Xem mẫu

  1. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU DIỄN TẤU ĐÀN BẦU DỰA TRÊN THANG ÂM BẮC VÀ NAM TRONG ÂM NHẠC CẢI LƯƠNG ThS. Phạm Ngọc Đỉnh1 Tóm tắt: Đàn bầu có lịch sử lâu dài và ngưng kết thành một biểu tượng sâu sắc, toàn diện mang tính văn hóa dân tộc. Tất cả các nhạc khí đều dùng thực âm, riêng đàn bầu Việt Nam chuyên dùng bồi âm. Trong đó, hai yếu tố vật lý được áp dụng để tạo cách đàn, đặc biệt là khảy dây đàn trên nút giao động để tạo ra bồi âm, thay đổi độ cao của bồi âm do độ căng sợi dây quyết định.[1] Từ khóa: Thang âm, điệu thức, diễn tấu, đàn bầu, cải lương… Ngoài tính năng độc tấu các bài bản dân ca, các tác phẩm trong và ngoài nước, đàn bầu còn tham gia ở các dàn nhạc như: dàn nhạc giao hưởng, dàn nhạc mang phong cách Tuồng - Chèo - Huế - Cải lương. Với những tính năng như vậy, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được nói về cách diễn tấu của cây đàn bầu dựa trên thang âm Bắc và Nam trong âm nhạc cải lương. Âm nhạc cải lương có hai hệ thống điệu thức tương ứng với hai hệ thống bài bản là hệ thống thang âm Bắc và hệ thống thang âm Nam. Mỗi hệ thống có các hơi khác nhau nhằm biểu hiện tốt hơn một tính chất nào đó. Trong diễn tấu đàn bầu, mỗi loại hơi đều có những đặc điểm về kỹ thuật: rung, luyến, láy, vỗ, nhấn… khác nhau để người nghe có thể phân biệt được hơi của mỗi bài bản. 1. Thang âm Bắc - Về mặt cấu trúc: Thang âm Bắc gồm những âm: Hò (Lìu) - Xừ - Xang - Xê - Cống - Líu. Dựa vào hệ thống âm nhạc phương Tây, chúng ta có thể tính ra khoảng cách giữa các âm trong thang âm Bắc [4] như sau: Hò - Xừ = một quãng 2 trưởng (1 cung) Xừ - Xang = một quãng 3 thứ (1 cung rưỡi) Xang - Xê = một quãng 2 trưởng (1 cung) Xê - Cống = một quãng 2 trưởng (1 cung) Cống - Líu = một quãng 3 thứ (1 cung rưỡi) 1 Khoa Âm nhạc, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 43
  2. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Như vậy, về mặt quãng âm, thang âm Bắc được mã hóa theo công thức: q2T - q3t - q2T - q2T - q3t. Với cách bố trí các âm như thế, thang âm Bắc nghe rất trong sáng, khỏe mạnh và vui tươi. Vậy nên, trong nghệ thuật cải lương, những bài viết trên nền thang âm Bắc được dùng để diễn tả trạng thái tâm lý vui mừng, hân hoan của nhân vật; hoặc để diễn tả cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp. - Thang âm Bắc gồm 4 hơi: + Thứ nhất: Hơi Bắc gồm 6 bài Phú lục, Xuân tình, Lưu thủy trường, Bình bán trấn, Cổ bản, Tây Thi. Các bài bản thuộc hơi Bắc có tính chất vui vẻ, lạc quan. Các bài bản thuộc điệu Bắc đều có tiết tấu nhanh, tươi tắn, tính chất âm nhạc thường trong sáng, lạc quan, vui vẻ. Sử dụng điệu thức 5 âm (C-D-F-G-A). Ví dụ : Bài Tây Thi [1] Khi diễn tấu bài Tây Thi thuộc điệu Bắc trên đàn bầu, tay phải gảy vang, khỏe, sáng tiếng đàn, tay trái rung vào các âm Rê (D) - La (A), láy âm Fa (F) - Si giáng (Bb), vỗ âm Đô (C) - Sol (G). + Thứ hai: Hơi Lễ gồm 7 bài Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc, Xàng xê. Các bài bản hơi Lễ trước đây được dùng trong các nghi thức tế lễ nên có tính chất trang nghiêm, trang trọng [3]. Ví dụ : Trích bài Lưu thủy [1] Diễn tấu rung nhẹ các nốt (C-A), nhấn các quãng 3 - 4. Tay phải gẩy tròn nốt, tô điểm các nốt chậm từ Sol xuống Fa, Sol lên La, sử dụng luyến 4 nốt kép. + Thứ ba: Hơi Quảng gồm 8 bài Xang xừ líu, Khốc hoàng thiên, Sương chiều, Tú anh, Bài tạ, Ngũ điếm, Ú líu ú sáng, Liễu thuận nương. Các bài bản hơi Quảng có xuất xứ từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, có tính chất giai điệu vui tươi, hào hứng. Ví dụ : Bài Liễu thuận nương [1] 44
