Xem mẫu
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Luận văn
Đề tài “Phân tích phương thức gia công
quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy
ở Việt Nam”
1 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Mục lục
Lời nói đầu ....................................................4
I, CƠ SỞ LÝ LUẬN. ..........................................4
1, Khái niệm và đặc điểm của gia công quốc tế. ..............4
a, Khái niệm. ..................................................4
b, Đặc điểm của gia công quốc tế. ............................5
2, Tác dụng của phương thức gia công quốc tế. ..............6
3, Các loại gia công quốc tế và hợp đồng gia công quốc tế. ..6
a, Các loại gia công quốc tế. ..................................7
b, Hợp đồng gia công quốc tế: ................................7
4, Những vấn đề cần chú ý khi áp dụng phương thức gia công
quốc tế. ........................................................8
II, THỰC TRẠNG GIA CÔNG GIÀY DA TẠI CÁC
DOANH NGIỆP VIỆT NAM HIÊN NAY. ...................9
1, Ngành giày da Việt Nam. ...................................9
2, Thực trang gia công giày dép tại các doanh nghiệp Việt
Nam ..........................................................10
a, Thực trạng chung .........................................10
b, Khó khăn. .................................................13
c, Môt số thực trạng xảy ra trong ngành: ....................15
Gian dối gia công ............................................15
3, Cơ hội. ....................................................18
4, Thách thức. ...............................................20
2 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
5, Hạn chế. ...................................................22
6, Giải pháp. .................................................23
III, KẾT LUẬN. .............................................25
3 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Lời nói đầu
Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
diễn ra mạnh mẽ; mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới càng trở nên chặt
chẽ và rất phức tạp, chúng tác động rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Với thực tế cấp thiết trên đòi hỏi Việt Nam phải tích cực, chủ động tham gia
hội nhập kinh tế với kinh tế khu vực và trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả
những thế mạnh của nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh những hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại hiệu quả cao thì các
hoạt động gia công quốc tế cũng là một phương pháp hữu hiệu, nó vừa phù
hợp với thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong gia công quốc tế thì lĩnh vực gia công da giầy đóng một vai trò khá
quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội của nước ta.
Ngành công nghiệp Da giầy luôn được đánh giá là một trong ba ngành hàng
có giá trị XK cao nhất, chỉ sau ngành dầu khí và dệt may của nước ta. Kim ngạch
XK của ngành đạt tốc độ phát triển cao, luôn chiếm 10% trong tổng kim ngạch XK
của quốc gia. Hiện nay, da giay VN được xếp trong top 10 nước xuất khẩu hàng
đầu vào thị trường 25 nước EU và Mỹ (hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế
giới). ở khu vực châu Á, Nhật Bản đang là một trong những thị trường XK giay dép
lớn nhất của VN. Chúng ta đứng thứ ba trong số các nước XK giay dép lớn nhất
vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia.
Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công da giầy
ở Việt Nam nói riêng nhóm 10 chọn đề tài thảo luận: “phân tích phương thức gia
công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam”.
I, CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1, Khái niệm và đặc điểm của gia công quốc
tế.
a, Khái niệm.
4 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Gia Công quốc tế (GCQT) là phương thức gia công quốc tế trong đó bên đặt
gia công nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị nguyên liệu phụ kiện hoặc bán
thành phẩm để bên nhận gia công trong nước tiến hành tổ chức quá trình sản xuất
thành sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.Toàn bộ sản phẩm làm ra bên
nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận về 1 khoản thù lao (phí gia
công) theo thỏa thuận. Gia công quốc tế là hình thức gia công thương mại mà bên
đặt gia công hoặc bên nhận gia công là thương nhân nước ngoài.
b, Đặc điểm của gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức ủy thác gia công, trong đó hoạt động
xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Trong quá trình gia công, bên nhận gia công trong nước bỏ ra lao động, tiền
chi phí gia công (thù lao lao động). Do đó, có thể nói gia công quốc tế là một hình
thức mậu dịch lao động, một ìn thức xuất khẩu lao động tại chỗ thông qua hàng
hóa.
