- Trang Chủ
- Lịch sử - Văn hoá
- Di dân, tái định cư và biến đổi văn hóa cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long - hướng lý thuyết áp dụng khi nghiên cứu
Xem mẫu
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
DI DÂN, TÁI ĐỊNH CƯ VÀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VẠN CHÀI HẠ LONG -
HƯỚNG LÝ THUYẾT ÁP DỤNG KHI NGHIÊN CỨU
ĐOÀN VĂN THẮNG
Tóm tắt
Di dân và tái định cư (TĐC) không đơn thuần là hoạt động dịch chuyển cư dân. Xét trên phương
diện chính sách, TĐC là một quá trình cần chú ý đến nhiều chiều cạnh, từ đảm bảo chỗ ở đến các vấn
đề an sinh xã hội, vấn đề hỗ trợ việc làm và những thay đổi trong lối sống của một cộng đồng do những
tác động mà chính sách đưa tới. Đối với cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, TĐC là một bước chuyển
trong tiến trình lịch sử văn hóa cộng đồng, từ quá trình hình thành, phát triển, tồn tại và hiện nay đang
đối diện với những thách thức của sự thay đổi, thậm chí là tan rã cộng đồng. Để nghiên cứu quá trình
biến đổi văn hóa của cộng đồng này, chúng tôi đưa ra một số vấn đề lý luận và lý thuyết áp dụng khi
nghiên cứu, bao gồm những bàn luận về di dân và tái định cư, thuyết Sinh thái học văn hóa và bối cảnh
đô thị hóa.
Từ khóa: Di dân, tái định cư, biến đổi văn hóa, ngư dân, Hạ Long
Abstract
Migration and resettlement are not simply relocation activities. Seen from perspective of policy,
resettlement is a process that needs attention in a number of dimensions, from ensuring housing to
social security issues, employment support issues and changes in the lifestyle of a community due to
the impacts that policy brings. For the community of fishermen in Ha Long, resettlement is a transform
step in the process of community cultural history, from the process of formation, development, survival
and is now facing with the challenge of changes, even disintegrate the community. In order to study the
cultural transformation of this community, we present some theoretical to be dealt with in the study,
including discussions on migration and resettlement, cultural ecological theory and urbanization
context.
Keywords: Migration, resettlement, cultural change, fishermen, Ha Long
Đặt vấn đề như xuất phát từ những lực đẩy - lực hút khi
D
i dân và tái định cư (TĐC) là một so sánh tương quan nông thôn - đô thị. Di dân,
hiện tượng kinh tế - xã hội trong đặc biệt là di dân có tổ chức thường gắn với
lịch sử loài người mà động lực việc thay đổi không gian sống, các điều kiện
của nó bắt nguồn từ những thay đổi của môi thực hành sinh kế, văn hóa của cộng đồng
trường sống, sự chênh lệch về trình độ phát người chuyển cư. Việc di dân (dù là di dân tự
triển giữa các vùng, miền. Hiện tượng này diễn do hay di dân “cưỡng bức”) tạo ra sự tương
ra mạnh mẽ ở Việt Nam trong những năm gần tác giữa cộng đồng người di cư và môi trường
đây do những tác động từ chính sách cũng sống mới, tương tác giữa các giá trị văn hóa
58 Số 23 - Tháng 3 - 2018
- BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
giữa cộng đồng di dân với môi trường xã hội 1. Vấn đề di dân và tái định cư
tại nơi đến. Từ đó đưa đến những tiếp xúc Khái niệm di dân
và giao lưu văn hóa, cùng với quá trình thích
Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội
nghi với môi trường tự nhiên, môi trường xã
mang tính quy luật, một cấu thành gắn với sự
hội, đưa đến những biến đổi các thực hành
phát triển (1, tr.13), một hiện tượng nhân khẩu
văn hóa và quan niệm về giá trị, chuẩn mực và
học chịu tác động tổng hòa của nhiều yếu tố
các khuôn mẫu văn hóa của cộng đồng. Mặt
khác nhau như tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính
khác, quá trình này cũng làm nảy sinh nhiều
trị, tôn giáo, tâm lý...(10, tr.63). Hiện tượng này
vấn đề, trong đó là sự hội nhập của người di
tạo ra những tác động tới sự phân bố dân cư,
cư trong môi trường sống mới, yêu cầu phân
phân bố lại lao động và các vấn đề kinh tế, văn
tích vai trò, vị thế cũng như những khó khăn
hóa, xã hội. Bởi vậy, đây là một chủ đề được
mà người di cư gặp phải trong quá trình thích
ứng với môi trường đang hàng ngày thay đổi quan tâm nghiên cứu và chú trọng trong
cuộc sống của họ. hoạch định chính sách, đưa đến việc có nhiều
cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau.
Thời gian gần đây, có một dự án di dân và
TĐC được báo chí cũng như các nhà nghiên Theo nhà nghiên cứu Đặng Nguyên Anh,
cứu quan tâm bởi sự nổi tiếng của cộng đồng di dân theo nghĩa rộng là “sự chuyển dịch bất
di dân cũng như sự nổi tiếng của môi trường kỳ của con người trong không gian và thời
sinh thái mà cộng đồng này sinh sống. Đó là gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú
cộng đồng ngư dân vạn chài vịnh Hạ Long. tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này, di
Cộng đồng này đã có một quá trình sinh sống dân đồng nhất với sự di động dân cư”; di dân
lâu dài trong môi trường sinh thái vịnh Hạ theo nghĩa hẹp là “sự di chuyển dân cư từ một
Long. Các giá trị văn hóa cùng tổ chức xã hội đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ
của cộng đồng đã được hình thành và phát khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một
triển để thích ứng với điều kiện tự nhiên, xã khoảng thời gian nhất định. Khái niệm này
hội, kinh tế đặc thù này. Hiện nay, ngư dân đã khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển và
phải rời bỏ môi trường sống của mình để đảm thiết lập nơi cư trú mới” (1, tr.36).
