Xem mẫu

  1. M ỤC L Ụ C PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó không những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất l ượng và hi ệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động. Đối với nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự nghiệp hình thành và phát triển nhân cách giáo viên mà còn là bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động dạy và học. Nếu không có giao tiếp thì không thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và trò vào việc đạt được mục đích giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo nghề sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động chuẩn bị cho mình về năng lực giao tiếp. 8
  2. Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những nơi đào tạo nghề cho những nhà giáo tương lai phục vụ công tác xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội. Hành trang của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên ngoài tư cách, phẩm chất, đạo đức, nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người còn phải vững mạnh về chuyên môn và giỏi về nghiệp vụ sư phạm, trong đó có năng lực giao tiếp. Vì vậy, việc rèn luyện năng lực giao tiếp mà cụ thể là kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên sư phạm là vấn đề thiết yếu. Khoa Sư phạm Kỹ thuật của Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là nơi đào tạo đội ngũ giáo viên Kỹ thuật công nghiệp cho các trường THPT. Với đặc điểm công việc giảng dạy trên đối tượng là những học sinh đang độ tuổi phát triển mạnh về nhận thức cũng như tâm sinh lý nên kỹ năng giao tiếp lại càng là vấn đề cấp thiết đối với mỗi sinh viên của khoa. Trên thực tế địa điểm của trường đặt tại vùng nông thôn nên môi trường giao tiếp của sinh viên trong khoa cũng như trong tr ường đã bị hạn chế đi rất nhiều, bên cạnh đó là vấn đề về sự chênh lệch giới, về thái độ giao tiếp của từng sinh viên,…cũng làm ảnh hưởng không ít đến kỹ năng giao tiếp. Để khắc phục những khó khăn ấy và rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật thì một hệ thống bài tập tình huống giao tiếp là vô cùng cần thiết . Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Xây dựng hệ thống bài tập th ực hành đ ể luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp ,Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên”. Với hy vọng góp phần nhỏ bé nhằm rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, nâng cao khả năng giao tiếp cho các bạn sinh viên trong khoa - những nhà giáo ưu tú tương lai. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Giao tiếp là một phần không thể thiếu của con người, đặc biệt là sinh viên nói chung và sinh viên Sư phạm nói riêng - Những nhà giáo dục tương lai của đất nước. Hiện nay, giao tiếp hay cụ thể hơn là kỹ năng giao tiếp ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong thời đại xã hội ngày càng văn minh. Kỹ năng giao tiếp có 9
  3. tốt hay không thế hiện rõ nét nhất trong cách ứng xử, giải quyết tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày xung quanh mỗi chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều người nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ năng giải quyết tình huống trong giao tiếp, có thế kể đến như Nhà giáo ưu tú Trần Trọng Thuỷ (Trong cuốn “Bài tập thực hành tâm lý”), Ths Nguyễn Đình Chắt (với đ ề tài Thạc sĩ “Kỹ năng giải quyết tình huống sư phạm của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt – Lâm Đồng), Ths Lê Quang Sơn (với bài viết “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị” trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đ ại học Đà Nẵng - Số 2 (25).2008),… Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống các bài tập tình huống giao tiếp nói chung cho sinh viên Sư phạm để nâng cao kỹ năng giao tiếp trên nhiều mặt vẫn còn ít được chú ý. Việc nghiên cứu của các tác giả hầu hết trên những tình huống giao tiếp sư phạm và ứng xử sư phạm. Vì vậy, tôi thấy cần thiết phải đi sâu vào nghiên cứu nội dung này với hy vọng xây dựng được một hệ thống các tình huống giao tiếp điển hình trên nhiều mặt đ ể nâng cao một cách hiệu quả kỹ năng giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên. 3. Mục đích nghiên cứu Xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống trong giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên 4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Phương pháp luyện tập giải quyết tình huống giao tiếp. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