Gia công quốc tế là một phương thức buôn bán gia công “hai đầu ở ngoài”,
nghĩa là thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu, đồng thời cũng là
thị trường tiêu thụ sản phẩm đó.
Ở đây cần lưu ý, nghiệp vụ gia công quốc tế khác với nghiệp vụ nhập khẩu
thành phẩm (mua đứt bán đoạn). Tuy nó cùng về phương thức buồn bán gia công
“Hai đầu ở ngoài” nhưng nó có điểm khác biệt rõ rệt với gai công quóc tế ở chỗ:
Thứ nhất, trong nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm là hai vụ
giao dịch khác nhau, đều xảy ra chuyển dịch quyền sở hữu, người cung ứng nguyên
liệu và người mua thành phẩm không có liên hệ chắc chắn nào. Trong nghiệp vụ
gia công quốc tế, nhập nguyên liệu đầu vào và xuất thành phẩm đi không có sự
chuyển dịch quyền sở hữu, hoặc nếu có chuyển dịch quyền sở hữu trong nhập
nguyên liệu nhưng chúng đều thuộc một cuộc giao dịch, các việc có liên quan đều
được quy định trong cùng một hợp đồng. Vì ngiệp vu gia công quộc tế thuộc về ủy
thác gia công, do đó người cung ứng nguyên liệu lại chính là người nhận thành
phẩm.
Thứ hai, trong nghiệp vụ nhập khẩu nguyên liệu gia công và xuất khẩu thành
phẩm, nhà mày trong nước mua từ nước ngoài nguyên liệu, gai công thành phẩm,
5 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
làm tăng giá trị, sau đó bán ra thị trường nước ngoài, kiếm giá trị chênh lệch từ
nguyên liệu đến thành phẩm, nhà máy trong nước phải chịu những rủi ro khi tiêu
thụ trên thị trường. Trong nghiệp vụ gia công quốc tế, vì thành phẩm giao cho bên
đặt gia công tự tiêu thụ, nhà máy trong nước không phải chịu rủi ro, nhưng phần
nhận được cũng chỉ là thù lao sức lao động, còn giá trị lao động lớn như thế nào thì
không cần quan tâm, do đó, lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ gia công quôc tế
thường thấp hơn nhiều so với nhập khẩu nguyên liệu gia công.
Nên, phấn đấu để tăng dần tỷ lệ “mua đứt bán đoạn” lên thay thế gia công
thuần túy đang là mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp đang thực hiện gia
công quốc tế tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
2, Tác dụng của phương thức gia công quốc
tế.
Áp dụng phương thức giao dịch gia công quốc tế đều có tác dụng tích cực
đối với bên đặt gia công cũng như bên nhận gia công, nên gia công quốc tế ngày
nay khá phổ biến trong thương mại quốc tế của nhiều nước.
Tác dụng đối với bên đặt gia công Tác dụng đối với bên nhận gia công
- Hạ thấp giá thành sản phẩm, do đó làm - Giảm tải dư thừa lao động hay thất
tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, tăng
quốc tế. Thu nhập thêm ngoại tệ.
- Có thể điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở - Phát triển nguồn lao động, tạo cơ hội
nước sở tại việc làm và làm phát triển kinh tế.
- Thu hút sự đầu tư kỹ thuật hiện đại và
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hướng xuất
khẩu phát triển.
3, Các loại gia công quốc tế và hợp đồng gia
công quốc tế.
6 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
a, Các loại gia công quốc tế.
Theo quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có các hình thức sau.
- Bên đặt gia công theo nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia
công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công.
Trong trường hợp này, trong thời gan chế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn
thuộc về bên đặt gia công.
- Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời
gian sàn xuất chế xuất, sẽ thu hồi thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu
nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công .
- Ngoài ra, người ta còn áp dụng hình thức kết hợp, trong đó bên đặt gia
công chỉ giao những nguyên liệu chính, còn bên nhận gia công cùng cung cấp
nguyên vật liệu phụ
Theo giá cả gia công:
- Theo giá thực tế, trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên nhân gia
công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.
- Theo giá thị trường, trong đó người ta xác định một giá định mức cho mối
sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của
bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa ,hai bên vẫn thanh toán với nhau theo
giá định mức đó.