bảo cho sự bền vững của di sản Vịnh Hạ Long, Nhà nghiên cứu Hoàng Văn Chức cũng đưa
kì quan thiên nhiên thế giới của Việt Nam khi ra các cách hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp
chính quyền thực hiện “Đề án di dời nhà bè của thuật ngữ “di dân”. Theo đó, với nghĩa rộng:
trên vịnh Hạ Long”. Được thụ hưởng một số di dân được hiểu là sự chuyển động cơ học của
quyền lợi nhưng việc bị tách ra khỏi không dân cư. Như vậy, bất cứ sự chuyển động nào
gian sống quen thuộc đã tạo ra những hệ quả của con người trong không gian gắn với sự
về mặt văn hóa – xã hội bắt nguồn từ việc thay thay đổi theo vị trí lãnh thổ cũng được coi là
đổi không gian sống và sinh kế của cộng đồng. di dân. Theo nghĩa hẹp: Di dân được hiểu là sự
Điều này thôi thúc cần có những nghiên cứu chuyển dịch của dân cư theo lãnh thổ, sự phân
khoa học nhằm đánh giá hiệu quả, hệ quả của bố lại dân cư. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự
chính sách để có những điều chỉnh và hỗ trợ
chuyển dịch nào của dân cư cũng là di dân, mà
cộng đồng ngư dân kịp thời trong việc ổn định
di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên
cuộc sống, đảm bảo sinh kế bền vững và hội
giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính
nhập văn hóa với cộng đồng dân cư đô thị ở
mà họ đang cư trú, gắn với việc thay đổi chỗ ở
trên bờ. Hơn nữa, những nghiên cứu thuộc
của họ (2, tr.9).
dạng này cũng góp phần bổ sung những luận
cứ từ thực tiễn, làm sáng tỏ những lý thuyết về Còn theo Nguyễn Đình Hòe, di cư ( hay di
di dân, biến đổi văn hóa. dân) là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh viễn. Đối với
Số 23 - Tháng 3 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
59
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư Nếu xét tiêu chí về tính chất, có thể chia
(out – migrant) còn nơi đến gọi họ là dân nhập thành di dân tự nguyện và di dân ép buộc.
cư (in – migrant). Tác giả cũng khẳng định Ngoài ra, xét theo tiêu chí thời gian, di dân có
rằng, di dân là một quá trình khách quan, gây thể được phân chia thành các bộ phận sau: Di
biến động lớn về xã hội và tác động đáng kể dân “con lắc; Di dân tạm thời; Di dân theo mùa
đến tài nguyên và môi trường, đặc biệt là nơi vụ; Di dân lâu dài.
tiếp nhận người di cư (4, tr.17). Dựa vào các tiêu chí về di dân nêu trên, có
Nhìn chung, di dân gắn với việc con người thể sắp xếp việc di dân của các nhóm, cộng
chuyển khỏi nơi cư trú thường xuyên đến một đồng thuộc vào các loại hình khác nhau để
nơi xác định với một khoảng cách giữa hai phân tích tính chất, mức độ của việc di dân
không gian gọi là độ dài di chuyển và phải thay cũng như các biến tác động tới sinh kế và văn
đổi nơi cư trú, thiết lập nơi cư trú mới. Dấu hiệu hóa của họ. Với cộng đồng ngư dân vạn chài
rõ ràng nhất của di dân là sự dịch chuyển dân Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, họ phải rời bỏ môi
số: làm tăng dân số cơ học ở nơi đến và làm trường sống của mình (ngư dân dịch chuyển lên
giảm dân số cơ học ở nơi đi. Cũng cần chú ý bờ từ 30/6/2014) để đảm bảo cho sự bền vững
đến vấn đề thời gian của di dân. Tùy theo từng của di sản Vịnh Hạ Long, kì quan thiên nhiên
loại hình di dân mà thời gian có thể là vài tuần, thế giới của Việt Nam bằng “Đề án di dời nhà bè
vài tháng thậm chí là vĩnh viễn. Ngoài ra có trên vịnh Hạ Long” của chính quyền tỉnh Quảng
thể nhận biết di dân qua một đặc điểm nữa đó Ninh. Nếu xét các tiêu chí về di dân nêu trên,
là sự di chuyển nơi ở và thay đổi nơi làm việc, có thể gắn di dân của cộng đồng này với loại
nghề nghiệp, các hoạt động sinh sống hằng hình: di dân có tổ chức bởi chính sách tổ chức
ngày và thay đổi các mối quan hệ xã hội. lại không gian dân cư theo hướng nông thôn
(cụ thể là dân cư từ các làng chài) – đô thị (khu
Hiện tượng di dân xuất phát từ những lực
TĐC nằm trong không gian đô thị Hạ Long),
đẩy từ vùng gốc nơi đang sinh sống khiến cư
mang tính chất “cưỡng bức” và là di dân lâu dài,
dân phải chuyển cư, từ lực hút bởi sự hấp dẫn
thậm chí là di dân vĩnh viễn. Như vậy, ngư dân
của nơi đến hoặc do cả hai yếu tố này. Tuy vậy,
phải chuyển đổi không gian sống và rời bỏ nơi
có trường hợp thuần túy chỉ từ lực đẩy tại nơi đi,
cư trú đã gắn bó hàng trăm năm, nơi đã biến
đó là những cuộc di dân có yếu tố “cưỡng bức”,
thành quê hương, là môi trường sinh thái mà
chẳng hạn như từ chính sách của chính quyền
ngư dân tương tác, qua đó tạo nên những giá
như trường hợp di dân khỏi lòng hồ thủy điện.
trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo của mình. Do đó,
Về phân loại loại hình di dân, có thể dựa tính chất của việc di dân này sẽ khác với các loại
vào các tiêu chí khác nhau, tùy mục đích và hình di dân tạm thời, di dân tự do. Về cơ bản,
hướng tiếp cận của nhà nghiên cứu hoặc nhà việc đưa ngư dân lên bờ sẽ giúp cho những nhà
hoạch định chính sách. Nguyễn Anh Tuấn (6, quản lý dễ dàng kiểm soát về dân số cũng như
tr.65-66) trong bài nghiên cứu của mình đã tập môi trường Vịnh Hạ Long, hơn là việc đầu tư cơ
hợp các cách phân loại di dân như sau: sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật để đảm bảo xử
Xét theo tiêu chí tổ chức, di dân có hai loại: lý tốt rác thải từ sinh hoạt của ngư dân.
Di dân có tổ chức và di dân tự do. Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội
Nếu xét theo không gian, có thể chia di dân TĐC là việc thiết lập một chỗ ở mới cho một
thành các loại hình: Di dân nông thôn – nông cộng đồng đã di cư khỏi nơi cư trú trước đây
thôn; Di dân nông thôn – đô thị; Di dân đô thị - của họ. Đối với cộng đồng du cư, có thuật ngữ
đô thị; Di dân đô thị - nông thôn. Trong đó phổ “định cư” để chỉ việc cộng đồng này lập cư tại
biến là loại hình Di dân nông thôn - đô thị. một địa điểm xác định.
60 Số 23 - Tháng 3 - 2018
- BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
Theo Nguyễn Đình Hòe, TĐC cũng là một trường sống, dễ dàng điều chỉnh mọi sự cố
đặc thù của quá trình dân cư trong lịch sử bất thường, thì đến vùng đất mới, điều đó họ
nhân loại. Hiện tượng này giúp xã hội sử dụng hoàn toàn không thể sớm có được. Kiến thức
được nguồn tài nguyên đa dạng của trái đất, về nơi ở mới của người di dân luôn gặp phải
làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi nhiều thử thách, trải nghiệm lâu dài mới có thể
động quá trình văn minh trên cơ sở hội nhập nhận biết được những điểm thuận lợi, bất lợi.
các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài Sự lúng túng, hoang mang tại nơi ở mới trong
nguyên. Nhưng TĐC cũng đưa đến những thất giai đoạn đầu là điều dễ hiểu” (3, tr.16).
bại, gây ra những hậu quả về phương diện Một vấn đề cần quan tâm là sự phai nhạt
xã hội và môi trường nếu thiếu cân nhắc mối các giá trị văn hóa làm nên bản sắc của cộng
quan hệ giữa động lực dân cư và môi trường đồng chuyển cư và quá trình biến đổi văn hóa.
cư trú. Đòi hỏi phải có sự quy hoạch hợp lý, Hay nói cách khác, đó là sự tan rã và biến mất
xử lý tốt mối quan hệ sinh thái học và khai cộng đồng về mặt văn hóa. Hiện tượng này
thác hợp lý tài nguyên môi trường (4, tr.29).
không hiếm trong các dự án TĐC như trường
Về phương diện văn hóa, TĐC cũng đặt ra các
hợp người Thái sau TĐC thủy điện Sơn La,
vấn đề trong khả năng hội nhập về văn hóa,
người Katu sau TĐC thủy điện A Vương (Quảng
phong tục tập quán giữa cộng đồng nhập cư
Nam)(5)(3)... Nguyên nhân chính theo các
và cộng đồng địa phương. Thậm chí, các dự án
phân tích là sự thay đổi môi trường sống và các
TĐC có nhiều khả năng sẽ thất bại nếu người
điều kiện, phương thức sản xuất và sự cộng cư
nhập cư không có những kinh nghiệm để
xen kẽ với cộng đồng bản địa. Các thực hành
thích ứng với môi trường sinh thái tại khu TĐC,
văn hóa và sinh kế được sáng tạo trong mối
không có các kỹ thuật và hoạt động canh tác
tương tác giữa con người và môi trường được
tương tự và không có các kinh nghiệm quản lý
tích lũy qua hàng trăm năm sẽ phải biến dạng
môi trường cũng như lối sống phù hợp ở môi
bởi cần một quá trình thích ứng dần với bối
trường mới (4, tr.34). Khu vực TĐC hiếm trường
cảnh sống mới. Cũng cần chú ý đến những
hợp có điều kiện sinh thái giống quê hương
nhóm tuổi khác nhau trong cộng đồng di dân.
của người chuyển cư, do đó cần hướng dẫn, có
Người già thường thiệt thòi và khó hòa nhập
các cơ chế, chính sách hỗ trợ người chuyển cư
vào môi trường mới bởi họ đã tích lũy kinh
trong việc sử dụng tài nguyên, môi trường của
nghiệm để thích ứng với môi trường sống cũ
nơi ở mới và hội nhập văn hóa với môi trường
một cách sâu sắc.
văn hóa – xã hội xung quanh. Đồng thời, cũng
cần có những hình thức tuyên truyền, vận Ở một khía cạnh khác, vấn đề đảm bảo sinh
động, hướng dẫn cộng đồng địa phương biết kế sau TĐC cũng cần được quan tâm nhằm tạo
cách ứng xử, không định kiến, tôn trọng và ra được những điều kiện về mặt vật chất để
hòa nhập với văn hóa của cộng đồng định cư. làm cơ sở đảm bảo cho sự ổn định của cộng
Khi thực hiện dự án TĐC, ngoài việc đánh đồng di cư.