  4. 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài 5.2. Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, thực trạng kỹ năng giao tiếp và giải quyết tình huống giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên. 5.3. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên 6. Phạm vi nghiên cứu Do hạn chế về thời gian, những tình huống giao tiếp nói chung là vô hạn nên trong phạm vi đề tài của mình tôi chỉ xây dựng những bài tập tình huống điển hình, phù hợp với nhu cầu giao tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật cũng như phù hợp với những kỹ năng thiết yếu trong giao tiếp. 7. Các phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Phương pháp này được dùng trong suốt quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài, từ việc xây dựng đề cương nghiên cứu vấn đề đến việc xác định cơ sở lý luận của giao tiếp và xây dựng hệ thống bài tập tình huống. Số lượng tài liệu tham khảo là trên 10 sách và tư liệu có liên quan (xem phần Tài liệu tham khảo) 7.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu lý thuyết về giao tiếp để xây dựng những bài tập tình huống phù hợp nhất. 7.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu Phiếu điều tra đảm bảo tính khách quan, tổng hợp, gồm 95 câu hỏi về 4 lĩnh vực là: Nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, mức độ cởi mở của cá nhân và kỹ năng giao tiếp, yêu cầu sinh viên chọn ý kiến phù hợp với mình. Từ đó dựa vào barem điểm, cho điểm các phiểu điều tra. 11
  5. Phiếu điều tra được phát ra hơn 200 phiếu trên hơn 200 đối tượng là sinh viên các lớp: KTK3, KTK4.2, KTK5.1, KTK5.2, KTK6.1, KTK6.2, KTK7, KTK39, KTK6LC. Tổng số phiếu thu được là 200 phiếu. 7.4. Phương pháp quan sát Qua quan sát những biểu hiện trong các mặt hoạt động để tìm hiểu thực trạng nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên. 7.5. Phương pháp trao đổi, trò chuyện Qua trao đổi trò chuyện với sinh viên, với cán bộ Đoàn, cán bộ lớp để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của sinh viên, thái độ của họ trong khi trả lời các phiếu điều tra, từ đó phát hiện ra yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp. 7.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Nhóm phương pháp này được thực hiện trong việc đưa ra các nhận định, luận cứ có tính thực tiễn, có độ tin cậy cao trong phần tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật, nêu ra những nguyên nhân hạn chế của việc giao tiếp và xử lý tình huống giao tiếp, tổng kết rút kinh nghiệm từ nhiều chuyên gia về kỹ năng giao tiếp. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp logic, toán học thống kê,… trong việc lập bảng và phân tích số liệu,… 12
  6. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG TRONG GIAO TIẾP 1.1. Khái niệm chung 1.1.1. Khái niệm giao tiếp Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con người. Nên khái niệm giao tiếp được giải thích cũng rất đa dạng và có nhiều bàn cãi trong lĩnh vực này. nhận thông tin trao đổi giữa người với người. T.Chuc Com (Mỹ): Giao tiếp là sự tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách dẫn đến việc hình thành những ý nghĩa biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động. Quan niệm này cụ thể hơn, đề cập đến các yếu tố tham gia trong giao tiếp nhưng chưa nêu được bản chất của giao tiếp. T.Stéc Sen (Pháp) đặc biệt chú ý đến sự thay đổi ý nghĩa, tình cảm và xúc cảm giữa con người với con người và khi đó ông coi sự trao đổi này là quá trình hai mặt của sự thông báo thiết lập, sự tiếp xúc và trao đổi thông tin. 13
  7. L.X. Vưgôtxki (nhà tâm lý học Liên Xô) cho rằng: Giao tiếp xem như là sự thông báo hoặc quan hệ qua lại thuần tuý giữa con người, như là sự trao đổi quan điểm và xúc cảm (L.X.Vưgôtxki). Ngày nay, cùng với việc xây dựng một cách tích cực và khoa học hệ phương pháp nghiên cứu giao tiếp thì bản chất, hiện tượng giao tiếp cũng được lý giải ngày càng đầy đủ và rõ ràng. Ở một khái niệm chung nhất chúng ta có thể hiểu: Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con người với con người, mà trong quá trình c ủa nó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý, được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự ảnh hưởng lẫn nhau, sự rung cảm lẫn nhau, sự hiểu biết lẫn nhau, và cuối cùng là những quan hệ qua lại giữa con người với con người được thực hiện, được thể hiện và đ ược hình thành. 1.1.2. Vai trò của giao tiếp Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong khoa học và cuộc sống. Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị đ ộc l ập, không phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người không phải là trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của tất cả những mối quan hệ xã hội” (Mác – Anghen “Tuyển tập” – Nhà xuất bản sự thật Hà Nội, 1971) Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người biểu thị mối liên hệ của con người với những người khác cũng như với những đ ối t ượng và những hoàn cảnh có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với họ và quy đ ịnh vị trí cá nhân trong môi trường xã hội. Nói cho thật đúng thì tất cả những nhu c ầu c ủa một người riêng lẻ đều chỉ có thể thoả mãn khi tính đến những nhu cầu của những người xung quanh. Đồng thời cơ cấu nhu cầu càng phức tạp thì quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người này với người khác càng tăng. Chẳng hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn được người khác tôn trọng lại có thể thoả mãn ngoài mối liên hệ với những người xung quanh. 14
  8. Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con người như là con người xã hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại con người. Chính vì vậy mà nhiều nhà bác học thuộc lĩnh vực tâm lý học cũng quan tâm đến vấn đề giao tiếp. Chẳng hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã nói: “Con người là nhu cầu quan trọng của con người, con người sẽ bị mất mát nhiều nếu họ không thể so sánh được mình với người khác, không thể trao đổi được với người khác về các ý nghĩ, không thể định hướng được vào người khác. Căm thù người khác còn tốt hơn là phải sống cô đơn” Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp với nhau, người ta trao đổi quan niệm với nhau. Trong quan niệm của họ thể hiện thái độ đánh giá về mặt trí tuệ của họ đối với những mặt khác nhau của đời sống thực tế, của đời sống vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có thể giống nhau và như thế thì củng cố lẫn nhau và trở thành cơ sở cho hoạt động chung và cho cách xử sự (giống nhau) của những người ấy. Những quan niệm giống nhau sẽ củng cố thái độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong trường hợp có những quan niệm khác nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm dẫn đến việc hình thành quan điểm chung. Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và chính như thế là nâng cao trình độ văn hoá chung của tập thể cũng như của mỗi thành viên trong đó. Điều quan trọng không phải là bản thân các kiến thức được truyền đạt l ại mà là thái độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều đó giải thích tại sao l ại có s ự lựa chọn thiên lệch đối với một số nghề nghiệp, sách báo phổ biến, khoa học, tác phẩm nghệ thuật nào đó – Do ảnh hưởng của chúng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là “mốt” trong nhận thức thẩm mỹ. Và trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi cho nhau các kinh nghiệm riêng về cuộc sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của nhau nhằm mục đích tạo nên sự thống nhất rộng lớn đ ể giải quyết các vấn đề xã hội một cách có kết quả. 15
  9. Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một nhân cách qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực của mình trong sự thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ lẫn nhau, lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cô lập. Đặc biệt qua quá trình giao tiếp, con người có được ấn tượng mới và thông tin mới, truyền thụ cho nhau những kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của mỗi cá nhân. 1.1.3. Chức năng của giao tiếp 1.1.3.1. Chức năng xã hội Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức năng thông tin của giao tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thông (trao đổi thông tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp, con người trao đổi cho nhau những thông tin nhất định. Những thông tin này sẽ có ý nghĩa về nhiều mặt như kiến thức, tâm lý, cảm xúc. Sự thiếu thông tin sẽ làm cho con người cảm thấy lạc lõng và cô đơn, mất đi tính cộng đồng vốn có. Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức nhất định. Đó có thể là gia đình,lớp học, trường học, công ty,… Và trong một tổ chức, một công việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện. Để có thể hoàn thành công việc một cách tốt đẹp, những bộ phận, những con người này phải thống nhất với nhau, tức là phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để trao đổi, bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy trình, cách thức thực hiện công việc và trong quá trình thực hiện cũng phải có những “tín hiệu” để mọi ngươi hành động một cách thống nhất. Đây chính là chức năng tổ chức phối hợp hành động của giao tiếp. Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh tác động ảnh hưởng qua lại của giao tiếp. Trong giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người khác và ngược lại, người khác cũng tác động, ảnh hưởng đến chúng ta bằng nhiều hình thức 16
