Xem mẫu

  1. Ti
  2. u ban 1: Đào to chuyên ng DỊCH THƠ VÀ TỪ TỪ TIẾNG HÁN RA TIẾNG VIỆT VÀ NGƯỢC LẠI Trn Th Thanh Liêm Trng Đi hc Đi Nam Tóm t t: Dịch thơ là một nghệ thuật thể hiện khả expresses the ability to absorb language as well as the năng cảm thụ ngôn ngữ cũng như khả năng vận dụng ability to use language of the translator based on a ngôn ngữ của người dịch trên cơ sở am hiểu tường tận thorough understanding of cultural nuances and sắc thái văn hóa và ý nghĩa của từ ngữ ñược dùng meanings of words used in poetry. trong thơ ca. The challenge is to understand the message, only Cái khó là hiểu ñược nội dung thông báo, trên cơ by that the rendering is correct by means of translation. sở ñó mới chuyển dịch ñược ñúng ý nghĩa của nguyên However, each language has its own cultural context tác bằng phương tiện ngôn ngữ dịch. Nhưng mỗi ngôn with its own aesthetic ways of the native. A translated poem will really shine by the translator's perception ngữ lại có một bối cảnh văn hóa riêng với cách cảm thụ which is properly expressed in language proficiency, thẩm mỹ riêng của người bản ngữ. Một bài thơ dịch sẽ educational attainment and professional experience. It thực sự tỏa sáng bởi sự tri giác ñúng của người dịch is imperative that the translator must understand the thể hiện trình ñộ ngôn ngữ, trình ñộ văn hóa và kinh code of language which s/he is about to decode, i.e. nghiệm dịch thuật. Điều ñó bắt buộc người dịch phải the rules of phonics, vocabulary, grammar,... On the hiểu ñược mã của ngôn ngữ nguồn, tức là các quy tắc other hand, the translator must understand the context về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,... Mặt khác người dịch of the author, cultural and social context of poetry. That phải hiểu ñược hoàn cảnh của tác giả, bối cảnh văn correct translation makes people misunderstand is hóa và xã hội của thi phẩm. Dịch ñúng mà khiến người more or less regarded as comparative language (or ta hiểu sai thì ñó là dịch máy móc theo kiểu ñối chiếu word by word translation) to which dictionaries are ngôn ngữ. Đối chiếu thì ñã có từ ñiển làm cẩm nang, referred, translation must go beyond that because after còn dịch yêu cầu phải cao hơn ñối chiếu, bởi vì sau khi that we have to seek for the elegance. To do it, the ñối chiếu ta phải trau chuốt sao cho ñạt tới mức nhã. translator is required not only to be expert of at least Để ñạt ñược chữ nhã trong dịch thuật, ñòi hỏi người two languages which are collated but also to have a dịch không chỉ là chuyên gia của ít nhất hai thứ ngôn deep understanding of the culture, customs and habits ngữ ñang ñối chiếu, mà còn có sự am hiểu sâu sắc về of the two peoples. văn hóa, phong tục, tập quán của hai dân tộc. Mastering the source of the poem is called Phải nắm vững nguyên văn của bài thơ và dịch faithfulness; understanding the author's intention, ñúng gọi là tín; thấu hiểu ý của tác giả trong bài thơ, conveying the spirit, the feeling is known as truyền ñược cái thần, cái hồn của bài thơ là ñt. Lựa lời expressiveness; moreover choosing words to mà dịch cho ñúng nghĩa, trôi chảy, lưu loát, ñó là nhã. translate literally in smooth and fluent flow is elegance. Tín, ñt, nhã là ba tiêu chuẩn dịch thuật ñược người These standards have been concluded by the Chinese. Trung Quốc ñúc kết mà thành. Translation of text is difficult, it is necessary to Dịch văn ñã khó, phải cố gắng sao cho ñạt ñến reach the third standard of ELEGENCE. Translation of ñược ñích NHÃ. Dịch thơ và Từ còn khó hơn nhiều. Bài poetry and Tong tu is much harder. This paper viết này bàn về dịch Tống từ, thơ Đường luật và ca dao discusses the translation of the Tong tu, Song poetry của các tác giả Trung Quốc và Việt Nam. (based on the Song Dynasty’s rules on poetry) and folk Abstract: Translation of poetry is an art, it of Chinese and Vietnamese authors 126