giá chi phí cho di dân và xây dựng khu TĐC, Sinh kế là các hoạt động, các công việc giúp
“ngoài những chi phí và hoàn bị nơi đến, điều tạo ra tiền bạc, vật chất để duy trì cuộc sống.
quan trọng là đo lường, dự báo và có phương Theo từ điển tiếng Việt, sinh kế là cách thức, kế
án phù hợp, cái giá phải trả về mặt tinh thần, sách thực hiện kiếm sống. Trong tiếng Anh, từ
sự cắt rời các mối quan hệ, thói quen, tập livelihood (sinh kế) được định nghĩa “a means
quán có khả năng tạo nên những cú sốc văn of earning money in order to live (phương
hóa khi phải rời bỏ quê cũ”. “Con người sống tiện, cách thức kiếm tiền để sống)” (Oxford
trong không gian quen thuộc, họ có tức thì Advanced Learner’s Dictionary). Theo định
và thường xuyên sự hiểu biết gắn với môi nghĩa của DFID (Department for International
Số 23 - Tháng 3 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
61
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Development – Bộ Phát triển Quốc tế Anh), Về cơ bản, khung phân tích sinh kế bền
“sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản vững gồm 5 điểm chính: Bối cảnh dễ bị tổn
(bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) thương; Nguồn vốn sinh kế; Chính sách, tiến
và các hoạt động cần thiết để kiếm sống”. Dù trình và cơ cấu; Các chiến lược sinh kế; Kết quả
hiểu thế nào thì khái niệm sinh kế cũng đều có sinh kế. Mô hình sau đây sẽ cụ thể hóa khung
mẫu chung là “kiếm sống”, tức là phương tiện phân tích này:
để đảm bảo, duy trì cho cuộc
sống con người.
Để nghiên cứu sinh kế,
các học giả thường sử dụng
khung phân tích sinh kế bền
vững bởi lý thuyết này được
đánh giá là “một cách phân
tích toàn diện về phát triển
và giảm nghèo. Cách tiếp cận
này giúp chúng ta hiểu được
việc con người sử dụng các loại vốn mình có Nguồn: DFID (2001)
để kiếm sống, thoát nghèo, hay tránh bị rơi Trong đó:
vào đói nghèo như thế nào, vì nó không chỉ
Vốn sinh kế (capital) là những năng lực vật
minh họa các chiến lược tìm kiếm thu nhập,
chất và phi vật chất mà con người có được để
mà nó còn phân tích và lý giải về việc tiếp cận,
đảm bảo cho hoạt động sinh kế. Theo khung
sử dụng và phân phối các nguồn lực mà các cá
phân tích sinh kế bền vững, vốn này gồm 5
thể và hộ gia đình sử dụng để biến các nguồn
loại: vốn nhân lực, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn
lực đó thành sinh kế” (8,tr.10). Sinh kế bền
tự nhiên và vốn tài chính. Như vậy, vốn vừa là
vững có thể được hiểu như sau: “Một sinh kế
cái hữu hình, cụ thể, cũng vừa là những thứ vô
sẽ phải tùy thuộc vào khả năng và của cải (cả
hình như năng lực của con người. Trong đó:
nguồn lực vật chất và xã hội) và những hoạt
động mà tất cả là cần thiết để mưu sinh. Sinh - Vốn nhân lực (Human capital) là những kĩ
kế của một người hoặc của một gia đình chỉ năng, kiến thức, sức khỏe và những năng lực
có thể là bền vững khi họ có thể đương đầu của con ngươi giúp họ có thể theo đuổi chiến
và phục hồi trước những căng thẳng và biến lược sinh kế. Có thể hiểu nguồn vốn này trên
khía cạnh chất lượng nguồn lao động.
động, và tồn tục được hoặc nâng cao thêm các
khả năng và của cải của mình hiện này và của - Vốn xã hội (Social capital) thường được
cả trong tương lai mà không làm tổn hại đến hiểu là những mối quan hệ xã hội, các mạng
các nguồn lực môi trường” (12, tr.104). Như lưới, các nhóm tạo điều kiện cho người dân
vậy, yếu tố bền vững liên quan đến khả năng có thể theo đuổi sinh kế và đảm bảo lợi ích
đương đầu trước khủng hoảng và phục hồi của mình.
sau khủng hoảng. Bởi cuộc sống có nhiều bối - Vốn vật chất (Physical capital) bao gồm
cảnh dễ tổn thương như thiên tai, mất mùa, cơ sở hạ tầng, hàng hóa sản xuất để bổ trợ
dịch bệnh, thậm chí là một căn bệnh hiểm sinh kế.
nghèo xuất hiện cũng tác động mạnh mẽ đến - Vốn tự nhiên (natural capital) nhắc đến
kinh tế của cá nhân, gia đình, do đó, sinh kế các nguồn tài nguyên như đất đai, nước, các
không chỉ là việc lo những vấn đề trước mắt loại khoáng sản,… nói chung là các yếu tố từ
mà còn phải tạo tích lũy, làm công cụ bảo đảm tự nhiên có khả năng phục vụ cho các hoạt
cho cuộc sống. động và khả năng sinh kế.
62 Số 23 - Tháng 3 - 2018
- BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
- Vốn tài chính (Financial capital) bao gồm trọng để đánh giá việc thực hiện sinh kế bền
các nguồn tài chính có sẵn để con người tiếp vững, nó cho thấy những thay đổi, những điều
tục hoạt động sinh kế, bao gồm khoản tiền dự mà các tổ chức, cá nhân và cộng đồng thực
trữ hiện tại, khoản tiết kiệm hay khả năng huy hiện sinh kế mong muốn đạt được.