Theo số bên tham gia quan hệ gia công,có hai loại gia công sau đây:
- Gia công hai bên, trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia công.
- Gia công nhiều bên, còn gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận gia
công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng
gia công của đơn vị sau, còn bên nhận gia công vẫn chỉ là một.
b, Hợp đồng gia công quốc tế:
Bản chất: là hơp đồng bán sức lao động
Các phương thức kí kết hợp đồng gia công quốc tế
- Nhà máy trực tiếp kí kết với nước ngoài
7 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
- Công ty xuất nhập khẩu kí kết hợp đồng, nhà máy gia công (nguyên liệu
,máy móc….)
- Qua công ty dich vụ gia công quốc tế
Những nội dung cơ bản của hợp đồng gia công quốc tế
- Mục đích của hợp đồng
- Quy định về thành phẩm
- Quy định về nguyên vật liệu
- Quy định về giá cả gia công
- Quy định về nghiệm thu
- Quy định về thanh toán
- Quy định về giao hàng
- Quy định về vận chuyển
- Quy định về bảo hiểm
4, Những vấn đề cần chú ý khi áp dụng
phương thức gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức thương mại quốc tế mà các nước đang
phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thường áp dụng, nhằm tận
dụng những lợi ích mà gia công quốc tế đem lại. Khi áp dụng gia công quốc tế vần
lưu ý các vấn đề sau:
- Khi phát triển nghiệp vụ thương mại quốc tế phải có quan điểm toàn cục,
chú ý xử lý tốt mối quan hệ với xuất khẩu thông thường.
- Xác định hợp lý chi phí lao động: cần tăng cường hoặch toán kinh tế, chú ý
tới hiệu quả kinh tế. Với nước có giá thành gia công thấp hơn nước ngoài, khi quyết
định mức chi phí lao động, không những phải xem xét xem có hợp lý hay không,
đồng thời phải tham khảo mức chi phí lao động của thị trừơng nước ngoài để hoặch
toán, cân nhắc hiệu quả, để cho tiêu chuẩn chi phí của mình vừa có sức cạnh tranh,
lại thu về nhiều ngoại tệ cho nước mình, tránh sự cạnh tranh với các đơn vị gia
công khác trong nước, tự ý hạ thấp mức chi phí lao động.
8 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
- Dần dần mở rộng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu, linh kiện nước mình sản
xuất: ở những khu vực hoặc đơn vị có điều kiện,cần cố gắng sử dụng nhiều nguyên
vật liệu hoặc linh kiện do nước mình sản xuất, tranh thủ nâng cao tỷ trọng ở mặt
này, dần dần quá độ sang tự kinh doanh XK.
- Nâng cao năng lực của doanh nghiệp: Nỗ lực nâng cao năng lực của doanh
nghiệp về mọi mặt. Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh
tranh về mặt chất lượng. Những đơn vị có điều kiện cần có kế hoặch dần dần nâng
cao trình độ kỹ thuật của nghiệp vụ gia công. Từ gia công nhiều sức lao động quá
độ sang gia công tập trung kỹ thuật,tập trung vốn.
II, THỰC TRẠNG GIA CÔNG GIÀY DA
TẠI CÁC DOANH NGIỆP VIỆT NAM
HIÊN NAY.
1, Ngành giày da Việt Nam.
Năm 2010 ngành da giày Việt Nam tổ chức kỷ niệm 20 năm thành lập. Thật
ra việc sản xuất và kinh doanh giày dép tại Việt Nam đã có từ lâu đời nhưng phần
lớn là sản xuất bằng phương pháp thủ công với những cơ xưởng vài mươi nhân
công.
Việc thành lập ngành da giày Việt Nam cách đây 20 năm là mốc đánh dấu sự
ra đời của ngành công nghiệp da giày sản xuất theo phương thức hiện đại trên dây
chuyền công nghiệp, từ đó hình thành những nhà máy có quy mô từ vài trăm đến
hàng chục ngàn lao động và tham gia vào việc xuất khẩu giày dép ra thế giới.