  3. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 I. Tiêu chí ñánh giá dịch văn học ấy thì ñúng, nhưng theo văn ý nước mình thì nghe lại ra thô, lại phải dùng tiếng khác cùng tính cách Dịch thơ là một nghệ thuật, nó thể hiện khả ấy có ý nhã hơn thay vào” (18). năng cảm thụ ngôn ngữ cũng như khả năng vận dụng ngôn ngữ của người dịch trên cơ sở hiểu Phải “dùng từng chữ, ñủ từng ý và hệt với tường tận sắc thái văn hóa và ý nghĩa của từ ngữ giọng của hạng người nào về thời ñại nào” gọi là ñược dùng trong thơ ca. tín; thấu hiểu ý của tác giả trong bài thơ, truyền ñược cái thần, cái hồn của bài thơ là ñạt. Lựa lời Cái khó là hiểu ñược nội dung thông báo, trên mà dịch cho ñúng nghĩa, vừa trôi chảy, lưu loát, cơ sở ñó mới chuyển dịch ñược ñúng ý nghĩa của ñó là nhã. Tín, ñạt, nhã là ba tiêu chuẩn dịch nguyên tác bằng phương tiện ngôn ngữ dịch. thuật ñược người Trung Quốc ñúc kết mà thành. Nhưng mỗi ngôn ngữ lại có một bối cảnh văn hóa riêng với cách cảm thụ thẩm mỹ riêng của người Dịch văn ñã khó, phải cố gắng sao cho ñạt ñến bản ngữ. Một bài thơ dịch sẽ thực sự tỏa sáng bởi ñược ñích NHÃ. Dịch thơ và Từ còn khó hơn sự tri giác ñúng của người dịch thể hiện trình ñộ nhiều. Báo cáo này bàn về dịch Tống từ, thơ ngôn ngữ, trình ñộ văn hóa và kinh nghiệm dịch Đường luật và ca dao của các tác giả Trung Quốc thuật. Điều ñó bắt buộc người dịch phải hiểu ñược và Việt Nam. mã của ngôn ngữ mà mình giải mã, tức là các quy II. Bàn về Tống Từ, dịch Tống Từ, dịch thơ tắc về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,... Mặt khác Đường và dân ca Trung Quốc ra tiếng Việt người dịch phải hiểu ñược hoàn cảnh của tác giả, bối cảnh văn hóa và xã hội của thi phẩm. Dịch 1. Tống từ và dịch Tống Từ ñúng mà khiến người ta hiểu sai thì ñó là dịch máy Từ là một thể thơ cổ của Trung Quốc xuất hiện móc theo kiểu ñối chiếu ngôn ngữ. Đối chiếu thì vào ñời Đường, phát triển mạnh ở ñời Tống, có số ñã có từ ñiển làm cẩm nang, còn dịch yêu cầu phải chữ trong bài cố ñịnh, câu dài câu ngắn và phối cao hơn ñối chiếu, bởi vì sau khi ñối chiếu ta phải hợp chặt chẽ với âm nhạc. Theo ghi chép của trau chuốt sao cho ñạt tới mức nhã. Để ñạt ñược “Cựu Đường Thư” ( 旧唐书 ), từ “Khai Nguyên chữ nhã trong dịch thuật, ñòi hỏi người dịch (niên hiệu Đường Huyền Tông) trở lại, các ca sĩ không chỉ là chuyên gia của ít nhất hai thứ ngôn ñã lưu truyền (tạp dụng) các khúc ca trong các ngõ ngữ ñang ñối chiếu, mà còn có sự am hiểu sâu sắc nhỏ Hồ Di”. Do âm nhạc ñược lưu truyền rộng rãi, về văn hóa, phong tục, tập quán của hai dân tộc. tại các ñô thị ở Trung Quốc thời bấy giờ có rất Theo Nghiêm Phục, Tín (faithfulness): ñây là nhiều nhạc sư - ñào kép mưu sinh bằng nghề ca tiêu chuẩn quan trọng nhất. Tín có nghĩa là ñúng, hát, căn cứ vào nhu cầu phối hợp nhịp ñiệu giữa ý nghĩa và ngôn ngữ văn bản ñích phải chính xác ca từ và âm nhạc, sáng tác hoặc cải biên thành các so với ý nghĩa và ngôn ngữ của văn bản nguồn. từ khúc có các câu dài ngắn khác nhau, ñây chính Chính xác ở ñây là “phải dùng từng chữ, ñủ từng ý là Từ sớm nhất. Từ trong bài Từ Đôn Hoàng khúc và hệt với giọng của hạng người nào về thời ñại tử có thể nhận thấy Từ ñược sáng tác trong dân nào” (18). gian có sớm hơn Từ dưới ngòi bút của văn nhân khoảng vài chục năm. Đạt (comprehensibility): văn bản ñích phải mạch lạc và dễ hiểu. Nghiêm Phục cho rằng mục Vào Đời Đường, Từ trong dân gian ñại bộ phận là thuộc các ñề tài phản ánh về tình yêu ñôi ñích cuối cùng của Đạt là ñể có Tín, do vậy nếu lứa, cho nên nó không lọt vào con mắt “ñại nhã” một bản dịch không thể lĩnh hội ñược thì coi như của các văn nhân, mà còn bị coi là “tiểu ñạo ngoại dịch giả thất bại. thơ”. Chỉ có những người chú trọng giới thiệu Nhã (comformability): bản dịch phải có tính những sở trường của nghệ thuật Từ dân gian như thẩm mĩ. Kiều Thanh Quế cho rằng Nhã nên hiểu Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích mới viết ra một số Từ theo nghĩa “ñiểm nhã êm tai. Có khi dịch ra tiếng có phong cách tự nhiên, tràn ñầy khí chất chất 127