động, tiếp cận các nguồn tín dụng từ người Một yếu tố quan trọng nữa của khung sinh
thân, bạn bè, các tổ chức tín dụng. kế chính là bối cảnh dễ bị tổn thương. Đây là
Với mỗi chiến lược sinh kế khác nhau, các những nhân tố có thể coi là khách quan, nằm
nguồn vốn có vai trò khác nhau. Ví dụ đối với ngoài và hầu như không thể điều chỉnh được
nông nghiệp thì nguồn vốn đất đai là yếu tố trong ngắn hạn. Có thể đó là những chấn động
quan trọng bậc nhất. Việc thu hồi đất nông thời vụ, một cơn thiên tai hay cú sốc từ thị
nghiệp do đó đã gây ra những tác động mạnh trường tài chính khiến sản phẩm mất giá.
mẽ đến sinh kế và cuộc sống nông dân. Tuy Khung phân tích này sẽ được sử dụng khi
nhiên, đối với một cộng đồng làm nghề chài đánh giá các nguồn vốn sinh kế của cộng
lưới, nguồn vốn tự nhiên mà cụ thể ở đây là trữ đồng ngư dân vạn chài Hạ Long trên đất liền
lượng thủy hải sản, khả năng phục hồi của các nhằm đánh giá hiệu quả của chính sách TĐC
loài cá, tôm lại là một nguồn vốn quan trọng. trong thời điểm nghiên cứu.
Tuy vậy, thậm chí một vùng đất nông nghiệp, 2. Lý thuyết nghiên cứu biến đổi văn hóa
nơi mà người nông dân có thể mở rộng đất đai
2.1. Thuyết Sinh thái học văn hóa
và đàn gia súc cũng vẫn dễ bị tổn thương do
nhiều yếu tố khác như việc thiếu cơ sở hạ tầng Những năm 60 của thế kỉ XX, Julian Steward
và các dịch vụ xã hội. Theo nhiều nghiên cứu, đã khởi xướng phương pháp tiếp cận biến đổi
nguồn vốn nhân lực lại là một yếu tố đóng vai văn hóa quan trọng khác trong nhân học Bắc
trò quan trọng trong việc xóa bỏ vòng luẩn Mỹ là vấn đề sinh thái học văn hóa. Lý thuyết
quẩn do nghèo đói gây ra. Một số nghiên cứu này có khái niệm trung tâm là “sự thích ứng”
thì chỉ ra tầm quan trọng của mạng lưới xã hội, (adaptation). Đó là sự thích ứng với môi trường
các mối quan hệ xã hội trong việc cộng đồng tự nhiên để sáng tạo ra văn hóa. Hay nói cách
khác, môi trường tự nhiên đặc thù là cơ sở cho
thực hiện chiến lược sinh kế và duy trì khả
việc hình thành các mô hình văn hóa khác
năng sinh kế của mình. Do đó, cần có những
nhau (7, tr.23).
sự nghiên cứu cụ thể để đánh giá tầm quan
trọng của các loại vốn. Thuyết sinh thái văn hóa nghiên cứu mối
quan hệ giữa một xã hội nhất định và môi
Nguồn vốn sinh kế không bất biến, nó
trường tự nhiên của nó cũng như hình thức
có thể thay đổi theo xu hướng tăng lên hoặc
cuộc sống (life – form) và hệ sinh thái. Điều
giảm đi trong tương lai.
này có thể là ở lịch đại (nghiên cứu các thực
Các tiến trình và cấu trúc (Structure and thể qua các kỉ nguyên) và đồng đại (kiểm tra
processes) là khái niệm chỉ yếu tố thể chế, hệ thống hiện tại và các thành phần của nó).
chính sách, luật pháp, có khả năng ảnh hưởng Lý lẽ trung tâm của thuyết này là môi trường
đến cách tiếp cận nguồn vốn, điều kiện trao tự nhiên, trong một hệ thống nhỏ hoặc sinh
đổi của các nguồn vốn và các chiến lược sinh kế xã hội dựa vào một phần trên nó, là yếu tố
kế khác nhau. Do đó nó có thể thúc đẩy hoặc chính tác động tới tổ chức xã hội và các thể
hạn chế đến các chiến lược sinh kế. chế khác của loài người (14). Julian Steward
Chiến lược sinh kế là các mục tiêu và lựa (1902 - 1972) là người đầu tiên tạo ra khái
chọn của cộng đồng nhằm thực hiện sinh kế niệm “Cultural Ecological”. Trong “Lý thuyết về
một cách hiệu quả nhất từ các nguồn vốn hiện biến đổi văn hóa – Phương pháp luận về tiến
có, còn kết quả của sinh kế là tiêu chí quan hóa đa tuyến” (Theory of Cuture Change – The
Số 23 - Tháng 3 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
63
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Methodology of Multilinear Evolution, 1955), Áp dụng sinh thái văn hóa vào nghiên cứu,
sinh thái học văn hóa (Cultural ecological) theo J. Steward, các bước để nghiên cứu văn
được định nghĩa: “là con đường mà văn hóa hóa theo lý thuyết này bao gồm:
thay đổi có nguyên nhân bởi sự thích ứng với - Chứng minh được các kỹ thuật và phương
môi trường”. Đó là một sự khẳng định rằng môi pháp được dùng để khai thác môi trường và
trường vật lý và sinh học ảnh hưởng tới văn sống trong môi trường đó.
hóa. Điều này đã từng gây ra tranh cãi, bởi vì
- Xem xét những mô thức ứng xử văn hóa
nó bao hàm cả yếu tố của quyết định luận môi
của con người liên quan đến việc sử dụng
trường trên tất cả hành động của con người,
môi trường.
