, với việc điều chỉnh chính sách tỷ giá linh hoạt đã góp phần cân bằng cung cầu trên thị trường ngoại hối, hỗ trợ xuất khẩu, đảm bảo khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, hạn chế bớt nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2014 đạt 150 tỷ USD, vượt xa mục tiêu Quốc hội đề ra, đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng GDP. Năm 2014 là năm thứ ba liên tiếp là nước nhập siêu. Cán cân thanh toán được cải thiện, bổ sung được nguồn ngoại tệ lớn trong dự trữ ngoại hối. Có thể nói, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả và đạt được hai mục tiêu chính của một ngân hàng trung ương là giữ ổn định giá trị đồng nội tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với tỉ lệ lạm phát hiện nay khoảng 4% và tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,8% trong 2014, nền kinh tế Việt Nam đang đạt được cả hai mục tiêu trên. Ngoài những kết quả về điều hành CSTT nhằm đạt mục tiêu đề ra, NHNN cũng đạt được một số kết quả về mặt hoạt động, ổn định hệ thống. Quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD tiếp tục được thực hiện theo đúng Đề án đã được phê duyệt, trên cơ sở chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, an toàn hệ thống TCTD và khả năng chi trả của các TCTD được đảm bảo.Các giải pháp xử lý nợ xấu đã được ngành Ngân hàng triển khai quyết liệt, nợ xấu tiếp tục được xử lý. Chính sách tiền tệ đã có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đặc biệt là phối hợp với chính sách tài khóa, đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. 3.2. Một số hạn chế và thách thức Bên cạnh những thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ thì nhiệm vụ của Chính phủ còn phải duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Đối với NHNN, để góp phần đạt được mức tăng trưởng GDP khoảng 6,2% và tỉ lệ lạm phát khoảng 5% như mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2015 là một thách thức không nhỏ.
  18. 98 Dù CSTT thời gian qua được đánh giá đạt đươc nhiều kết quả tích cực, nhưng trước mắt, tăng trưởng tín dụng và xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống TCTD đang là những vấn đề cần phải nổ lực cải thiện và là tiêu điểm của năm 2015, năm cuối cùng trong kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ. Bởi mặc dù mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường đã giảm đáng kể nhưng với những điều kiện vay vốn ngày càng khắt khe, thận trong hơn, trong bối đà phục hồi của nền kinh tế còn yếu, tổng cầu không có nhiều khởi sắc khiến cho khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của khu vực sản xuất vẫn còn rất yếu, hàng tồn kho nhiều, tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng ở mức thấp. Mặt khác, quá trình tái cơ cấu hệ thông tổ chức tín dụng diễn ra vẫn còn chậm.Nợ xấu của hệ thống TCTD đã được tích cực xử lý trong thời gian qua nhưng vẫn còn ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng và luân chuyển vốn trong nền kinh tế Thâm hụt ngân sách được mở rộng lên 5,3% GDP và khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành tăng lên có thể tạo áp lực đối với việc điều hành chính sách sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Việc tăng cường nắm giữ trái phiếu chính phủ một mặt giúp các TCTD tăng dự trữ thanh khoản nhưng cũng có thể phát sinh khó khăn nếu các TCTD không chủ động trong việc cân đối vốn theo kỳ hạn hợp lý. 3.3. Một số đề xuất cho điều hành CSTT của NHNN Việt Nam Thứ nhất, điều hành chính sách của NHNN cần tiếp tục kiên định với mục tiêu kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô Mặc dù lạm phát những năm gần đây đang được kiểm soát ổn định ở mức thấp song không được chủ quan với lạm phát. Lạm phát biến động phức tạp theo sự biến động của nền kinh tế. NHNN phải điều hành CSTT chủ động và linh hoạt kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng một cách hợp lý. Việc điều hành chính sách luôn phải theo dõi diến biến của nền kinh tế và lạm phát. Phải đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát lên hàng đầu và lâu dài. Bởi vì ổn định giá trị đồng tiền là một điều kiện cần nếu muốn có sự tăng trưởng bền vững, thúc đẩy hệ thông kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, là