  4. Ti
  5. u ban 1: Đào to chuyên ng phác về những tấm lòng nhân hậu của người dân phát triển về sau dần dần tách rời khỏi âm nhạc, lao ñộng. Ôn Đình Quân và Ngũ Đại “Hoa gian và trở thành một thể văn ñộc lập. Sau ñây xin giới phái” nổi tiếng nhờ những câu Từ tươi thắm, cao thiệu một bài Từ của một học giả tên là Khấu thượng, mang ñậm phong cách phụ nữ dịu dàng, Chuẩn, ông ñã từng làm ñược nhiều bài Từ rất hay. ñôn hậu, chiếm một vị trí nhất ñịnh trong lịch sử Khấu Chuẩn (Hán tự: 寇準 , sinh năm 961, mất phát triển của Từ. Các tác phẩm Từ sau khi Nam ngày 24 tháng 10 năm 1023), tên chữ Bình Trọng ( 平 Đường Lý Hậu chủ bị bắt làm tù binh ñã mở ra một ranh giới nghệ thuật sâu lắng mới, truyền luồng 仲 ), quê ở Hoa Chân, là một nhân vật trứ danh ñời Tống, từng làm ñến chức quan Tể tướng. Ông ñậu sinh khí mãnh liệt cho các Từ khách hậu thế. tiến sĩ thời vua Thái Tông, ñến thời vua Chân Tông, Đến Đời Tống, thông qua sự ñột phá mạnh về năm Cảnh Đức ñược phong làm Tể tướng. Ông nổi mặt sáng tác của Liễu Vịnh và Tô Thức, Từ ñã tiếng văn võ song toàn và rất giỏi làm thơ. Dưới ñược phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức. ñây là bài Từ Đạp sa hành rất nổi tiếng của ông. Cho dù về mặt ngôn ngữ Từ chịu ảnh hưởng về thi tác của các văn nhân, nhưng cái thời thượng Khấu Chuẩn 寇準 (Trung Quốc) gọt giũa tao nhã cũng không hề thay thế cho cái 踏莎行 - 春 Đạp sa hành - Xuân Số chữ phong cách dân gian thông tục, mà hình thức câu 暮 mộ (Âm Hán Việt) 诗 春色將闌, ngắn câu dài của Từ lại rất dễ biểu lộ tình cảm, Xuân sắc tương lan, 4 chữ cho nên cách nói “Thi manh chí, Từ trữ tình” ( 盲志, 词抒情 ) là có những căn cứ nhất ñịnh. 鶯聲漸老。 Oanh thanh tiệm lão. 4 chữ 紅英落盡青 Hồng anh lạc tận thanh 7 chữ Từ về ñại thể có thể chia ra thành Phái hàm súc 梅小。 mai tiểu. và Phái khoáng ñạt (Uyển ước phái và Hào phóng 畫堂人靜雨 Hoạ ñường nhân tĩnh 7 chữ phái). Từ của Phái hàm súc có phong cách tao nhã uyển chuyển như Từ của Liễu Vịnh, Yên Thù,Yên 濛濛, vũ mông mông, 屏山半卷餘 Bình sơn bán quyển dư 7 chữ Kỷ Đạo,... không thẹn là những kiệt tác trữ tình, ñã diễn ñạt hoà quyện ñược giữa cái tình và cái 香嫋。 hương niểu. cảnh. Những tác phẩm của Phái khoáng ñạt thì bắt 密約沈沈, Mật ước trầm trầm, 4 chữ ñầu từ Tô Thức, ông ñã ñem Từ phát triển thành 无情杳杳。 Vô tình diểu diểu. 4 chữ một mảng nghệ thuật trữ tình ñộc ñáo (ñộc lập). 菱花塵滿慵 Lăng hoa trần mãn 7 chữ Danh lam thắng cảnh của quê hương, ñất nước, 將照。 dung tương chiếu. cuộc sống thanh bình, nhàn nhã hoặc chí lớn báo 倚樓無語欲 Ỷ lâu vô ngữ dục tiêu 7 chữ quốc của nhân dân qua ngòi bút của ông ñều trở 銷魂, hồn, thành ñề tài của Từ, làm cho Từ ñược bước trên 長空黯淡連 Trường không ảm ñạm 7 chữ những con ñường ñẹp, ñi sâu vào cuộc sống của quảng ñại quần chúng nhân dân. 芳草。 liên phương thảo. Dịch Từ của Khấu Chuẩn ra tiếng Việt Từ về mặt hình thức có thể chia thành Tiểu lệnh (khoảng 58 chữ), Trung ñiệu (59-90 chữ) và Đạp sa hành - 踏莎行 Đạp sa hành Trường ñiệu (trên 91 chữ), Từ dài nhất có tới 240 Cuối xuân (Âm Hán Việt) Lương Nam chữ). Một bài Từ, có khi chỉ có 1 ñoạn, gọi là ñơn Nguyễn Chí Xương (Việt ñiệu; có khi có 2 ñoạn, gọi là song ñiệu; có khi có Viễn dịch Nam) 3 ñoạn hoặc 4 ñoạn gọi là tam ñiệu hoặc tứ ñiệu. Xuân sắc hầu 頻頻遠行 Tần tần viễn tàn, hành Tên ñiệu Từ (Từ bài) ñại thể có mấy loại sau: Mượn dùng tên của nhạc khúc hoặc tựa ñề thơ Tiếng oanh dần 橫跨亚欧 Hoành khoa Á nhạc phủ cổ ñại như “Lục châu ca ñầu”; lấy tên lão. Âu của danh nhân như “Tây Giang Nguyệt”, theo một Hồng hoa rụng 漫 漫 旅 途 看 Mạn mạn lữ nhân vật hoặc ñiển cố lịch sử như “Niệm nô kiều”; hết thanh mai 两洲 ñồ khán lưỡng còn có loại tên ñiệu Từ do danh gia tự ñặt. Từ choắt. châu 128