với một vài vấn đề mà một số nhà xã hội học
đã tìm thấy, đặc biệt từ quan điểm của một số - Đánh giá sức tác động của những mô thức
nhà Marxist. Sinh thái học văn hóa công nhận kể trên đối với các bình diện khác của văn hóa.
rằng nền sinh thái địa phương có vai trò đáng Sinh thái học văn hóa của Steward tập
kể trong việc định hình nền văn hóa của nó. trung vào chứng minh con đường tiến hóa đa
Mặc dù môi trường là một nhân tố quan trọng hệ. Có một biến thể khác của sinh thái học
trong học thuyết nhưng Steward không phải văn hóa xuất hiện muộn hơn một chút với
là là người theo trường phái duy môi trường luận điểm dựa trên thuyết hệ thống, nhấn
(xem môi trường là nhân tố không thể thiếu). mạnh vào sự thích nghi của các mảng cụ thể
Và với việc tập trung nghiên cứu mối lên hệ của văn hóa trong việc tính ổn định của hệ
giữa con người - môi trường - văn hóa của thống và bảo vệ sinh thái địa phương. Điều
Juliant Steward, ông được công nhận là người này thể hiện rõ trong tác phẩm của Marvin
tiên phong và dẫn đầu trong việc nghiên cứu Harris và Roy Rapaport.
Sinh thái học văn hóa. Marvin Harris, nhà nhân học nổi tiếng của
Theo J. Steward, văn hóa là đa dạng và phát Mỹ trong tác phẩm “Sinh thái học văn hóa về bò
triển theo các cách khác nhau tùy thuộc vào thiêng ở Ấn Độ” đã từ quan điểm của lý thuyết
từng hoàn cảnh môi trường cụ thể của văn hóa này và những lập luận của duy vật văn hóa
đó. Các nền văn hóa giống nhau ở các vùng để hiểu được những tập tục, nghi lễ, những
địa lý khác nhau trên thế giới là do chúng đều điều cấm kị liên quan tới đàn bò ở Ấn Độ mà
được xây dựng và phát triển trong bối cảnh môi không dựa vào thuyết Ahimsa (cấm sát sinh
trường tự nhiên giống nhau. Trong các nghiên trong đạo Hindu) và coi bò là linh vật. Ông lý
cứu của mình, J. Steward hướng tới nghiên cứu giải hệ thống quản lý đàn bò của người dân Ấn
các cộng đồng biệt lập có những tương đồng Độ có thể nằm ở quá trình “thích nghi” với hệ
về văn hóa, xã hội như có cùng kiểu tổ chức bộ sinh thái mà những điều cấm kị, tập tục, nghi
tộc, chế độ tù trưởng hay đã có nhà nước hiện lễ là một phần của hệ thống này chứ không
đại để tránh ảnh hưởng của giao thoa văn hóa, phải do chịu ảnh hưởng của đạo Hindu. Quan
từ đó chứng minh những tác động của môi điểm này rõ ràng đã chịu ảnh hưởng của Sinh
trường tới văn hóa, hay văn hóa là sự thích ứng thái học văn hóa của J. Steward. Từ những lập
với môi trường tự nhiên. Nếu như trước đây, luận về đóng góp của đàn bò trên các mặt:
các nhà nhân học nghiên cứu động lực thúc 1.Sản xuất sữa, 2.Sức kéo, 3.Phân bò, 4.Bò và
đẩy phát văn hóa bằng nội lực tự thân, bên da bò, 5.Chăn thả, 6.Bò hữu dụng và bò vô
trong thì sinh thái văn hóa chuyển chú ý đến dụng, 7.Giết mổ bò, 8.Pháp chế hóa việc cấm
mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài; nó giết mổ bò, 9.Nhà dưỡng lão, 10.Chọn lọc tự
triển khai quan điểm cho rằng sự qua lại giữa nhiên, Harris cho rằng: có thể việc cấm giết mổ
văn hóa và môi trường như là xu thế chủ đạo bò đến từ những áp lực sinh thái chứ không
của quá trình tiến hóa (11). phải do thuyết ahimsa và tính thiêng của bò ở
64 Số 23 - Tháng 3 - 2018
- BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
Ấn Độ đã “bảo vệ mối liên hệ sống còn trong tâm nhiều hơn về vấn đề của sự gia tăng xung
chuỗi lương thực nông nghiệp”(11). đột tài nguyên và suy thoái môi trường, các
Rapaport với tác phẩm “Sự quy định nhà nhân học một mặt chỉ ra những hạn chế
nghi lễ của mối quan hệ giữa môi trường và của thuyết sinh thái văn hóa, một mặt bổ sung
người dân New Guinea” (Ritual Regulation of thêm yếu tố mới và cho ra đời thuyết sinh thái
Environmental Relations among a New Guinea chính trị. Thuyết này chú ý đến những phân
People) (1967) đã thể hiện quan điểm sinh thái tích về chính sách và những mâu thuẫn, xung
văn hóa của mình. Theo đó, nghi lễ Kaiko của đột giữa cơ quan nhà nước với các cộng đồng
người Maring đã giúp ngăn chặn sự xuống cấp địa phương và giữa chính các cơ quan nhà
của môi trường tự nhiên (13). Điều này cũng nước, các giai tầng xã hội ở nông thôn trong
tương tự như cách lập luận của Harris bởi cho cuộc tranh giành tự nhiên (7, tr.26-27).