  10. khác nhau như: Thuyết phục, ám thị, bắt chước. Đây là một chức năng rất quan trọng của giao tiếp. Trong xã hội, mỗi con người là một chiếc gương. Giao tiếp với họ chính là chúng ta soi mình trong chiếc gương đó. Từ đó chúng ta thấy được những ưu điểm, những thiếu sót của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản thân. Chức năng phê bình và tự phê bình này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới hiện nay của xã hội. 1.1.3.2. Chức năng tâm lý Bên cạnh nhóm chức năng xã hội, giao tiếp còn mang những chức năng tâm lý nhất định. Chức năng động viên khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm xúc trong đời sống tâm lý của con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi gợi ở nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định; chúng kích thích hành động của họ. Một lời khen chân tình được đưa ra kịp thời, một sự quan tâm được thể hiện đúng lúc có thể làm người khác tự tin, cảm thấy phải cố gắng làm việc tốt hơn. Giao tiếp không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, mà còn là cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới, phát triển và củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc, gặp gỡ nhau – Đó là khởi đầu của các mối quan hệ. Nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát triển hay không, có trở nên bền chặt hay không, điều này phụ thuộc nhiều vào quá trình giao tiếp sau đó. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có những cảm xúc cần được bộc lộ. Những niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi quan,… chúng ta muốn được người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm được sự đồng cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình. Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên tắc ứng xử: Chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu; cái gì đ ẹp, cái gì không 17
  11. đẹp; cái gì nên làm, cái gì cần làm, cái gì không được làm và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động cho phù hợp. Những phẩm chất như khiêm tốn hay tự phụ, lễ phép hay hỗn láo, ý thức nghĩa vụ, tôn trọng hay không tôn trọng người khác,… Đó chính là quá trình hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi chúng ta. Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đ ủ các chức năng này thì điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động, mà còn để lại những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lý nhân cách c ủa mỗi chúng ta. 1.2. Các phương tiện giao tiếp Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp khác nhau. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng đ ể thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp. Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng nhưng chúng ta có thể chia chúng thành hai nhóm chính: Ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ ít khi tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các mối quan hệ ít nhiều có tính chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ. 1.2.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con người có thể truyền đi bất cứ một thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật… Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây: - Nội dung ngôn ngữ: 18
  12. Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò của ý cá nhân của ngôn ngữ trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều có một hay vài ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa của ngôn ngữ có hai hình thức tồn tại: Khách quan và chủ quan. Khách quan bởi nó không phụ thuộc vào sở thích, ý muốn của một cá nhân nào. Chẳng hạn, không ai dùng từ “cái túi” để chỉ “cái cây” và ngược lại. Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, có những từ vô thưởng vô phạt, nhưng trong qua trình sử dụng gây ra những phản ứng, những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của ngôn ngữ. Ví dụ: từ “ma tuý” đối với người nghiện hút thì không gợi lên c ảm giác tiêu cực như ở những người bình thường. Ngay trong một nhóm người, đôi khi cũng có những quy định riêng cho một số tập hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm người từ cộng đ ồng địa phương đến đẳng cấp dân tộc đều có những sắc thái riêng trong cách s ử d ụng ngôn ngữ. Hiểu được ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự đồng điệu trong giao ti ếp, còn được gọi là sự đồng cảm. - Tính chất của ngôn ngữ: Trong giao tiếp, tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu… cũng đóng vai trò quan trọng. Có người trông vẻ ngoài hình thức khá hoàn hảo khi ến mọi người thích thú, nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm cho ta cảm thấy thất vọng ngay. Cũng có người nhờ tiếng nói ấm áp, dịu dàng, quyến rũ làm cho người nghe cảm tình ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả ái. Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu. Lời nói có được rõ ràng, khúc triết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo từng lời một. Biết nhấn mạnh những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ đi. 19
  13. Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng phải ngừng một lúc, để cho người nghe chú ý. - Điệu bộ khi nói Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa nói vừa vuốt ve, âu yếm,… Thường điệu bộ phụ hoạ theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hoá. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất, đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay người khác. 1.2.2. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ Trong giao tiếp, chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ nghe qua lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ chiếm từ 30% - 40% , phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc giao tiếp không lời qua vẻ mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi ngôn ngữ là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp. - Nét mặt: Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con ngươi. Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì hoà nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp. 20
  14. Nhướn mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn lặp lại thông tin. Đôi khi nó chỉ sự không tin tưởng mấy. Nhăn trán, cau mày là dấu hiệu phổ biến của sự lúng túng và sự lo lắng, và đôi khi là biểu hiện của sự giận dữ. - Nụ cười: Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái c ười t ươi tắn, hồn nhiên, đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác, có cái cười đồng tình, thông cảm nhưng cũng có cái cười chế giễu, cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ. - Ánh mắt: Dân gian có câu nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả mọi nghiên cứu quan sát, tìm hiểu qua ánh mắt con người có thể nói lên nhiều thứ. Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con người ra bên ngoài. Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hoá” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý, tôn trọng, sự đồng tình hoặc là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hoặc tự cho mình là người có vai trò cao hơn) thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói, lẫn khi nghe. Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi,… - Các cử chỉ: Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,…), của bàn tay (vẫy, chào, khua tay), của cánh tay,… Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin,… 21
  15. Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như một số vận động của tay và đầu có ý nhắc người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay giải thích thêm. Mũi cũng là phương tiện truyền thông, bởi vì khi nhìn người khác với cái vẻ coi khinh người ta thường nhìn xuống mũi của mình. Khi động tác này đi kèm với một cái hít vào khinh khỉnh thì thái độ phủ nhận lại càng được gia tăng. Ngoài ra, l ưỡi, cằm, cử chỉ của bàn tay, vị trí của đôi chân, … cũng nói lên nhiều điều. - Tư thế: Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai trò, vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức, nó bộc l ộ cương vị xã hội mà cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đ ầu về phía trước, tựa hồ lắng nghe là tư thế của người cấp dưới. Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hoà hợp. - Diện mạo: Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay thấp, mập hay ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay dày…), sắc da (trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay “ngăm ngăm”...), và những đặc điểm thay đ ổi đ ược như tóc, râu, trang điểm, trang sức, trang phục… Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn ông cao ráo, có vẻ khoẻ mạnh, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay gầy đét; một người “tốt tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đ ầu tiên. Cách trang sức, cách ăn mặc cũng nói lên nhiều cá tính, văn hoá, nghề nghiệp, đ ịa vị, l ứa tuổi của một cá nhân. 22