  3. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Riêng hơi Quảng lại rung chậm vừa âm Đô (C) - Pha (F) - Sol (G), láy âm Rê (D) - La (A), nhấn các quãng 3 - 4. + Thứ tư: Hơi Đảo chỉ có duy nhất một bài Đảo ngũ cung hay còn gọi là Nam đảo. Sở dĩ là Đảo ngũ cung vì trong bản nhạc này có nhiều chỗ chuyển cung nghe rất linh hoạt và rộn ràng. Ví dụ : Bài Nam đảo [1] Sử dụng thang âm 5 âm (C-D-F-G-A). Tính chất nhanh gọn, khỏe, nghiêm trang. Rung nhanh vào âm Sol (G) và La (A). Nẩy vào âm Rê (D) lên Fa (F) tạo tiếng đàn vui tươi, rộn ràng. 2. Thang âm Nam - Về mặt cấu trúc: Thang âm Nam gồm những âm: Hò (Lìu) - Xừ - Xang - Xê - Cống - Líu. Dựa vào hệ thống âm nhạc phương Tây, chúng ta có thể tính ra khoảng cách giữa các âm trong thang âm Nam [4] như sau: Hò - Xừ = một quãng 3 thứ (một cung rưỡi) Xừ - Xang = một quãng 2 trưởng (1 cung) Xang - Xê = một quãng 2 trưởng (1 cung) Xê - Phan = một quãng 3 thứ (một cung rưỡi) Phan - Líu = một quãng 2 trưởng (1 cung) Các bài bản trong điệu Nam có nhịp độ chậm, tính chất giai điệu buồn bã, bi thương. - Thang âm Nam gồm 3 hơi: + Thứ nhất: Hơi Ai gồm các bài Lý con sáo, Lý ngựa ô Nam, Lớp “Song cước” trong Đảo ngũ cung, Nam ai… với tính chất buồn thương, than trách. Ví dụ : Bài Nam ai [1] Trong bài Nam ai được sử dụng điệu thức 5 âm (C-Eb-F-G-Bb). Sử dụng kỹ thuật láy mềm vào âm Sol (G), Đô (C); vuốt chậm từ âm La (A) xuống âm Sol (G). Đặc biệt, âm La (A) trong bài đều cao hơn La giáng (Ab) và thấp hơn La bình (A ) 45
  4. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU + Thứ hai: Hơi Oán có số lượng bài bản khá lớn như Tứ đại oán, Giang nam, Phụng cầu, Phụng hoàng, Bình sa lạc nhạn, Chiêu quân, Trường tương tư, Văn thiên tường… với tính chất bi thương, oán trách [3]. Ví dụ : Bài Văn thiên tường [1] Trong bài Văn thiên tường được sử dụng điệu thức 7 âm (C-D-Eb-F-G-Ab-Bb). Tay trái rung đậm âm Fa (F), Si giáng (Bb), láy âm Đô (C), vuốt âm Sol (G), luyến nẩy âm Đô (C) lên âm Mi giáng (Eb) từ bậc V (đó là âm đặc trưng của hơi oán). Xuất phát từ bản Dạ cổ hoài lang do cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác tại Bạc Liêu vào năm 1918 - 1919. Bản gốc gồm 20 câu nhịp sau đó phát triển thành nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16 và đến nhịp 32 trở thành bản chủ lực của Cải lương. Nó khác với giai điệu khác chỉ một mình nó đứng riêng lẻ cũng có thể diễn tả được mọi hoàn cảnh tính cách (Hỷ - Nộ - Ái - Ố). Chính vì thế mà nửa thế kỷ trôi qua chưa có một làn điệu nào thay thế được vị trí của bản vọng cổ trên sân khấu Cải lương. Ngôn ngữ âm nhạc của bài Vọng cổ có tính khái quát rất cao, nó là sự kết hợp tinh tế các điệu thức dân gian như: hò, lý, nói thơ… Để tạo nên một điệu thức thống nhất có cấu trúc về tiết tấu trường độ cũng như sự triển khai của các âm hình một cách độc