Xem mẫu

  1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc là các biện pháp có tính chất đem l ại hòa bình, vpis sự tham gia của các thành viên quân sự, nhằm mục đích ổn định tình hình trong khu v ực xung đột, tạo ra những điều kiện thuận lợi để giải quyết xung đột một cách hòa bình cũng như khôi phục trở lại và duy trì hòa bình. Bàn về vấn đề này, em xin đưa ra ý kiến “ bình luận vai trò của Liên hợp quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.” B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Khái quát chung về Liên Hợp Quốc và vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Liên Hợp Quốc được thành lập trên cơ sở của Hiến chương Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1945. Liên Hợp Quốc trở thành một tổ chức trung tâm trong các hoạt động h ợp tác c ủa các qu ốc gia trên thế giới. Từ 51 thành viên ban đầu, đến nay Liên Hợp Quốc đã có 191 thành viên. M ục đích thành lập Liên Hợp Quốc là: duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; phát tri ển quan h ệ h ữu ngh ị gi ữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, dân tộc tự quyết; thực hi ện sự h ợp tác qu ốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế; trở thành trung tâm phối hợp mọi hoạt đ ộng c ủa các dân tộc nhằm đạt được mục đích nói trên. Trong đó, duy trì hoà bình và an ninh quốc tế là mục đích quan trọng nhất và nổi bật nhất. Để duy trì hoạt động theo tôn chỉ mục đích đã đề ra, Liên Hợp Quốc đã xây d ựng đ ược m ột cơ cấu tổ chức tương đối chặt chẽ với 6 cơ quan chính: Đại hội đồng, Hội đ ồng bảo an, Hội đ ồng kinh tế - xã hội, Toà án quốc tế, Ban thư ký, Hội đồng quản thác. Hiện nay trên th ực t ế, Hội đ ồng quản thác đã chấm dứt hoạt động. Mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng đã đ ược quy đ ịnh trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Các cơ quan này phối hợp với nhau đ ể thực hi ện các mục tiêu chung của Liên Hợp Quốc. Riêng với mục đích duy trì hoà bình và an ninh qu ốc tế, Liên Hợp Qu ốc đã trao cho Hội đồng bảo an là cơ quan chịu trách nhiệm chính. Ngoài Hội đ ồng b ảo an, Đ ại h ội đồng và Tòa án quốc tế có những vai trò, đóng góp đáng kể trong vi ệc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. II. Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. 1. Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc xây dựng khung pháp lý nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Hoà bình và an ninh quốc tế có thể được bảo đảm bằng nhiều biện pháp và ph ương ti ện khác nhau nhưng trong đó pháp luật được coi là phương tiện hiệu quả nhất. Với tư cách là một tổ ch ức qu ốc tế trung tâm, Liên Hợp Quốc có vai trò rất lớn trong việc xây dựng khung pháp lý nh ằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Hàng loạt điều ước quốc tế về duy trì hoà bình và an ninh quốc tế đã đ ược ký kết đều do Liên Hợp Quốc đề xuất, khởi xướng hoặc được thông qua trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc. Các tuyên bố và nghị quyết của Đại hội đồng; các nghị quyết của Hội đồng bảo an cũng đóng góp rất lớn trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. 1.1. Các điều ước quốc tế được ký kết do Liên Hợp Quốc đề xuất, khởi xướng hoặc thông qua trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc. Công ước về cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ vũ khí vi trùng, vũ khí đ ộc h ại và phá h ủy chúng năm 1972: Vũ khí sinh học được coi là nguy hiểm nhất vì khó ki ểm soát, thi ếu s ự ki ểm tra đ ộc l ập đ ối với các quốc gia, trong khi mỗi cá nhân lại có thể dễ dàng tự nghiên cứu và phát tri ển các loại virus hoặc vi khuẩn gây bệnh. Bởi vậy, Các hiệp ước cấm vũ khí sinh học và hoá học, cấm phổ bi ến vũ 1