thấy những thực hành văn hóa đến từ những Với việc phân tích mối liên hệ, tương tác
áp lực sinh thái. giữa văn hóa và môi trường, Sinh thái học văn
Bên cạnh đó, còn có nhiều phân tích khác hóa cung cấp cơ sở lý luận cho việc phân tích
theo quan điểm sinh thái học văn hóa. Robert những biến đổi văn hóa của ngư dân vạn chài
Netting, một nhà nhân học hiện đại ở nửa Hạ Long, bởi yếu tố thay đổi đột ngột, mạnh
cuối thế kỉ XX cũng đã áp dụng sinh thái văn mẽ nhất trong quá trình sinh sống tại khu TĐC
hóa vào nghiên cứu của mình để kiểm chứng chính là yếu tố môi trường sinh thái. Các thực
mối quan hệ giữa văn hóa và môi trường tự hành văn hóa và sinh kế tạo ra những quan
nhiên. Khi nghiên cứu người Koyfar ở Nigeria, niệm giá trị, lối sống và kinh nghiệm gắn với
ông nhận thấy nhóm người Koyfar ở vùng việc khai thác môi trường sinh thái vịnh hàng
đồi và vùng rừng thấp có thực hành văn hóa trăm năm qua của ngư dân đang phải thay đổi
khác nhau với biểu hiện về quy mô gia đình để thích ứng với điều kiện sống mới. Điều này
mở rộng của người Koyfar ở vùng thấp thích một mặt tạo ra tính chọn lọc và biến đổi, cùng
hợp hơn cho việc phát triển mùa vụ theo tính với đó là du nhập những cách thực hành mới
thương mại. Khi nghiên cứu các tộc người ở để hòa nhập, thích ứng. Tiếp cận biến đổi văn
Trung Đông, Đông Nam Á, châu Phi, ông cũng hóa trên cơ sở thay đổi môi trường sống và sự
chứng minh mô hình canh tác nhỏ của các
thay đổi sinh kế là cách mà chúng tôi thực hiện
tộc người nơi đây thích hợp với môi trường tự
để lý giải những chuyển đổi của cộng đồng
nhiên, cho hiệu quả và giảm thiểu rủi ro hơn so
ngư dân làng chài tại khu TĐC.
với các nông trang lớn, áp dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất. Netting thực hiện những 2.2. Đô thị hóa và biến đổi văn hóa
nghiên cứu trên với mục đích nhấn mạnh vai Đô thị hóa có thể hiểu là một quá trình tập
trò của văn hóa với quá trình thích nghi với trung dân cư đô thị, những người lao động phi
môi trường. nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành
Tuy môi trường là yếu tố quan trọng định thị và đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ
hình văn hóa nhưng sinh thái học văn hóa phủ cấu kinh tế theo hướng tăng cường tỉ lệ của
nhận thuyết quyết định luận môi trường khi các ngành phi nông nghiệp, đặc biệt là ngành
đề cao vai trò của con người trong sự lựa chọn dịch vụ. Một cách đầy đủ hơn, đô thị hóa là
cách thức ứng xử với các vấn đề của mình. Và một quá trình biến chuyển kinh tế - xã hội -
với ý nghĩa như vậy, sinh thái học văn hóa đã văn hoá và không gian với sự phát triển nghề
truyền cảm hứng trong vấn đề phát triển một nghiệp mới, chuyển dịch cơ cấu lao động, sự
nền văn hóa bền vững trong mối quan hệ với mở rộng của lãnh thổ đô thị và mang tính chất
đối với môi trường. Hiện nay, trong mối quan làm phai nhạt tính nông thôn, nông nghiệp.
Số 23 - Tháng 3 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
65
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Đây là một quy luật tất yếu trong quá trình
phát triển xã hội.
Quá trình đô thị hóa thường diễn ra theo
hai giai đoạn:
Đô thị hóa theo chiều rộng: Là sự sự tăng
lên về số lượng đô thị, sự mở rộng lãnh thổ
của các đô thị và sự gia tăng dân số. Đô thị hóa
theo chiều rộng có thể thấy ở những ví dụ về
sự chuyển đổi về không gian, nhân khẩu, kinh
tế, văn hóa ở các vùng ven đô Hà Nội.
Đô thi hóa theo chiều sâu: Là kiểu đô thị
hóa theo gắn với việc nâng cao chất lượng
tiêu chuẩn sống, tính đa dạng của các kiểu
mẫu văn hóa và nhu cầu hưởng thụ của cư dân Mô hình phân tích về biến đổi văn hóa của
đô thị. Đô thị hóa dạng này chủ yếu diễn ra ở cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long
các quốc gia phát triển, nơi từng trải qua đô thị
3. Kết luận
hóa theo chiều rộng.
Di dân và TĐC là một vấn đề có tính chất
Đối với trường hợp cộng đồng ngư dân
quan trọng trong việc phân bổ lại nguồn lực
vạn chài Hạ Long, đô thị hóa được nhấn mạnh
lao động, giảm tải áp lực dân số, tài nguyên,
là sự lan tỏa tính đô thị ở một địa bàn, một
phát triển cộng đồng... Nhưng chính sách
không gian sống cụ thể. Theo Nguyễn Văn
di dân trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã
Sửu, vấn đề mấu chốt được xem xét là tính đô
phát huy được tính hiệu quả. Những tác động
thị (urbanity/urbanism) để phân biệt giữa đô
về chính sách có thể đem lại thuận lợi và khó
thị và nông thôn, giữa thị dân và nông dân (9,
khăn, thậm chí là những bất lợi cho cộng đồng
tr.76). Sở dĩ cần quan tâm đến đô thị hóa bởi
bên dưới. Không phải chính sách nào cũng
khu TĐC cho ngư dân vạn chài Hạ Long được
thành công bởi sự phát triển bền vững của
quy hoạch tại phường Hà Phong, Thành phố
một cộng đồng đòi hỏi nhiều yếu tốt và cần
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và được tổ chức với
có một thời gian dài cho đầu tư cũng như để
thiết chế một khu phố (khu phố 8). Trong khi
người dân ổn định cuộc sống.