  6. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 Hoạ ñường 观 瞻 天 下 兴 Quan chiêm Quan chiêm thiên hạ, Tiêu ñiều phồn thịnh gót người lặng mịt 与衰 thiên hạ hưng dở hay cho tường. ñầu ñều có nguyên nhân. mù mưa, dữ thoái Khắp thành thị thôn Xưa nay sự thành bại, Bình sơn nửa 繁 荣 冷 落 藏 Phồn vinh lãnh hương ñâu ñó, Đổ mồ hôi không quản khép hương hiu 根由 lạc tàng căn do Mọi sang hèn ñều có ngại, hắt. nguyên nhân. Mới gặt hái thành Mật ước trầm 古今硕果 Cổ kim thạc Xưa nay có phúc có công. trầm, quả phần, Thấu hiểu ngọn nguồn, Vô tình biền 奋勉有道 Phấn miễn hữu Hoa thơm quả ngọt Quý như trân châu biệt. ñạo chuyên cần mới nên. ngọc bảo. Đổ công sức xây nền Tốt ñẹp tương lai Lăng hoa 得 知 乃 源 必 Đắc tri nãi phú quý, ñường trải gấm hoa. (gương) ñầy bụi 珍保 nguyên tất Thấu ngọn nguồn giá ví Gắng lên cố sức vươn lười soi mặt. châm bảo ngọc châu. xa, Tựa lầu lặng lẽ 前 程 似 锦 多 Tiền trình tự Tương lai cảnh sắc Đừng ham ngơi nghỉ ắt chực tiêu hồn, 绚烂 cẩm ña huyền muôn màu, là thành công. lan Lực còn tu chí dài lâu cho bền. Trời liền cỏ ngát 力 争 上 游 志 Lực tranh ñều xanh ngắt. 不休 thượng du trí 2. Thơ Đường luật và dịch thơ Đường luật bất hưu a) Thơ Đường luật Đạp sa hành Số chữ Đường thi hay thơ Đường ñể chỉ một cách tổng (Dịch giao tiếp) quát những bài thơ làm theo thể cổ phong dưới Trần Thị Thanh Liêm (dịch 1) nhiều thể loại khác nhau ñược làm dưới thời nhà Những chuyến ñi lâu, 4 chữ Đường Trung Quốc, nổi tiếng nhất là 300 bài thơ Từ Á sang Âu. 4 chữ Đường (Đường thi tam bách thủ). Xuyên hai châu tai nghe mắt thấy 7 chữ Sướng khổ thịnh suy ñâu cũng vậy, 7 chữ Còn thơ Đường luật là thể thơ ñược gọi là thơ Do nguyên nhân bên trong thúc 7 chữ bác học, thể thơ này ñược viết theo những niêm ñẩy. luật nhất ñịnh. Thành quả xưa nay, 4 chữ Đời thịnh Đường (618-907), người ta mới Nào ai ban tặng. 4 chữ Hiểu cội nguồn quý ñặng ngọc 7 chữ bắt ñầu ñặt ra luật thơ một cách quy củ và từ ñó về châu. sau người ta ñều làm thơ theo luật này. Gọi là Thơ Có tương lai hạnh phúc sang giàu, 7 chữ Đường luật hay luật thi vì thơ phải làm theo luật lệ Vươn lên gắng sức mới dài lâu. 7 chữ thơ từ ñời nhà Đường Trung Quốc. Thơ Đường luật hay luật thi (cận thể) là loại Những chuyến ñi xa Chuyến ñi xa thơ ngũ ngôn (5 chữ) hay thất ngôn bát cú (bảy (Dịch giao tiếp) (Dịch giao tiếp) Trần Thị Thanh Liêm Trần Thị Thanh Liêm chữ tám câu) và tứ tuyệt hay còn gọi là tuyệt cú. dịch (2) dịch (3) Thơ Đường luật hay luật thi là thể thơ có quy luật Những chuyến ñi dài Chuyến ñi dài ngày, ngày bươn trải, chặt chẽ. Thơ Đường luật chia làm 2 thể: Xuyên quanh Á Âu. Xuyên Á Âu mê mải Mênh mang ñường - Thể mỗi câu là 7 chữ ta gọi là thơ Thất ngôn hăng say. khắp cả hai châu. Mênh mang rừng biển Thịnh sang thiên hạ - Thể mỗi câu là 5 chữ ta gọi là thơ Ngũ ngôn trời mây. muôn mầu, Nếu bài thơ chứa tổng cộng 4 câu ta gọi là thơ 129
  7. Ti
  8. u ban 1: Đào to chuyên ng tứ tuyệt. Còn chứa 8 câu thì gọi là bát cú. 黃鶴樓送孟浩然之廣陵 故人西辭黃鶴樓,煙花三月下揚州。 Thơ Đường luật Việt Nam do ñặc ñiểm của ngôn ngữ ñơn âm và ña thanh nên có nhiều thể 孤帆遠影碧空盡, 唯見長江天際流。 như: Luật bằng vần bằng, luật trắc vần bằng, luật Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên2 chi trắc vần trắc, luật bằng vần trắc. Trong cách viết Quảng Lăng (Âm Hán Việt) cũng có nhiều kiểu như Hồi văn (thuận nghịch Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu3 ñộc), ngũ ñộ thanh, vỹ tam thanh, nhất thủ, bát Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, vận ñồng âm, dĩ ñề vi thủ, khoán thủ, tập danh, Duy kiến Trường giang thiên tế lưu. song ñiệp,… - Dịch thơ Đường của Lý Bạch ra tiếng Việt: b) Dịch thơ Đường luật Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại 1) Lý Bạch 李白 - Trung Quốc 1 Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên về Lý Bạch (701-762) nguyên quán ở tỉnh Cam Quảng Lăng Túc hiện nay. Ông là một nhà thơ lớn vào thời nhà 老朋友在黄鹤楼下同我辞别, Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi ñàn 在繁花如烟的三月前往扬州。 Trung Quốc. Người ñời thường gọi Ông là Thi 帆船的影子远远地消失在晴空里, tiên (xem Tiên Lý Bạch). Lý Dương Băng trong 只看见长江水向天边奔流。 "Thảo ñường tập tự" ñã có câu nói bất hủ về thiên Dịch ngữ nghĩa: Bạn cũ giã từ tại lầu Hoàng tài Lý Bạch "Thiên tải ñộc bộ, duy công nhất Hạc, ñi Dương Châu, tiết tháng ba khói sóng nhân" (hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà mênh mang, cỏ hoa xuân sắc, cánh buồm lẻ loi thôi). Lý Bạch ñã ñể lại khoảng hơn 900 bài thơ, xa xa mất hút vào khoảng trời xanh, Chỉ thấy sông Trường Giang chảy ñến chân trời. ngoài ra còn ñể lại khoảng 50 bài văn xuôi, có ảnh hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung Bên lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên về Quảng Lăng (Dịch thơ): Quốc và ñược lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Bạn rời Hoàng Hạc tới Dương Châu, Rất nhiều học giả trên thế giới ñã dày công nghiên cứu thi ca Lý Bạch. Thơ của Ông rất tự nhiên, Hoa cỏ may xuân quyện sắc màu. không chải chuốt, gọt giũa mà ý thơ sâu sắc, có Thuyền lướt Trường Giang trời biếc thẳm, sức truyền cảm quyến rũ một cách lạ lùng .Ông là Bâng khuâng ta ñứng lặng bên lầu. thiên tài của những bài thơ ngắn gọn, nhưng cô Trần Thị Thanh Liêm dịch ñọng, hàm súc, ñầy ñủ. Thơ ông là những tuyệt tác 2) Thôi Hiệu 崔颢 - Trung Quốc bất hủ ñược lưu truyền trong nhân gian từ ñời này qua ñời khác. Bài thơ sau ñây của Lý Bạch là một 黃鶴樓 Hoàng Hạc Lâu (Âm Hán Việt) kiệt tác tuyệt vời trong thế giới Đường thi…, nội 昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa dung cô ñọng, thâm thúy của bài thơ là một thử hoàng hạc khứ, 此地空餘黃鶴樓。 thách lớn lao mà các dịch giả phải ñương ñầu vì Thử ñịa không dư "ngôn bất tận ý" (lời không nói hết ñược ý); người 黃鶴一去不復返, dịch phải dùng ngôn từ tương ứng như thế nào ñể 2 có thể vừa lột tả ñược cảnh vật lại vừa diễn ñạt Mạnh Hạo Nhiên: Một nhà thơ nổi tiếng vào ñời Đường. 3 Hoàng Hạc Lâu: Lầu Hoàng Hạc thuộc huyện Võ ñược tình cảm dạt dào, một cảm xúc lai láng của tác Xương, tỉnh Hồ Bắc, nằm bên cạnh sông Trường Giang giả khi sáng tác ra tuyệt tác này: (Dương Tử), phong cảnh tươi ñẹp, hùng tráng, là một trong những cảnh lầu nổi tiếng ở Trung Quốc. Cùng với lầu Nhạc Dương ở Hồ Nam, lầu Đằng Vương ở Giang Tây, ba ngôi lầu danh tiếng này ñược xếp vào hạng 1 Theo Câu lạc bộ dịch Hội nhà văn Hà Nội "Giang Nam tam ñại danh lầu". 130
  9. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 Hoàng Hạc Lâu. 4. Bạch vân ñọng lại vẩn vơ màu. 白雲千載空悠悠。 Hoàng hạc nhất khứ bất 晴川歷歷漢陽樹, 5. Hán Dương cây cối soi gương nước, phục phản, 芳草萋萋鸚鵡洲。 6. Anh Vũ bãi sa thảm cỏ lau. Bạch vân thiên tải 日暮鄉關何處是, không du du. 7. Trời lảng chiều, ñâu quê quán nhỉ, 煙波江上使人愁。 Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, 8. Trên sông khói toả nỗi lòng ñau. Phương thảo thê thê Trần Thị Thanh Liêm dịch (1) Anh Vũ châu. Bố cục Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Hai câu ñề (1và 2) Vào ñề trực tiếp. Yên ba giang thượng Hai câu thực (3 và 4) Phải ñối nhau. sử nhân sầu. Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại Hai câu luận (5 và 6) Phải ñối nhau. 仙人已经乘坐黄鹤飞去,这里只留存空空的 Hai câu kết (7 và 8) Nói lên tâm tư, nỗi 黄鹤楼。 niềm của tác giả. 黄鹤飞走之后不再回返,千年过去白云仍然 飘悠悠。 阳光照耀汉江,清楚地看到汉阳的树, Lầu Hoàng Hạc Lầu Hoàng Hạc 花草茂盛,葱茏一片鹦鹉洲。 (Dịch thơ) (Dịch thơ) 傍晚登楼远望,故乡在何处?江上烟波渺渺 Người xưa cưỡi hạc Cưỡi hạc người xưa 令人忧愁。 bay về ñâu, Trở lại nơi ñây chỉ bay ñã lâu, Nơi ñây còn lại hạc Dịch thơ Đường của Thôi Hiệu ra tiếng Việt Hạc lầu. không lầu. (Dịch ngữ nghĩa): Hạc vàng bằn bặt Hạc vàng bay mất Người xưa ñã cưỡi hạc vàng bay ñi, muôn niềm nhớ, không quay lại, Mây trắng vẩn vơ một Mây trắng còn kia Nơi ñây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc. nỗi sầu. lảng vảng màu. Hạc vàng một khi bay ñi ñã không trở lại, Hán Dương sông tạnh Cây cối Hán Dương lung linh bóng, gương bóng nước, Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không. Anh Vũ bãi xanh bát Bãi bồi Anh Vũ cỏ Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán ngát màu. vờn lau. Dương rõ mồn một, Hoàng hôn buông Trời chiều