Vào những năm đầu thập niên 1990, ngành giày Việt Nam chủ yếu gia công
sản xuất mũ giày cho các nước Đông Âu theo Hiệp định 19/5, tuy nhiên việc gia
công này đã sớm sút giảm do thị trường Đông Âu bị biến động mạnh.
Vì vậy, vào giữa những năm 1990, các doanh nghiệp ngành da giày Việt
Nam phải tự tìm kiếm thị trường và chuyển dần xuất khẩu sang các nước Tây Âu.
Đến cuối năm 2000, số liệu xuất khẩu cho thấy cả ngành da giày lúc bấy giờ đã đạt
mức 1.471 triệu đô la Mỹ.
9 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Từ đầu những năm 2000 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp da
giày trong nước cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh nghiệp sản xuất
da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan... góp phần thay đổi nhanh chóng bộ mặt của ngành
da giày Việt Nam.
Đến hết năm 2008, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt đến 4.767 triệu
đô la Mỹ, tăng 3,2 lần so với năm 2000 và tăng đều đặn với tỷ lệ khá cao, trên 18%
mỗi năm.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú
trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền
và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và
xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị
trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong
các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có
nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh
phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện
tử.
2, Thực trang gia công giày dép tại các doanh nghiệp Việt Nam
a, Thực trạng chung
Da giày là một trong những lĩnh vực đầu tiên đón nhận làn sóng đầu tư nước
ngoài từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với việc hình thành hàng loạt nhà máy
gia công, liên doanh, 100% vốn nước ngoài) trải dài trên cả nước. Thế nhưng đến
nay, ngành xuất khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam với hơn 600.000 lao động vẫn bị
đánh giá là lợi nhuận thấp. “Mặc dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng giá trị
gia tăng của ngành này chỉ đạt 25%”. Giá trị gia tăng nhỏ nhoi đó chủ yếu nằm ở
sức lao động, yếu tố được xem là xem là “lợi thế cạnh tranh” lớn nhất của da giày
Việt Nam những năm qua. Song lợi thế về “giá nhân công rẻ” và “nguồn lao động
dồi dào” này đang mất dần đi khi người lao động không còn mặn mà với công việc
hết sức vất vả, khắc nghiệt mà thu nhập thấp (da giày là một trong những ngành có
thu nhập thấp nhất).
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị
trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai
10 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng
trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau
ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng
4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với
cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm
2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm
2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ
USD.
Tuy nhiên, đến năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của ngành đã có dấu hiệu
chững lại với mức xuất khẩu là 4.067 triệu đô la, giảm 14,6% so với 2008, khiến
cho nhiều doanh nghiệp trong ngành và những người quan tâm đến ngành da giày
Việt Nam cảm thấy lo ngại.
Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các
nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi,
chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại
thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản
xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng
cho các nhà sản xuất da giày.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của
ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả
năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản
xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn
chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố
11 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các
chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về
từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức
lao động là chính.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da
giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc
đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển
văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường
quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh
nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực
kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước
ASEAN.
Theo Hiệp hội da giày Việt Nam (Lefaso), bảy tháng đầu năm, kim ngạch
xuất khẩu da giày cả nước đạt 2,75 tỷ USD, tăng 13,8% so cùng kỳ năm trước. Với
kim ngạch xuất khẩu này, da giày tiếp tục là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu có
kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với ngành da giày Việt
Nam trong bối cảnh giày mũ da Việt Nam vẫn đang chịu mức thuế xuất khẩu 10%
vào EU và không được hưởng cơ chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP.
Cùng với sự hồi phục kinh tế thế giới, các đơn hàng xuất khẩu của ngành da
giày tăng khoảng 16% so với năm ngoái. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, chỉ
riêng hai tháng 6 và 7 vừa qua, trung bình kim ngạch xuất khẩu da giày đạt 450
triệu USD/tháng. Thị trường tiêu thụ hàng giày dép Việt Nam chính vẫn là Hoa Kỳ,
EU và Nhật Bản, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt gần
700 triệu USD, chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực
trong bảy tháng qua chủ yếu là giày thể thao, còn lại là giày thời trang, túi, cặp,
giày da, giày vải... Với đà tăng trưởng này, dự kiến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu
của ngành đạt gần 5 tỷ USD.
Chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam Nguyễn Đức Thuấn cho biết, từ năm
2010 trở đi, đặc biệt từ năm 2010 đến năm 2015 được coi là thời kỳ "vàng" của
ngành da giày nước ta bởi Việt Nam hiện đang có lợi thế cạnh tranh hơn một số
nước trong khu vực. Điển hình là chi phí nhân công ở nước ta rẻ hơn. Chẳng hạn,
tại Trung Quốc, một trong những nước xuất khẩu giày dép lớn trên thế giới, hiện
thu nhập bình quân đầu người đã đạt mức khoảng 3.000 USD/người/năm nên giá
12 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
nhân công ở Trung Quốc bắt đầu tăng lên. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam mới đạt khoảng 1.200 USD/người/năm. Đây chính là lợi thế
để Việt Nam phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như da giày.
Đến nay, phần lớn các sản phẩm da giày và thời trang trên thế giới được tập trung
làm chủ yếu ở một số nước châu Á đông dân như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ,
In-đô-nê-xi-a, Băng-la-đét... Không những thế, Việt Nam cũng là nước đang có cơ
cấu dân số "vàng", tỷ lệ người bước vào độ tuổi lao động hằng năm đang tăng lên,
tạo nguồn lao động dồi dào cho các ngành này. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức
Thuấn ví von: "Đơn hàng xuất khẩu da giày đang như dòng thác chảy vào những
chỗ có lợi thế, vì vậy thách thức đối với ngành da giày Việt Nam là phải chớp được
cơ hội vàng này". Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cơ hội lớn đối với các DN da giày lớn,
làm chủ công nghệ nền (vật tư nguyên liệu, thị trường, làm hàng FOB...), còn
những DN da giày nhỏ cũng chỉ có thể làm gia công cho các DN lớn.
b, Khó khăn.
Hiện nay, thu nhập của người lao động trong ngành da giày còn thấp hơn
một số ngành khác nên đã xuất hiện tình trạng dịch chuyển lao động sang những
ngành sản xuất có thu nhập cao hơn. Mặc dù các DN da giày nhận được rất nhiều
đơn hàng xuất khẩu, nhưng khó khăn lớn nhất đối với họ chính là không đủ năng
lực sản xuất do thiếu lao động. Nếu DN nhận đơn hàng vượt năng lực sản xuất của
mình và để kịp giao hàng cho đối tác, thì DN buộc phải tăng lương công nhân,
tăng chi phí nhập khẩu nguyên liệu, vận chuyển bằng đường hàng không... Nhiều
DN da giày sẽ không chịu nổi một loạt chi phí tăng lên như vậy.
Khó khăn về nhân công chính là bài toán nan giải đối với các DN da giày
Việt Nam. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức Thuấn phân tích, để giải bài toán này,
DN cần làm sao đưa được đơn hàng về những nơi có lợi thế về lao động để tranh
thủ nguồn lao động dồi dào ở các địa phương, tiết kiệm chi phí thuê nhân công.
Giải pháp khắc phục dài hạn là Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách ưu đãi
nhằm khuyến khích các DN xây dựng nhà máy sản xuất da giày tại các vùng có lực
lượng lao động, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có thể quy hoạch
thành năm vùng cho phát triển ngành da giày như vùng 1 gồm một số tỉnh phía bắc
như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Hải Phòng; vùng 2 gồm các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi, một phần Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng; vùng 3 gồm các
13 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
tỉnh Khánh Hoà, Quy Nhơn, Bình Định, Bình Thuận; vùng 4 gồm các tỉnh Đông
Nam Bộ và vùng 5 gồm các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre. Nhà nước có thể
ban hành chính sách giảm thuế thu nhập DN, miễn tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, chuẩn bị mặt bằng sạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật
sẵn... để thu hút các DN da giày vào đầu tư tại những vùng này. Việc quy hoạch các
vùng nêu trên sẽ khắc phục được những bất cập về bất ổn xã hội trong thu hút lao
động cho ngành da giày tại những khu công nghiệp tập trung như hiện nay.