  19. 99 tiền đề để NHNN có thể thực hiện nới lỏng CSTT: cắt giảm lãi suất, tăng cung tiền nhằm hỗ trợ đầu tư và sản xuất, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống. Thứ hai, tăng cường hơn nữa các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh Trong bối cảnh lạm phát ở mức thấp, nền kinh tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, hệ thống ngân hàng đang dư thừa nguồn vốn, NHNN cần tiếp cắt giảm các lãi suất điều hành để khơi thông nguồn vốn, tăng trưởng dư nợ tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Bên cạnh việc cắt giảm lãi suất thì NHNN có thể linh hoạt trong việc chấp thuận cho một số TCTD tăng trưởng tín dụng vượt so với thông báo của NHNN phù hợp với với cơ cấu nguồn vốn và khả năng quản trị rủi ro. Thứ ba, tiếp tục thúc đẩy các giải pháp xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống các TCTD Vấn đề xử lý nợ xấu không hề đơn giản vì nó nằm trong tổng thể nhiều chiều và các khía cạnh vận động của nền kinh tế, chứ không chỉ riêng của ngành ngân hàng, cần sự tham gia xử lý của nhiều bộ ngành. Riêng về phía NHNN cần : Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan tới xử lý nợ xấu; xây dựng phương án mua, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường để VAMC thực hiện trong năm 2015. Hoàn thiện thể chế quyền hạn trách nhiệm của VAMC; sự tham gia của nhà đầu tư, tạo điều kiện cho khu vực nước ngoài tham gia vào thị trường mua- bán nợ xấu của Việt Nam. Bên cạnh đó, để xử lý nợ xấu có thể sử dụng biện pháp chứng khoán hóa. Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Cũng có thể chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển
  20. 100 Tiếp tục có giải pháp hỗ trợ trong việc trích lập dự phòng rủi ro đối với các TCTD gặp khó khăn trong quá trình tái cơ cấu; tăng cường công tác quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD và bảo đảm tuyệt đối an toàn hệ thống các TCTD…Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém, từ phía Ngân hàng nhà nước có thể hỗ trợ từ tài chính cho việc mua lại này. Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra giám sát đảm bảo an toàn và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. NHNN cần thường xuyên thanh tra, giám sát, kiểm soát hoạt động của hệ thống, đánh giá thực trạng TCTD để nhận diện các TCTD yếu kém và TCTD hoạt động bình thường, từ đó có biện pháp tái cơ cấu thích hợp. Yêu cầu tất cả các TCTD chủ động rà soát, đánh giá thực trạng và xây dựng phương án tái cơ cấu toàn diện các mặt tổ chức và hoạt động, tập trung tăng cường năng lực tài chính đảm bảo vốn tự có đủ bù đắp rủi ro, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định và vốn điều lệ thực không thấp hơn mức vốn pháp định, xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Hoàn thiện đồng bộ các quy định liên quan đến việc đổi mới hệ thống quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, minh bạch hóa trong hoạt động ngân hàng.Xử lý mạnh với các TCTD có hành vi che dấu hoặc công bố thông tin sai lệch về hoạt động. Thứ năm, tiếp tục phối hợp đồng bộ với các chính sách vĩ mô đặc biệt là chính sách tài khóa CSTT phải được điều hành đồng bộ và thống nhất với các chính sách vĩ mô khác nhằm đảm bảo có thể đạt được mục tiêu chính sách đề ra. Đặc biệt trong bối cảnh NHNN Việt Nam được tổ chức theo mô hình trực thuộc chính phủ, việc điều hành CSTT chịu ảnh hưởng bởi các quyết định, định hướng của Chính phủ đặc biệt là chính sách tài khóa. Nợ công của Việt Nam sắp chạm ngưỡng nguy hiểm, việc phối hợp CSTT trong việc hỗ trợ ngân sách là vô cùng quan trong. NHNN cần phải xem xét đến mục tiêu của chính sách tài khóa quốc gia từ đó xác định những biện pháp can thiệp hợp lý, đăc biệt là hoạt động trên thì trường mở khi mà lượng trái phiếu chính phủ phát hành ngày càng tăng lên.
nguon tai.lieu . vn