hỏi, ñâu Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi. xuống, quê ñâu nhỉ? quê hương nhỉ, Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi ñâu? Trên sông khói sóng Khói toả trên sông quặn lòng ñau. nổi thảm sầu. Trên sông khói tỏa, sóng gợn, buồn ñến nẫu lòng Trần T. T Liêm Trần T.T. Liêm người. dịch (2) dịch (3) Lầu Hoàng Hạc (Dịch thơ) 3) Vương Chi Hoán 王之奂 - Trung Quốc 1. Người xưa cưỡi hạc bay về ñâu, Khi dịch thơ, có những câu hoặc những từ ngữ 2. Trở lại ñất này cảnh hạc lâu. chúng ta cũng có thể tận dụng âm Hán Việt ñể dịch. Sâu ñây là bài thơ Đường của Vương Chi 3. Hoàng hạc bay ñi lang bạt xứ, Hoán: 131
  10. Ti
  11. u ban 1: Đào to chuyên ng 登鹳鹊楼 Đăng Quán Tước lâu (Âm tiếng Việt: Hán Việt) Chiều xuân Chiều xuân (Dịch thơ) (Dịch ngữ nghĩa) 白日依山尽, Bạch nhật y sơn tận, Thân thế trăm năm Thế sự trăm năm nỗi bọt 黄河入海流。 Hoàng Hà nhập hải lưu. than cho kiếp bèo bèo, 欲穷千里目, Dục cùng thiên lý mục, nổi, Xuân tàn tuổi hạc vẫn Xuân ñi rồi có ai cùng theo. 更上一层楼。 Cánh thượng nhất tầng lâu. không thành người Bên cầu nước chảy mơ Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại già. màng liễu, 登鹳鹊楼 Bên cầu nước chảy in Nắng nhạt trên sông não bóng dương liễu, nuột chiều. 太阳已经落下山头,黄河不停向大海奔流。 Trên sông chiều tà Sợi khói lồng trăng duyên vọng âm thanh não phận nhỡ, 要想看到更远的景色,就要再登上一层高楼。 nuột. Hương trời quyện gió Dịch thơ Trăng lồng trong nghĩa tình gieo. khói cây tuy không Lên ngắm lầu Lên ngắm lầu có phận gì, Tuổi ñời chín chục qua Khổng Tước Khổng Tước bình thản Gió quyện hương trời Mặt trời lưng chừng Mặt trời nghiêng sườn vẫn có tình với nhau. Viễn xứ lòng ñau ngẫm núi, núi, ngợi nhiều. Chín chục tuổi xuân Hoàng Hà nhập hải Hoàng Hà ñổ về khơi. qua một cách dễ Trần Thị Thanh Liêm dịch dàng, (1) lưu. Muốn nhìn muôn ngàn Muốn nhìn xa ngàn dặm, Khiến nỗi lòng người con ñi xa khó bình dặm, Lên tầng lầu nữa chơi. lặng ñược. Lên nữa một tầng lầu. Chiều xuân Màn khói trăng buông Trần Thị Thanh Liêm Trần Thị Thanh Liêm dịch (2) (Dịch thơ) trăng chểnh mảng, dịch (1) Muôn kiếp lênh ñênh Làn hương gió quyện gió phận bọt bèo, buông gieo. 4) Thái Thuận - Việt Nam Xuân ñi người luống Thiều quang chín chục 春暮 Xuân mộ (Âm Hán tuổi già theo. trôi thanh thoát, Việt) Dưới cầu nước chảy Uẩn khúc tâm tư lắng 百年身世嘆浮苹, Bách niên thân thế thán lay hình liễu, ñọng nhiều. phù bình, Trên sông le kêu lảng Trần Thị Thanh Liêm dịch 春去誰能不老成。 Xuân khứ thùy năng bất bóng chiều. (2) 流水橋邊楊柳影, lão thành. 5) Nguyễn Trãi – Việt Nam 夕陽江上鷓鴣聲。 Lưu thủy kiều biên 歸崑山舟中作 - 阮廌 Quy Côn Sơn chu 月於煙樹雖無分, dương liễu ảnh, trung tác 風與天香尚有情。 Tịch dương giang - Nguyễn Trãi thượng giá cô thanh. (Âm Hán Việt) 九十韶光容易過, Nguyệt ư yên thụ tuy 十年飄轉嘆蓬萍 Thập niên phiêu chuyển 草心游子苦難平。 vô phận, thán bồng bình 歸思搖搖日似旌 Phong dữ thiên hương Qui tứ dao dao nhật tự thượng hữu tình. 幾托夢魂尋故里 tinh Cửu thập thiều quang 空將血淚洗先塋 Kỉ thác mộng hồn tầm cố dung dị quá, 兵餘斤斧嗟難禁 lí Thảo tâm du tử khổ nan 客裡江山只此情 Không tương huyết lệ tẩy bình. tiên oanh 鬱鬱寸懷無奈處 Dịch thơ Đường của Thái Thuận (Việt Nam) ra Binh dư cân phủ ta nan 132
  12. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 船窗推枕到天 明 cấm 阿妹若是一棵大青树, Nếu em là một cây xanh, Khách lí giang sơn chỉ thử [1] Anh thành mây trắng ủ 我就变成彩云绕枝头。 tình quanh lá cành. Nếu em là Uất uất thốn hoài vô nại [2] suối nước lành, xứ 阿妹若 是 一 汪清泉 , Anh thành cá lội bơi Thuyền song thôi chẩm [3] quanh lẹ làng. 我就变成鱼儿水中游。 ñáo thiên minh. Nếu em là cây trúc vàng, CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN [4] Anh làm sáo thổi nhịp (Dịch ngữ nghĩa) 阿妹若 是 一 棵金竹 , nhàng véo von. Nếu em là Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác [5] quả dứa non, Anh cất rượu cưới nâng Mười năm phiêu giạt than thân bồng bèo 我就取来作笛不离口。 hồn ái ân. [6] Hỡi em xinh ñẹp chuyên Lòng muốn về ngày ngày lay ñộng như ñuôi cờ 阿妹若 是一只甜菠萝 , cần, Bao lần nhờ chiêm bao ñi tìm làng cũ [7] Yêu em anh quyết ở gần Luống ñem nước mắt lẫn máu rửa mồ tổ tiên 我 就 取来酿 成 喜酒 。 