  2. khí hạt nhân là ba trục lớn trong hệ thống bảo vệ toàn cầu chống l ại các loại vũ khí hu ỷ di ệt hàng loạt. Công ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 cũng khẳng định vai trò của LHQ đ ối v ới vi ệc bảo vệ quyền con người trong cuộc chiến chống khủng bố. Mục tiêu chống khủng bố quốc tế càng được Liên hợp quốc nhấn mạnh và quan tâm nhi ều hơn kể từ sau sự kiện ngày 11-9-2001 với một loạt vụ tấn công khủng bố cảm tử có ph ối h ợp t ại Hoa Kì diễn ra vào thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001. Đồng thời với việc thông qua các ngh ị quy ết, tuyên bố kêu gọi các quốc gia tích cực tham gia chống khủng bố, Liên hợp quốc cũng bày tỏ m ối quan ngại đối với những tác động tiêu cực do các biện pháp chống kh ủng bố gây ra đ ối v ới quy ền con người. Bên cạnh đó còn có nhiều công ước cần kể đến như sau: - Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân năm 1979. - Công ước về đánh dấu vật liệu nổ để nhận biết năm 1991. - Công ước về cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ, sử dụng vũ khí hóa học và phá h ủy chúng năm 1993. - Công ước về việc trừng trị khủng bố bằng bom năm 1998. - Công ước quốc tế về trừng trị những hành vi tài trợ khủng bố năm 1999. - Công ước về trừng trị những hành vi khủng bố bằng hạt nhân năm 2005. - Hiệp ước về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, trong vũ trụ và dưới nước năm 1963. - Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968. - Hiệp ước về cấm đặt vũ khí hạt nhân và các vũ khí giết người hàng loạt ở đáy bi ển, đáy đ ại dương năm 1971. - Hiệp ước về cấm thử hạt nhân toàn diện năm 1996. 1.2. Các tuyên bố, nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Tuyên ngôn về việc cấm sử dụng vũ khí hạt nhân năm 1961. Trong đó: Đại hội đồng Liên hợp quốc đã khẳng định: Việc sử dụng vũ khí h ạt nhân và vũ khí nhi ệt hạch là hành vi trái với luật nhân đạo quốc tế và là tội ác chống l ại loài người.T ừ đó đ ến nay, Đ ại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua và thừa nhận, khuyến khích các quốc gia thành viên tham gia nhiều điều ước quốc tế về vũ khí nguyên tử, như Nghị quyết về cấm đưa lên quỹ đ ạo vũ khí h ạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt khác tháng 10 năm 1963, Nghị quyết về c ấm vũ khí h ạt nhân notron năm 1981... Ngoài ra, còn có các nghị quyết, tuyên bố khác như: - Tuyên bố năm 1970 về tăng cường an ninh quốc tế. - Nghị quyết của Đại hội đồng về định nghĩa xâm lược và hành vi xâm lược năm 1974. - Tuyên bố năm 1988 về ngăn ngừa và loại trừ tranh chấp và tình thế có thể đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế và vai trò của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực này. - Nghị quyết 44/21 năm 1989 về tăng cường hòa bình, an ninh và hợp tác quốc tế phù h ợp v ới Hi ến chương Liên Hợp Quốc. 1.3. Các nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Nhằm thực hiện tốt chức năng duy trì hòa bình và an ninh qu ốc tế trong h ơn 60 năm qua, Hội đồng bảo an đã ra nhiều nghị quyết có tính chất bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Đáng chú ý nhất là những nghị quyết sau: 2
  3. Nghị quyết số 340 (năm 1973) và nghị quyết số 341 (năm 1973) v ề thành lập l ực l ượng gi ữ gìn hòa bình của Liên Hợp Quốc và xác định nguyên tắc, phương châm hoạt động của lực lượng giữ gìn hòa bình. Các nghị quyết được ban hành để chống khủng bố sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001: nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001, nghị quyết số 1340 ngày 16/1/2002, nghị quyết số 1452 ngày 20/12/2002, nghị quyết số 1445 ngày 17/1/2003... Trong đó, nghị quyết 1373 đã đ ề ra các bi ện pháp pháp lý chung (ngăn ngừa và trừng trị việc tài trợ cho hoạt động kh ủng bố cũng như vi ệc th ực hi ện hành động khủng bố). Các nghị quyết khác quy định cụ thể hơn về các bi ện pháp c ần thiết th ực hiện để ngăn ngừa và trừng trị tội phạm khủng bố quốc tế.Ngoài ra, Hội đ ồng bảo an cũng ra m ột số nghị quyết nhằm áp dụng biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia có nguy c ơ đe doạ hoà bình, an ninh quốc tế. Các nghị quyết này đều nhằm mục đích duy trì an ninh, hòa bình thế giới. Nh ờ đó, các quốc gia có ý thức và trách nhiệm đối với việc bảo vệ hòa bình không chỉ cho quốc gia của mình mà còn cho các nước khác. Điều này cần đến những quy định xem như là bắt bu ộc để các qu ốc gia thực hiện thông qua các nghị quyết của một cơ quan của Liên Hợp Quốc đó là Hội đồng Bảo An. Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc triển khai các hoạt động nhằm duy trì hoà bình và an 2. ninh quốc tế. 2.1. Hoạt động giải quyết các tranh chấp quốc tế. Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp qu ốc t ế đ ược quy đ ịnh t ại chương VI của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế có vai trò rất quan trọng trong quan hệ quốc tế nói chung và trong việc giải quyết các tranh ch ấp qu ốc tế nói riêng. Theo quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc ở các mức độ khác nhau đều tham gia vào quá trình giải quyết tranh ch ấp qu ốc t ế nh ưng trong đó vai trò chính thuộc về Hội đồng bảo an.Phương thức giải quyết các tranh chấp quốc tế của Liên Hợp Quốc rất mềm dẻo, linh hoạt. Trong mỗi vụ tranh chấp, Liên Hợp Quốc yêu cầu các đương sự phải tự tìm giải pháp để giải quyết tranh chấp như bằng con đường đàm phán, đi ều tra trung gian, hòa gi ải trọng tài; bằng con đường tư pháp hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tự ch ọn (Đi ều 33 Hi ến chương Liên Hợp Quốc). Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng bảo an yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp của họ bằng những biện pháp đã nêu trên. Ngoài ra, Hội đ ồng bảo an (đ ược Liên H ợp Quốc trao thẩm quyền) có thể áp dụng các biện pháp cần thi ết khác đ ể gi ải quy ết tranh ch ấp nh ư điều tra mọi tranh chấp nếu xét thấy diễn biến có thể gây ra bất hòa giữa các nước hoặc đe dọa hòa bình an ninh quốc tế; kiến nghị các bên những thủ tục hoặc phương thức giải quyết thỏa đáng. Nếu Hội đồng bảo an xét thấy có sự đe dọa phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm l ược thì có th ể yêu cầu các bên tuân thủ những biện pháp tạm thời, áp dụng những biện pháp phi quân sự hoặc áp dụng những biện pháp quân sự. Trên cơ sở chương VI Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hội đồng bảo an có toàn quyền thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp trung gian (Đi ều 36), hòa giải (Điều 37), Ủy ban điều tra (Điều 34), ủy ban hòa giải (Điều 38). Ngoài Hội đồng bảo an, các cơ quan chính khác của Liên Hợp Quốc (như Đại hội đ ồng) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp qu ốc tế. Đ ại h ội đ ồng có th ể áp dụng triệt để các biện pháp hòa bình như hòa giải, đi ều tra, trung gian... (n ếu tranh ch ấp không được chuyển giao cho Hội đồng bảo an), nhằm xem xét và giải quyết linh ho ạt mọi v ấn đ ề. Nh ư vậy có thể thấy rằng, Hội đồng bảo an đã phát huy tối đa vai trò duy trì hòa bình và an ninh qu ốc t ế trong giải quyết các tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, với những tranh chấp quốc tế ở mức độ cao nếu giải quyết bằng các biện pháp hòa bình này sẽ không đạt được hiệu quả. 3
  4. Hoạt động của Liên Hợp Quốc trong trường hợp có sự đe dọa hòa bình, phá hoại 2.2. hòa bình hoặc có hành vi xâm lược. Trong trường hợp có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm l ược thì c ơ quan có thẩm quyền (Hội đồng bảo an) phải thực hiện những hành đ ộng cần thi ết đ ể ngăn ng ừa chiến tranh có thể xảy ra hoặc để bảo vệ an ninh hòa bình quốc tế. Việc này đã đ ược ghi nh ận tại chương VII - Hiến chương Liên Hợp Quốc. Điều 39 Hiến chương Liên Hợp Quốc đã ghi nhận trách nhiệm của Hội đồng bảo an trong việc “xác định sự tồn tại và sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp ... đ ể duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế”. Như vậy, Hội đồng bảo an có trách nhiệm xác định mọi tình hình, xem xét tình hình cụ thể nào có thể đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hay là hành vi xâm l ược. Vi ệc xác đ ịnh th ực t ế tình hình của Hội đồng bảo an là cơ sở quan trọng để Liên Hợp Quốc triển khai các