  16. - Những hành vi giao tiếp đặc biệt: Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay,… Những phương tiện này gọi là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới s ử dụng chúng. Chẳng hạn, không phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta người lớn xoa đầu trẻ con chứ không được phép ngược lại. Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: Bắt tay mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái bắt tay ẻo lả, ướt át thuộc về con ngươi yếu đuối và đáng ngờ. 1.3. Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản Giao tiếp vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Muốn thành công trong giao tiếp, chúng ta không chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực này mà còn phải biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn hoạt động giao tiếp của mình. Tức là nắm vững kỹ năng và không ngừng trau dồi, rèn luyện đ ể đ ạt đ ến mức nghệ thuật. Dưới đây là một số kỹ năng cơ bản trong giao tiếp. 1.3.1. Kỹ năng lắng nghe Trong quá trình giao tiếp, chúng ta vừa phải tác động lại vừa phải quan sát lắng nghe “đối phương”. Việc lắng nghe người khác, nắm bắt, thông hiểu các thông tin để có thái độ, hành vi tương xứng là điều rất có ý nghĩa trong giao tiếp. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng, trong cuộc sống, mỗi ngày làm việc, ít ra là chúng ta phải dùng nửa thời gian để lắng nghe và xử lý thông tin trên cơ sở đó mà chúng ta có những tác động phản hồi đối với mọi người. 23
  17. Đọc Viết 17% 14% Nói 16% Nghe 53% Hình 1.1. Biểu đồ thời lượng sử dụng các kỹ năng 1.3.1.1. Để có thể lắng nghe tốt Trong quan hệ giao tiếp, việc lắng nghe tích cực thường diễn ra khi ta thật sự quan tâm đến vấn đề nào đó và vì thế, tất nhiên khi có quan hệ, tác động ta hướng tất cả sự chú ý vào vấn đề. Tuy nhiên có những trường hợp ngược lại: Do công việc yêu cầu, do thái độ ứng xử đối nghịch của đối phương gây cho chúng ta sự ức chế về mặt tâm lý, đòi hỏi sự tự kiềm chế khá căng thẳng. Để có thể vượt qua tình thế như vậy và có thể lắng nghe có hiệu quả cần tự điều chỉnh để tự thích ứng với tình hình, và hình thành được thái độ sau: Thái độ tự thấu cảm: Ta tự đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người nói, thử đặt mình vào tình cảnh như vậy, từ đó mà tạo ra sự thấu hiểu thông điệp cả từ hai phía: Phía công khai và những gì tiềm ẩn bên trong các thông điệp đó. Trong phần lớn trường hợp người truyền thông tin thường có mong muốn ta thấu hiểu họ một cách đầy đủ cả hai khía cạnh ấy, nhất là ở phía “ý tại ngôn ngoại”, tiềm ẩn bên trong. Sự tập trung, chú ý vào nội dung thông tin với thái độ khách quan là không thể thiếu. Cần hết sức chăm chú nắm bắt thông tin, sẵn sàng phản hồi bằng ngôn ngữ, bằng tín hiệu, bằng biểu cảm (thái độ) ví dụ như: Gật gù tỏ vẻ hiểu, hưởng ứng, mỉm cười tán đồng. Tất nhiên để bộc lộ thái độ khách quan như vậy, ta phải hết sức tự kiềm chế, kiên nhẫn với thái độ tự tin để duy trì sự giao lưu, tiếp xúc diễn ra một cách thuận lợi. Đôi lúc có thể kiểm tra ngược lại hoặc để tâm xem lại những điều 24
  18. mình đã nắm được, ta có thể xen kẽ bằng những câu nhắc lại những gợi ý khéo như: “Theo anh nên hiểu vấn đề ấy như thế nào?” hoặc gợi mở thêm sự giao lưu được tiếp tục kiểu như “Hình như anh cũng cảm thấy khó xử…” thậm chí có thể tỏ thái độ trung lập với những gợi ý vô thưởng vô phạt như “Tôi hiểu anh trong tr ường hợp này…”. Tác dụng của những câu đưa đẩy ấy sẽ duy trì được sự giao lưu, tiếp xúc và nếu có dụng ý ta sẽ gián tiếp hiểu được thái độ đích thực của đối tượng giao tiếp. 1.3.1.2. Những trở ngại trong việc lắng nghe Có nhiều trở ngại khiến cho chất lượng lắng nghe người khác nói không phải lúc nào cũng như nhau, do nhiều nguyên nhân rất dễ sa vào tình trạng chất lượng kém với các mức độ khác nhau như: Do không tập trung chú ý nên chẳng nắm được nội dung, nghe lõm bõm, chỉ thông hiểu một phần, nghe nhưng nắm thông tin không chính xác, nghe rồi nhưng không có chủ định và quên mất thông tin,…. Trước hết phải nói đến trở ngại về mặt tâm lý – Ví dụ như tốc đ ộ suy nghĩ, chúng ta có thể nghe với tốc độ nhanh nhưng người nói lại rề rà, quá chậm. Do