Để nắm được lượng đơn hàng xuất khẩu lớn, tranh thủ thời cơ vàng, các DN
da giày Việt Nam cần tăng năng lực sản xuất bằng cách mở rộng sản xuất về các
vùng có chi phí lao động rẻ, thay vì tìm cách thu hút nguồn lao động tại các trung
tâm lớn. Theo tính toán, DN muốn tăng 15% năng lực sản xuất tại trung tâm thì
phải mở rộng 20-30% năng lực sản xuất tại các vùng sâu, vùng xa. Đặc thù của
ngành da giày là 60% số lao động tập trung ở khâu may giày. Vì vậy, để giảm chi
phí sản xuất, DN có thể thực hiện các khâu may mũi tại các vùng sâu, vùng xa, còn
các khâu hoàn thiện công nghệ, chất lượng sản phẩm có thể thực hiện tại các thành
phố, khu công nghiệp tập trung, gần cảng... Ngoài ra, DN cần liên kết cùng nhau
mua đơn hàng nhập khẩu nguyên liệu có giá trị lớn để giảm chi phí đầu vào đồng
thời tránh được việc các nhà cung cấp nguyên liệu ép giá. Không chỉ vậy, Nhà
nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng trung tâm thuộc da tập trung
bởi hiện ngành này vẫn phải nhập khẩu tới 70% nguyên liệu da và hỗ trợ Hiệp hội
da giày Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
Ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, cho biết,
hiện dung lượng giày thế giới khoảng 17 tỷ đôi mỗi năm. Giày xuất khẩu chiếm 6 -
7 tỷ đôi, trong đó 70 - 75% năng lực sản xuất tại châu Á. Trung Quốc đứng đầu
khu vực, với trên 75% tổng sản lượng, tiếp theo là Việt Nam, 8 - 9%.
Tiềm năng tiêu thụ giày dép đang rất lớn. Tuy nhiên, tình hình chung của
ngành da giày các nước châu Á nói chung va Việt Nam nói riêng phụ thuộc nguyên
phụ liệu nhập khẩu. Chất lượng hàng hoá lại thấp, ít thương hiệu, uy tín có thể tham
gia xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng.
Việt Nam là một điển hình. Năm 2009 đạt 4,67 tỷ USD, thu hút gần 700.000
lao động trực tiếp. Nhiều năm liền, ngành da giày Việt Nam đứng thứ 3 về kim
ngạch xuất khẩu. Song, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu, phụ tùng, thiết bị
xấp xỉ 50% so với xuất khẩu. Nhiều loại nguyên liệu như nhựa cao su tổng hợp,
14 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
kim loại chuyên dùng, hoá chất, linh kiện… đều phải nhập khẩu. Hiện tỷ lệ nội địa
hoá trong sản phẩm da giày xuất khẩu chỉ chiếm 30 - 35%. Trong nước cũng đã sản
xuất được một số nguyên phụ liệu với giá thành thấp hơn nguyên liệu nhập khẩu.
Song, chất lượng không ổn định, mẫu mã nghèo nàn, chưa sản xuất được chủng
loại cao cấp… Hiệu quả kinh tế từ ngành da giày mang lại vì thế hạn chế.
Không những vậy, các doanh nghiệp giày da châu Á nói chung và Việt Nam
nói riêng, phải chịu sức ép từ vụ kiện chống bán phá giá đối với các loại giày mũ da
xuất khẩu sang EU và không được hưởng GSP. Các nhà đầu tư tại Mỹ lại đang
hướng đến Mehico và khu vực Nam Mỹ…
c, Môt số thực trạng xảy ra trong ngành:
Gian dối gia công
Không phải là hàng nhái, nhưng những sản phẩm "ca ba" làm thêm ngoài
luồng cũng đang gây tổn hại không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của nhiều Cty tên
tuổi quốc tế.
Hầu hết các hãng lớn thường lảng tránh vấn đề này vì e làm khách hàng
hoang mang, tổn hại tới uy tín thương hiệu. Nhưng trên thực tế, những sản phẩm ca
ba thịnh phát, đè nén cả hàng chính, gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín gia công
của những nền kinh tế lao động rẻ.