hoạt động ti ếp theo v ề giữ gìn hòa bình. Khi xác định được rằng hành động đó là hành đ ộng đe dọa hòa bình, phá ho ại hòa bình hoặc hành vi xâm lược thì Hội đồng bảo an sẽ ra nghị quyết và áp dụng các biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Cụ thể là: - Yêu cầu các bên phải thi hành các biện pháp tạm thời như ngừng bắn, rút quân v ề v ị trí ban đầu, thiết lập giới tuyến tạm thời... nhằm ngăn chặn không cho tình hình nghiêm trọng h ơn( quy định tại điều 40 Hiến chương liên hợp quốc). Ví dụ như trong trường hợp Irắc xâm lược Côoét, Hội đồng bảo an đã đưa ra nghị quyết số 660 (năm 1990) tuyên bố rằng đây là một ho ạt đ ộng phá ho ại hòa bình - an ninh quốc tế và yêu cầu quân đội Irắc rút khỏi Côoét để giải quyết hòa bình tranh chấp (biện pháp mang tính chất tạm thời). - Khi xét thấy tình hình xấu đi, Hội đồng bảo an có quyền áp d ụng nh ững bi ện pháp phi vũ trang như “cắt đứt toàn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không, bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện liên lạc khác, k ể cả vi ệc c ắt đ ứt quan h ệ ngo ại giao” (được quy định tại Điều 41 - Hiến chương) nhằm trừng trị và làm cho các qu ốc gia vi ph ạm không có điều kiện để thực hiện hành vi vi phạm, đẩy lùi mối đe dọa hòa bình - an ninh quốc tế. - Áp dụng mọi hoạt động quân sự nếu thấy cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế khi xét thấy các biện pháp phi vũ trang là không thích hợp hoặc đã mất hiệu l ực. Ví d ụ, Ngh ị quyết 678 (ngày 29/11/1990) của Hội đồng bảo an cho phép các quốc gia thành viên hợp tác, hỗ tr ợ Côoét nếu tới ngày 15/1/1991 Irắc không rút quân khỏi Côoét. Các biện pháp trên đều mang tính chất cưỡng chế mà Hội đồng bảo an đ ược phép ti ến hành mà không cần đến sự chấp thuận của các bên hữu quan vì Hội đ ồng bảo an (nhân danh Liên H ợp Quốc) là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng các biện pháp c ưỡng ch ế đ ối v ới các qu ốc gia thành viên. Các biện pháp này chỉ được thực hiện khi có sự đe dọa phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược nhằm duy trì hoặc khôi phục hòa bình an ninh quốc tế mà cũng vì một mục đích chung là lợi ích của cả cộng đồng. Những hành động này của Hội đồng bảo an nhằm trừng phạt các quốc gia đã có hành vi đe dọa, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược; hạn chế việc các quốc gia tiếp tục vi phạm. 2.3. Hoạt động gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế. Hoạt đông gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế là việc triển khai các hoạt động quân sự và dân sự để thiết lập sự hiện diện Liên Hợp Quốc tại nơi có xung đột với mục đích ổn đ ịnh tình hình t ại khu vực xung đột và tạo ra những điều kiện thuận lợi để giải quyết xung đ ột cũng nh ư khôi ph ục hòa bình an ninh quốc tế. 4
  5. Hoạt động gìn giữ hòa bình khác với hoạt động giải quyết các tranh chấp qu ốc t ế nh ư đàm phán, điều tra, trung gian (quy định tại chương VI – Hiến chương Liên hợp quốc) và cũng khác ho ạt động cưỡng chế khi có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược (quy định tại chương VII – Hiến chương Liên hợp quốc). Nếu hoạt động giải quyết các tranh chấp quốc tế vô cùng mềm dẻo; hoạt động cưỡng chế khi có sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược vô cùng cứng rắn thì các hoạt động gìn giữ hòa bình và an ninh quốc t ế là bi ện pháp trung gian, kết hợp hài hòa hai biện pháp trên.Thực chất của hoạt động này là duy trì hòa bình thông qua chính trị ngoại giao và các hoạt động khác, chứ không phải sự cưỡng chế bằng vũ lực để th ực hi ện hòa bình. Giai đoạn đầu, hoạt động gìn giữ hòa bình và an ninh qu ốc tế là vi ệc các l ực l ượng vũ trang hạng nhẹ hoặc phi vũ trang được triển khai nhằm giám sát việc ngừng bắn, rút quân. Tính chất của hoạt động là “gìn giữ hòa bình”, “phối hợp giúp đỡ” nên nó thường được áp dụng ở giai đoạn cuối (giai đoạn tranh chấp nảy lửa đã kết thúc). Hiện nay, hoạt động này có nhi ều thay đ ổi: chú tr