bên em. Sau cơn binh lửa, thương ơi, nạn búa rìu khó ngăn [8] Ví bằng em biến thành 勤劳美丽 的 姑娘啊! kim, Non sông ñất khách chỉ ñeo ñẳng mối tình này [9] Thì anh xe chỉ luồn kim Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao 你永 远 装 在 我 心 头 。 sớm chiều. Nằm ở cửa sổ thuyền trăn trở gối ñến sáng. [10] Trần Thị Thanh Liêm dịch 不管你变成什么? sát ý (1) CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN (Dịch thơ) 我都要把你追求。[11] Mười năm trôi dạt phận chòng chành *Dịch ý Nỗi nhớ quê nhà mãi quẩn quanh [1] Dịch bỏ từ ñại Muốn gửi mộng hồn nơi cố quận [2] Thêm bớt từ, thay ñổi từ Mong hòa huyết lệ mộ cha anh [3] Thay ñổi từ sạch lành Lửa binh rìu búa nào xong tội [4] Thay ñổi từ trong quanh Non nước quê hương mãi vẹn tình [5] Dịch ñúng Lòng dạ bùi ngùi sao khó tả [6] Không lệ thuộc vào nguyên văn, dịch sáng tạo, thêm từ Xuôi thuyền trằn trọc suốt năm canh. [7] Thay ñổi từ ngọt   ngon Trần Thị Thanh Liêm dịch [8] Thêm từ 3. Dịch dân ca Trung Quốc từ tiếng Hán [9] Dịch ñúng sang tiếng Việt [10] Dịch thoát ý và thêm bớt từ Thơ lục bát dài nhất, hay nhất và lưu truyền rộng rãi nhất trong dân gian là Truyện Kiều. Có [11] Mượn ca dao Việt Nam ñể dịch rất nhiều bài dân ca bằng tiếng Hán rất hay ñã MÃI MÃI BÊN EM (Dịch thơ) ñược dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát. Sau ñây chúng tôi xin dịch một bài dân ca Trung Quốc Nếu em là tán cây xanh, ra thể thơ lục bát Việt Nam: Anh thành mây biếc lượn quanh bềnh bồng. 你永远装在我心头* 你永远装在我心头* MÃI MÃI BÊN Nếu em là suối nước trong, EM* (Dịch thơ) 133
  13. Ti
  14. u ban 1: Đào to chuyên ng Anh làm cá lội cho lòng xốn xang. 听说长城万里长,首连 Thinh thuyết Trường Nếu em là cây trúc vàng, 东海尾西疆。 Thành Vạn Lý 千百万劳动者,建筑斯 Trường, Anh làm sáo ñể hồn nàng ñắm say. 城镇方。 Đầu liên Đông Hải vĩ Nếu em là dứa chín cây, Tây Cương. Anh hái ủ rượu ñợi ngày sánh ñôi. Kỷ thiên bách vạn lao ñộng giả, Hỡi em ñẹp nết ñẹp người, Kiến trúc tư thành trấn Trong tim anh ñó, trọn ñời có em. nhất phương. Em là gì cũng ñừng quên, Vịnh Vạn Lý Trường Thành4 (Dịch thơ) Nghe mãi Trường thành vạn dặm trường, Hồn anh mãi mãi theo liền bên em. Chạy từ Đông Hải ñến Tây Cương. Trần Thị Thanh Liêm dịch thoát ý (2) Hàng bao nhiêu triệu người lao ñộng, Việc dịch một văn bản, một tác phẩm văn xuôi Xây ñắp thành riêng trấn một phương. từ một thứ tiếng này sang một thứ tiếng kia là ñiều rất khó, dịch thơ lại càng khó hơn. Có ý kiến cho Như ñã ñề cập ở trên, cơ sở của việc dịch là 4 rằng chỉ cần dựa vào từ ñiển song ngữ là có thể hiểu. Người dịch phải hiểu ñược nguyên bản, rồi dịch ñược, nhưng trên thực tế tìm ñược từ ngữ hay, từ ñó chuyển dịch sao cho người ñọc, người nghe cách dịch phù hợp là không dễ. Nhiều khi, nhiều cũng hiểu ñược nội dung mà mình ñã dịch. chỗ người dịch rất vất vả tìm cách dịch cho sát ý Nguyên bản và bản dịch về cơ bản phải phù hợp, nhưng cuối cùng phải dịch theo lối giải thích, dịch không mâu thuẫn. Nếu không như thế, thì sẽ rơi ý hoặc dịch âm Hán Việt. Có câu phải thêm hay vào tình trạng không hiểu ñược nguyên bản, dẫn bớt ñi một vài từ ñể cho câu khỏi trùng lặp, rườm ñến dịch nhầm, lạm dịch, dịch một cách gượng ép, rà, nhưng vẫn hết sức tôn trọng ý của tác giả. Tuy thậm chí dịch sai. có chỗ không dịch ñúng từng từ, không lệ thuộc Trên thực tế, hiểu là một quá trình rất phức tạp vào nguyên văn, nhưng lại lột tả ñược cái thần của và tinh tế. Người dịch phải nắm vững ñược nội nguyên bản, bản dịch bài dân ca trên ñây là một ví dụ. dung của nguyên bản, hiểu ñược ý ñồ và tình cảm III. Dịch thơ của Bác Hồ của tác giả, hơn nữa cũng phải hiểu ñược hoàn 1) Dịch thơ chúc tết của Bác Hồ từ tiếng Việt cảnh xã hội và nền văn hóa ở nơi mà tác giả sáng ra thơ thất ngôn tứ tuyệt tiếng Hán: tác. Bởi ñằng sau ngôn ngữ hàm chứa một nội Xuân về xin có một bài ca, 春回大地谱新歌, dung vô cùng phong phú, người dịch cần cân nhắc, Gửi chúc ñồng bào cả nước ta. 谨向人民表祝贺。 