đó, Hạ Long là đô thị loại I, là trung tâm kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và có khu vực kinh Tương tác lâu dài trong mối quan hệ với
tế công nghiệp, dịch vụ phát triển năng động điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, các biểu
của tỉnh Quảng Ninh nên cần phân tích ảnh đạt về văn hóa, các thực hành sinh kế của cộng
hưởng của tính đô thị khi bàn về những biến đồng ngư dân vạn chài Hạ Long biểu hiện mối
đổi trong các thực hành văn hóa của ngư dân tương quan khăng khít với điều kiện tự nhiên
tại khu TĐC. Trong trường hợp này, quá trình bao bọc cộng đồng, đem lại nguồn sống và cả
đô thị hóa chủ yếu được xét trên phương diện những biến cố cho họ. Chính trong môi trường
lan tỏa văn hóa, lối sống đô thị và ảnh hưởng tự nhiên ấy mà lối sống, suy nghĩ, kho tàng tri
của nó tới văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn thức địa phương về biển được hình thành, trao
chài trong không gian sống mới. truyền qua nhiều đời, tạo nên bản sắc cho một
Từ việc phân tích lý thuyết và thực tế tại cộng đồng cư dân đặc biệt. Họ đặc biệt bởi
khu TĐC của ngư dân vạn chài Hạ Long, chúng sinh sống trong vùng lõi của một Di sản thiên
tôi mô hình hóa khung phân tích của mình nhiên thế giới và đặc biệt bởi chính những giá
như sau: trị văn hóa của mình.
66 Số 23 - Tháng 3 - 2018
- BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
Chính sách di dân lên bờ là một “cú hích” 6. Nguyễn Anh Tuấn(2015), Tương tác văn hóa
có tính chất quyết định trong lịch sử phát triển trong quá trình di dân nông thôn – đô thị, Tạp chí
của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, một Nghiên cứu văn hóa, số 13, tr. 64-69.
lực tác động kéo theo những thay đổi về môi 7. Phạm Quỳnh Phương – Hoàng Cầm (2010),
trường sống, biến đổi sinh kế, từ đó đưa đến Diễn ngôn, chính sách và sự biến đổi văn hóa – sinh
những biến đổi về mặt văn hóa của những ngư kế tộc người, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
dân nhiều đời quen với cảnh mênh mông sóng
8. Nguyễn Văn Sửu (2010), Khung sinh kế bền
nước. Bởi văn hóa, ngoài những phạm trù giá
vững: Một cách phân tích toàn diện về phát triển
trị, niềm tin, hành vi và các biểu hiện vật chất
và giảm nghèo, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.3-12.
thì cũng là sự thích ứng, môi trường nào thì
9. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa,
văn hóa như vậy. Cuộc sống trên bờ không đơn
đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội, Nxb.
giản là việc có một ngôi nhà vững chãi mà còn
Tri thức, Hà Nội.
là vấn đề nghề nghiệp sau TĐC, là những ảnh
hưởng văn hóa và những thách thức trong quá 10. Nguyễn Nữ Đoàn Vy (2015), Tác động của
trình hội nhập. Từ đó đặt ra câu hỏi, liệu cộng di dân tự do đến kinh tế - xã hội, Tạp chí Phát triển
đồng ngư dân làng chài còn thuần nhất không? Kinh tế Đà Nẵng, số 67, tr.63- 67.
Họ còn là một cộng đồng không hay bị chia ra 11.Conrad P. Kottak, The new ecological
thành nhiều nhóm với sự khác nhau về lối sống, Anthropology, Ammerican Anthoropologist.
về các biểu đạt văn hóa và các chiến lược thích New Series. Vol. 101. No 1 (Mar. , 1999), pp.22-
ứng khác nhau trong bối cảnh cuộc sống đã 35, bản dịch của Nguyễn Thị Hiền (Đại học QG
thay đổi? Những vấn đề lý thuyết bàn luận trên Tp. Hồ Chí Minh).
đây sẽ là cơ sở để chúng tôi áp dụng khi giải 12. Kooes Nefies (2003), Môi trường và sinh kế
quyết những câu hỏi nghiên cứu của mình. - Các chiến lược phát triển bền vững, Nxb. Chính trị
Đ.V.T Quốc gia, Hà Nội.
(ThS, VP Tạp chí NCVH, Trường ĐH VHHN) 13. Roy A. Rappaport, Ritual Regulation of
Environmental Relations among a New Guinea
Tài liệu tham khảo
People, “Ethnology”, University of Pittsburgh- Of
1. Đặng Nguyên Anh (2006), Chính sách di dân the Commonwealth System of Higher Education,
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các tính pp. 17-30.
miền núi, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
14. Cultural Ecological Perspective to the study
2. Hoàng Văn Chức (2004), Di dân tự do đến Hà of Society, http://www.academia.edu/1862433/
Nội, thực trạng và giải pháp quản lí, Nxb Đại học Cultural_Ecological_Perspective_to_the_study_
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. of_Society.
3. Trần Đình Hằng (2014), Bảo tồn và phát triển
Ngày nhận bài: 9 - 10 - 2017
văn hóa các dân tộc thiểu số vùng di dân tái định
cư ở miền Trung do xây dựng các công trình thủy Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 3 - 2018
điện, Đề tài Khoa học cấp Bộ, Bộ Văn hóa Thể Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2018
thao và Du lịch, Hà Nội.
4. Nguyễn Đình Hòe (2001), Dân số, định cư và
môi trường, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Lê Anh Tuấn (2014), Đời sống của người
Katu sau TĐC thủy điện A Vương – Thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Tạp chí Phát triển Kinh tế xã
hội Đà Nẵng, số 56, tr.41-50
Số 23 - Tháng 3 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
67
nguon tai.lieu . vn