đáo, sáng tạo không thể lẫn với các bài khác. Vọng cổ là hơi Oán [1]. Ví dụ: Dạo vọng cổ (Nhạc tài tử cải lương) [1] Kỹ thuật sử dụng trong Vọng cổ: Tay trái láy vào âm Sol (G), rung nhanh vừa, rung vào âm Fa (F), Si giáng (Bb). Tay phải tô điểm âm Đô (C), nẩy vào âm Si giáng (Bb) từ bậc II âm Mi (E) từ bậc I. Đặc biệt, trong bài âm La (A) thấp hơn La giáng (Ab) và âm Mi (E) cao hơn Mi giáng (Eb) (La non - Mi già). + Thứ ba: Hơi Xuân chỉ có duy nhất 1 bài là Nam xuân, nhịp độ vừa phải, tính chất giai điệu nhẹ nhàng, khoan thai, sảng khoái… Ví dụ: Bài Nam xuân [1] 46
  5. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Sử dụng điệu thức 5 âm (C-D-F-G-A). Tay trái rung vừa vào âm Rê (D), La (A), láy âm Fa (F), Đô (C). Khi diễn tấu các bài bản trong điệu Nam cần lưu ý: Tay phải gảy vang, rõ nốt, tay trái rung chậm, biên độ rộng ở âm Fa (F) - Si (B), láy âm Mi (E), các âm tô điểm chậm. Riêng hơi Xuân được xếp vào điệu Nam nhưng tính chất và cách diễn tấu có khác so với hơi Ai và hơi Oán vì nhịp độ cũng như tính chất giai điệu. Khi diễn tấu các bài hơi Xuân, tay phải gảy vang, âm thanh nhẹ nhàng, thư thái, rung nhanh các âm Rê (D) - La (A) - Mi giáng (Eb). Ví dụ: Bài Trường tương tư [1] Khi nghe thang âm Nam với thang âm Bắc, ta thấy cấu trúc quãng âm của thang âm Nam ngược với cấu trúc quãng âm của thang âm Bắc. Hai nửa của thang âm Bắc được sắp xếp theo thứ tự: q2T - q3t; trong khi hai nửa của thang âm Nam được sắp xếp theo thứ tự ngược lại: q3t - q2T. Ngoài ra, chúng ta còn nghe nói đến những giai điệu mới như Hơi Bắc, Nam Xuân và Nam Ai. Đó chính là những thang âm mới, được các nghệ nhân tạo ra bằng cách kết hợp hai thang âm Bắc - Nam lại với nhau, hoặc bằng cách dịch chuyển các âm trong những thang âm đó. Nghệ thuật cải lương có vai trò đặc biệt góp phần quan trọng làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, nó là gạch nối giữa văn hóa bác học và văn hóa dân gian; giữa nghệ thuật truyền thống từ ngàn xưa với nghệ thuật của ngày nay và đã góp phần tạo nên sự giao lưu cần thiết, đa dạng của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Tài liệu tham khảo [1]. Thanh Tâm (1990), Giáo trình giảng dạy đàn Bầu tại Nhạc viện Hà Nội ở 3 cấp: Sơ cấp, trung cấp, đại học (tài liệu viết tay). [2]. Đắc Nhẫn - Ngọc Thới (2000), Bài bản cải lương, Nxb Văn hóa. [3]. Vũ Nhật Quang, Một cách hiểu về điệu và hơi trong nhạc Tài tử - Cải lương, Tạp chí Âm nhạc số 3 - 1993. [4]. Vũ Nhật Thăng (1998), Thang âm nhạc Cải lương - Tài tử, Nxb Âm nhạc - Viện Âm nhạc Hà Nội. 47
  6. TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU MONOCHORD PERFORMANCE OF CAI LUONG OPERA BASED ON THE SOUTHERN - NORTHERN SCALE Pham Ngoc Dinh, M.A Abstract: Monochord has a long history and is a profound and comprehensive symbol of national culture. Overtones are used in monorchord in Vietnam. The two physical factors are applied to create a special performance are to press the button of the string to create overtones and to stretch the string to change the height of overtunes. Thus, monochord creates much more overtunes… Key words: Northern scale, Southern scale, mode, performance, monochord, Cai luong Opera 48
nguon tai.lieu . vn