lựa chọn rồi sau ñó xác ñịnh cách dịch nguyên bản ở trên nhiều góc ñộ (như nghĩa ñen, nghĩa bóng, Chống Mỹ hai miền ñều 南北抗美打得好, nghĩa rộng, nghĩa hẹp, nghĩa cụ thể, nghĩa trừu ñánh giỏi, 捷报频传赛花多。 tượng, nghĩa tốt, nghĩa xấu, tính dân tộc, tính văn Tin mừng thắng trận nở như hóa,...). Làm ñược như vậy sẽ tránh ñược những hoa. Chủ tịch Hồ Chí Minh - 胡志明主席 - 1967 cái sai và từ ñó công việc dịch thuật cũng sẽ trở 1967 年 nên thuận lợi hơn, dễ dàng hơn. 2) Dịch thơ thất ngôn tứ tuyệt - thơ vịnh Vạn Lý Trường Thành của Bác Hồ từ tiếng 4 Bài thơ này Bác Hồ làm vào ñầu tháng 7 năm 1955. Hán ra tiếng Việt: Ngày 2 tháng 6 năm ấy Bác dẫn ñầu Đoàn ñại biểu Đảng 咏万里长城 Vịnh Vạn Lý Trường Lao ñộng Việt Nam lần ñầu tiên chính thức sang thăm Trung Quốc. Ngày 6 tháng 7 Bác ñã tham quan Vạn Lý Thành (Âm Hán Việt) Trường Thành. Trên ñường về Việt Nam, ngồi trên tàu hỏa Bác ñã sang tác bài thơ này bằng chữ Hán (Trích trong thơ Hồ chủ tịch, NXB Văn học HN 1967). 134
  15. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 IV. Kết luận 4. Trần Thị Thanh Liêm. Một số ý kiến về việc hiểu ñúng và dịch ñúng. Nội san ngoại ngữ - ĐHNN Hà Nội. 1998. Chúng tôi xin mượn ý của một dịch giả nổi 5. Trần Thị Thanh Liêm. Giáo trình Tiếng Hán hiện tiếng - Thúy Toàn làm phần kết cho bài viết này: ñại (5 tập). NXB ĐHQG. 1998 – 2002 (biên dịch). Dịch là một nghệ thuật. Người dịch trước hết phải 6. Trần Thị Thanh Liêm (chủ biên). Kinh ñiển văn hóa ñi tìm cái ñẹp. Cũng giống như người sáng tác ñi 5000 năm Trung Hoa (4 tập). NXB Văn hóa thông tin, tìm cái ñẹp ở cuộc ñời ñể tạo nên tác phẩm, người 2002 (biên dịch). dịch tìm cái ñẹp trong tác phẩm ñã sẵn có của 7. Trần Thanh Liêm – Nguyễn Bích Hằng – Vũ Thị Thủy. Từ ñiển ñồng nghĩa trái nghĩa tiếng Hán. NXB ngôn ngữ nào ñó, tái tạo ra bản dịch, tức là làm ra Văn hóa thông tin. 2003. một tác phẩm mới ở một ngôn ngữ mẹ ñẻ hoặc 8. Trần Thị Thanh Liêm. Sắc thái Văn hóa trong giao một ngôn ngữ thứ hai. Cái ñẹp trong cuộc ñời có tiếp phiên dịch, giảng dạy và học ngoại ngữ. Tạp chí Ngoại ngữ. ĐHNN – ĐHQGHN. Đặc san 1 (2000). thành tác phẩm văn chương hay không phải nhờ tài của người cầm bút sang tác. Cái ñẹp tìm thấy ở 9. Trần Thị Thanh Liêm (Chủ biên). Giáo trình Hán ngữ (6 tập). NXB ĐHSP, 2004 (biên dịch). tác phẩm ñã có sẵn có trở thành cái ñẹp trong bản 10. Trần Thanh Liêm – Nguyễn Bích Hằng. Từ ñiển dịch hay không lại phải nhờ vào cái tài của người thành ngữ tục ngữ Hán Việt. NXB Văn hóa thông tin. 2003. dịch. Ví người dịch như người thợ kim hoàn biến 11. Trần Thị Thanh Liêm. Từ ñiển Hán – Việt hiện ñá quặng thành ñồ trang sức lộng lẫy? Công việc ñại. NXB Khoa học Xã hội. 2007. dịch có khi còn khó hơn kia - ở ñây là công việc 12. Lạc Nam. Tìm hiểu các thể thơ – Từ thơ cổ phong tái tạo một tác phẩm ñã có sẵn thành tác phẩm kiến ñến thơ luật. NXB Văn học.2006. bằng một chất liệu khác hơn. Ví người dịch như 13. Lê Quang Thiêm. Nghiên cứu ñối chiếu các ngôn ngữ. NXB Đại học Giáo dục chuyên nghiệp.1989. người diễn viên thể hiện vai diễn viết trong kịch 14. Trần Thị Thanh Liêm. Luyện dịch Hán Việt – bản có lẽ là sát hơn chăng? Việt Hán. NXB Thời ñại. 2006 TÀI LIỆU THAM KHẢO 15. Trần Thị Thanh Liêm – Hoàng Trà. Rèn luyện kỹ năng dịch thuật Hoa Việt – Việt Hoa. NXB Văn hóa 1. Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành thông tin. 2007. cách ñọc Hán – Việt. NXB Đại học Quốc gia. 1979. 16. Trần Thị Thanh Liêm – Trần Hoài Thu. Luyện dịch 2. Trần Thanh Liêm. Vài ý kiến về việc học dịch tiếng Hoa Việt – Việt Hoa. NXB Văn hóa thông tin. 2008. Hán. Tạp chí Khoa Tiếng Trung Quốc kỷ niệm 40 năm thành lập Trường ĐHNN Hà Nội 1959 – 1999. 17. Hoài Yên. Học nhanh Luật thơ Đường. NXB Văn hoá Dân tộc. 2004. 3. Trần Thị Thanh Liêm. Một vài ý kiến về việc dạy tiếng Hán cho người Việt (trang 58,59,60). Tạp chí 18. Kiều Thanh Quế. Kiều Thanh Quế với công việc Ngôn ngữ. Số 3 (1990). dịch thuật. http://lyluanvanhoc.com/?p=2606 135
nguon tai.lieu . vn