Sâu nở thời tự do
Trong thời buổi công nghệ in ấn, scanning và 3D hiện đại như ngày nay thì
chẳng khó khăn gì để bắt chước, copy ra những sản phẩm giả ngỡ như thật. Đấy
chính là nguyên nhân dẫn đến việc nhiều nhà thầu phụ gia công thừa ra số lượng
hàng đặt từ các hãng lớn để tuồn ra ngoài kiếm lời. Bỏ mặc những thiệt hại mà các
Cty chính ngạch phải hứng chịu từ việc hàng hóa "ca ba" phá giá trên thị trường.
Tuột mất quyền chủ động
Tự do hóa thương mại, đầu tư tạo cảm hứng cho các hãng lớn đổ vốn ra
nước ngoài gia công nhằm tận dụng lợi thế so sánh để hạ chi phí đầu vào. Nhưng
vấn nạn ca ba khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Bởi mỗi khi đi gia công
(outsourcing), chuyển gánh nặng sản xuất cho các xí nghiệp nước ngoài, thì kèm
với đó là việc tiết lộ những chi tiết đặc chủng, bí quyết chế biến và cả bản vẽ thiết
kế. Hay nói khác đi là chính hãng phải sẵn sàng từ bỏ quyền kiểm soát trong vấn đề
15 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
sở hữu trí tuệ, bí kíp nhà nghề. Nhưng rủi thay, lợi bất cập hại, nhiều khi vốn chưa
thu về thì tên tuổi đã bị phai nhạt bởi hàng ngoài luồng.
DN chưa mặn mà với thị trường trong nước
Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Da giày Việt Nam cho thấy, hiện mỗi
người dân Việt Nam trung bình sử dụng từ 1,5 - 3 đôi giày/năm, lượng tiêu thụ
khoảng 130 - 240 triệu đôi/năm, tập trung 80% vào sản phẩm da - giả da có giá
dưới 150.000 đồng/đôi. Do đó, tổng giá trị thị trường giày dép các loại trong nước
đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu và
đây là một con số không nhỏ cho ngành da giày.
Tuy nhiên, thị trường trong nước lại đang bị hàng nước ngoài “lấn chỗ” mà
nhiều nhất là hàng Trung Quốc, rồi đến các loại giày dép nhái, giả, kém chất lượng
nhưng giá rẻ, tràn ngập phân khúc thị trường người có thu nhập thấp.
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký
Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam nhận định, sở dĩ doanh nghiệp (DN) chưa mặn
mà với thị trường trong nước là do hầu hết các DN có vốn nước ngoài (chiếm 80%)
làm gia công và bị ràng buộc từ quy định bản quyền (không được đưa sản phẩm gia
công ra ngoài). Hơn nữa, DN không mặn mà với thị trường trong nước cũng bởi khi
xuất khẩu, giá bán ở thị trường các nước sau khi sản phẩm mang thương hiệu nước
ngoài đã tăng 4 - 5 lần.
Ngay cả các DN có vốn trong nước cũng “ngại” làm hàng nội do khi chuyển
từ làm hàng xuất khẩu sang hàng nội phải thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, một số trang
thiết bị… Còn nếu bán hàng xuất khẩu ở thị trường nội thì mẫu mã sản phẩm xuất
khẩu thành công ở nước ngoài chưa hẳn đã phù hợp với người tiêu dùng trong
nước, mà giá lại cao. Do đó, thị trường trong nước chưa thực sự hấp dẫn họ đầu tư.
Ngoài ra, khi quay lại thị trường trong nước, DN lại thiếu kỹ năng nghiên
cứu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng nên sản phẩm khó bán dù cũng đã có nhiều
sáng tạo, sáng kiến. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất là đối với các DN da giày nếu triển
khai bán sản phẩm ở thị trường trong nước là hầu hết DN đều thiếu hệ thống phân
phối. Trong khi đó, hệ thống cung ứng bán lẻ tại Việt Nam chưa nhiều, do chỉ tập
trung ở các tỉnh, thành phố lớn và chi phí thuê mặt bằng rất cao, vượt quá khả năng
DN vừa và nhỏ.