vậy có những khoảng trống, khiến ta dễ liên tưởng, dễ suy nghĩ lan man về các vấn đề khác. Hơn thế nữa, trong trường hợp tâm trạng chúng ta xao động, ta mải chú ý vấn đề khác, nếu người nói lại không “tâm lý” dễ dẫn ta đến trạng thái suy nghĩ lan man. Có thể xem trở ngại tâm lý là trở ngại quan trọng nhất, làm giảm hiệu quả của sự lắng nghe. Cùng với tốc độ suy nghĩ, việc phân tán chú ý còn do nội dung thông tin quá khó, ta không thể hiểu rõ và cũng không thể không nắm bắt được thực chất của thông tin, cảm thấy căng thẳng do vậy không tập trung được chú ý. Cũng có thể do thiếu kiến thức, đôi khi trong trao đổi, một bên cứ nói và một bên cứ lảng đi, không chịu “nghe”. Như vậy là trong giao tiếp, sự hiểu biết v ề đ ối tượng: Cá tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm xử thế,…thì chắc chắn sẽ gặp ít trở ngại hơn. 25
  19. Về mặt cá tính, một số người có tính thiếu kiên nhẫn trong giao tiếp – Thái độ này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giao lưu, tiếp xúc. Với tâm trạng như vậy, chúng ta nói vào tai này thì thông tin sẽ trượt ra tai khác, vô hiệu quả. Thực tế chứng tỏ rằng đôi khi thái độ thờ ơ, tiêu cực trong giao tiếp nảy sinh ra do định kiến, thành kiến và nhân cách của ai đó; thái độ gây nên trạng thái ức chế, cản trở sự trao đổi thông tin, nghĩa là không chịu tiếp nhận, trao đổi các thông tin. 1.3.2. Kỹ năng đặt câu hỏi Thu thập thông tin từ người khác là một kỹ năng khá quan trọng trong giao tiếp. Có nhiều thông tin chúng ta cần được chứa đựng trong não bộ của người khác. Có lúc chính họ tự nguyện, tự giác cho ta tin tức, nhưng đa số trường hợp chúng ta phải khai thác nó bằng các câu hỏi khác nhau. Muốn khai thác thông tin có hiệu quả chúng ta cần thực hiện nó một cách có bài bản. Muốn khuyến khích việc cung cấp tin, bạn phải làm sao cho việc ấy trở thành niềm vui thú đối với người khác. Hãy sử dụng nghệ thuật lắng nghe để tạo hứng thú ở đối tượng cung cấp thông tin. Khi muốn khai thác thông tin, bạn hãy bắt đầu bằng một câu hỏi dễ. Những câu hỏi dễ sẽ giúp người khác có cơ hội trả lời đúng một cách dễ dàng. Chúng làm cho đối tượng thoải mái, bớt căng thẳng và tự tin hơn. Nói chung, trước hết cần phải làm nóng cuộc nói chuyện để khi người đối thoại thấy được sức cuốn hút thì anh ta sẽ say sưa trút bầu tâm sự. Sau khi đã làm cho người khác cảm thấy thoải mái, bạn cần biết đ ặt những câu hỏi để có được những tin tức đầy đủ và chính xác. Có rất nhiều loại câu hỏi đ ể bạn có thể sử dụng, tuỳ vào từng hoàn cảnh và dụng ý sử dụng. - Câu hỏi hẹp: Đó là những câu hỏi nhằm thu hẹp vấn đề để tranh thủ những thông tin chính xác, ngắn gọn. Ví dụ: “Ai thực hiện việc này?”, “Tên anh là gì?”. Những câu hỏi hẹp 26
  20. có ích khi bạn cần những dữ kiện rõ ràng, thẳng thắn. Hầu hết các cuộc gặp gỡ đều có những câu hỏi hẹp ở một thời điểm nào đó. - Câu hỏi trực tiếp: Tức là hỏi thẳng vào vấn đề mà mình cần tìm hiểu. Loại này có ưu điểm là thu thập thông tin một cách nhanh chóng và thường tạo ra yếu tố bất ngờ ở đ ối tượng. Hỏi trực tiếp thường để lộ mục đích tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên. - Câu hỏi gián tiếp: Tức hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình cần tìm hiểu. Loại câu hỏi này thường dùng để khai thác những yếu tố tế nhị mà không thể hỏi trực tiếp. - Câu hỏi gợi mở: Là loại câu hỏi mà không thể trả lời có hoặc không được, chúng đòi hỏi phải có lời giải thích tại sao. Nhờ câu hỏi này mà chúng ta bước vào một giai đoạn mới của cuộc đàm phán độc thoại chuyển thành đối thoại. Loại câu hỏi này làm dễ dàng cho người đối thoại. Mục đích của loại câu hỏi này chủ yếu là thu thập thông tin sâu hơn mà câu hỏi hẹp không làm được. - Câu hỏi để suy nghĩ: Mục đích của câu hỏi này nhằm xây dựng bầu không khí thân thiện, hiểu biết lẫn nhau. Chúng đặc biệt có lợi khi nhắc lại một phần các ý kiến đã phát biểu. Câu hỏi này sẽ tạo điều kiện cho đối tác cải chính, bổ sung vấn đề đã được trình bày. 1.3.3. Kỹ năng thuyết phục Để giải quyết tốt một công việc nào đó, chúng ta thường cần sự giúp đỡ, hợp tác của người khác. Điều này đòi hỏi giữa chúng ta và họ phải có sự thống nhất về quan điểm, lập trường, về cách giải quyết công việc. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thường gặp trường hợp, trong đó người khác không cùng chung ý kiến, quan điểm với chúng ta. Trong trường hợp này, việc chúng ta có đạt được mục đích hay không phụ thuộc vào khả năng thuyết phục của chúng ta. Thuyết phục chính là đưa ra tình 27
nguon tai.lieu . vn