16 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Thừa nhận thực trạng này, bà Nguyễn Thị Tòng, Tổng thư ký Hiệp hội Da
giày Việt Nam cho biết thêm, hiện các sản phẩm da giày cũng mới chỉ đáp ứng
được 40% nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do vậy, mục tiêu phấn đấu của toàn ngành
đến năm 2015 là sẽ nâng tỷ lệ này lên 60 - 70%.
Kim ngạch giày da có nguy cơ tiếp tục giảm
Bắt đầu từ 3/1/2010, sản phẩm giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường EU tiếp tục “mắc cạn” 10% "thuế chống bán phá giá".
Mặc dù, suốt ba năm qua, việc EU áp thuế mức thuế 10% đối với mặt hàng
giày da của Việt Nam, đồng thời quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi
diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 – 2011
mà EC đưa ra vào tháng 6/2008 đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho ngành công
nghiệp giày da của Việt Nam.
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị
trường EU đã giảm sút rất lớn. Cụ thể những năm bị áp thuế chống bán phá giá,
kim ngạch của lĩnh vực này xuất khẩu vào EU trung bình giảm trên 20%/năm.
Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch giày dép xuất khẩu đã giảm
11,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Đồng thời cũng làm giảm đi đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm gia dày
Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác.
“Ngoài ra, đời sống của khoảng 650.000 lao động trong ngành này, chủ yếu
là lao động nữ cũng đã và đang phải chịu tác động tiêu cực bởi những quy định
“trái ngược” trên của EU”, ông Vĩnh cho biết.
Theo ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công
Thương), thì việc áp thuế này cũng sẽ gây khó khăn cho các nhà nhập khẩu, phân
phối giày gia của châu Âu, vì thuế được áp sẽ tính vào trong giá bán và người tiêu
dùng của châu Âu sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.
Tuy nhiên, theo Mừng, nguy cơ lớn tới đây, trong điều kiện kinh tế thế giới
và tiêu dùng của người dân vẫn còn khó khăn, với mức thuế “bị” áp trên, thì các
sản phẩm cùng giá, cùng chủng loại của Việt Nam so với sản phẩm giày mũ da của
các nước khác giá sẽ cao hơn, như thế các nhà nhập khẩu của châu Âu phải tính
toán đến nhập khẩu ở các quốc gia khác không bị áp thuế.
17 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
“Nên nguy cơ giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy mũ da của Việt
Nam vào thị trường EU so với tiềm năng là rất lớn”, ông Mừng lo lắng.
3, Cơ hội.
Nhu cầu tiêu dùng giầy dép của các nước trên thế giới ngày càng gia tăng
cùng với sự cải thiện đời sống kinh tế xã hội. Giầy dép là một trong các sản phẩm
tiêu dùng thời trang không thể thiếu được, đặc biệt tại các nước có khí hậu lạnh
(Người dân không thể không đi giầy).
Quá trình hội nhập, các DN ngành Da - Giầy Việt Nam có thêm nhiều cơ hội
tiếp cận với công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến và được tiếp cận rộng hơn với thị
trường quốc tế, có cơ hội hợp tác phát triển tốt và bình đẳng hơn
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành
da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu
khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo
điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế
quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị
trường khu vực.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú
trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền
và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và
xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị
trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong
các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có
nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh
phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện
tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường
nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của
xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới
làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo
hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
18 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp
phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông
lệ quốc tế.
Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành
đạt:
Giày dép các loại: 680 triệu đôi
Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có
mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm
trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc
đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn
tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản
phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng
được mở rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng
trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị
trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng
33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép
của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau
Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu
USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng
25% so với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu
mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính
sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
19 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
- Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế Nhóm: 10
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt
Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam
sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm
2006, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005.
4, Thách thức.
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc,
một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm
lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép
xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình
độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng
Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như
Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán
phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị
phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung
Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông
Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng
hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản
phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu
cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó
các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản
xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải
nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày...
nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ
như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ
em.
20 Mã lớp HP: 1003ILOM0611
nguon tai.lieu . vn