ọng ngăn chặn xung đột; thường triển khai ở giai đoạn đầu khi mà tranh chấp mới phát sinh; m ở r ộng các hoạt động nhằm bảo vệ trật tự, cứu trợ nhân đạo... Thực tế chứng minh hoạt động gìn giữ hòa bình ngày càng được triển khai áp dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả cao hơn so với các bi ện pháp khác.Ngày nay, Liên hợp quốc nói chung và Hội đồng bảo an nói riêng đã có s ự đi ều ch ỉnh đ ối v ới các hoạt động gìn giữ hoà bình, cụ thể là mở rộng những cơ sở pháp lý và nh ững nhi ệm v ụ m ới (ra đời loại hình gìn giữ hoà bình mở rộng, một số chiến dịch giữ gìn hoà bình được hỗ trợ bằng hành động cưỡng chế...), phát triển về tổ chức các lực lượng gìn giữ hoà bình bao gồm bộ phận quân sự, cảnh sát, dân sự phối hợp với các tổ chức chuyên môn của Liên hợp qu ốc, các t ổ ch ức phi chính phủ..., phát triển mạnh các loại hình chiến dịch. Kết quả lớn nhất của hoạt động gìn giữ hoà bình là góp phần duy trì an ninh quốc tế, hạn chế nhiều cuộc xung đ ột, mang l ại nhi ều hi ệu qu ả tích c ực. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hoạt động gìn giữ hoà bình vẫn còn bộc l ộ nhi ều h ạn ch ế mà hi ện nay cộng đồng quốc tế vẫn đang tìm cách khắc phục. 2.4. Hoạt động chống khủng bố. Nỗ lực của Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn của nó trong th ời gian qua đã t ạo nên cơ cở pháp lý vững chắc cho việc đấu tranh chống khủng bố quốc tế. Liên Hợp Quốc là tổ chức có đủ uy tín và điều kiện để giữ vị trí lãnh đạo, tập hợp l ực l ượng đ ấu tranh v ới kh ủng b ố qu ốc t ế. Ngoài việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động chống khủng bố, Liên Hợp Quốc còn tăng cường xây dựng chiến lược chống khủng bố và xây dựng cơ chế bảo đảm th ực thi các bi ện pháp ch ống khủng bố và hỗ trợ các quốc gia. • Xây dựng chiến lược chống khủng bố. Trong thời gian gần đây, để đáp ứng vai trò trung tâm điều phối cuộc chiến ch ống kh ủng b ố, Liên Hợp Quốc đang nỗ lực đưa ra một chương trình chiến lược cho cuộc đấu tranh với kh ủng bố quốc tế. Tổng thư kí tiền nhiệm của Lỉên Hơp Quốc (ông Kofi Annan) đã đề ra năm nhân tố cơ bản của chiến lược chống khủng bố quốc tế: 1. khuyên ngăn những nhóm chống đối không chọn kh ủng bố như biện pháp thực hiện mục tiêu của chúng; 2. ngăn cản những kẻ khủng bố ti ếp cận nh ững phương tiện thực hiện tấn công; 3. kiềm chế các quốc gia hỗ trợ cho khủng bố; 4. tăng cường năng lực ngăn ngừa khủng bố của các quốc gia; 5. bảo vệ các quyền con người trong cu ộc chi ến ch ống khủng bố. Điều này đã cho thấy được nỗ lực lớn của Liên Hợp Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố. Đề xuất trên sẽ đóng góp vào việc hình thành chiến lược chung của Liên Hợp Qu ốc v ề ch ống khủng bố sau này. 5
  6. • Xây dựng cơ chế, bảo đảm thực thi các biện pháp chống khủng bố và hỗ trợ các quốc gia. Những hoạt động chống khủng bố hiện nay của Liên Hợp Quốc nhìn chung tập trung vào ba cơ quan sau: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an và Tổng thư ký. Trong khuôn kh ổ Đ ại h ội đ ồng, t ừ năm 1972 chống khủng bố là đề mục được ủy ban chuyên trách thuộc ủy ban VI thảo luận thường xuyên, tập trung vào việc xây dựng các công ước về chống khủng bố. Hội đồng bảo an trong vấn đề này cũng thường xuyên ra các nghị quyết về chống khủng bố và thành lập một s ố cơ chế liên quan đến chống khủng bố như ủy ban chống khủng bố, ủy ban 1267, nhóm làm việc 1566... Những cơ quan trên nhấn mạnh vào việc các quốc gia thành viên thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa v ụ của mình theo các công ước và nghị quyết chống khủng bố. Thông qua báo cáo c ủa các qu ốc gia, nh ững c ơ quan này đánh giá mức độ thực hiện nghĩa vụ, năng lực chống khủng bố của các qu ốc gia và từ đó yêu cầu hay đề nghị hỗ trợ thích hợp.Tuy nhiên để thực hiện thành công vai trò điều phối của mình, Liên Hợp Quốc và các nước thành viên cần sớm thống nhất được chiến l ược về chống kh ủng b ố, trong đó cần phải chú ý đến việc giải quyết những nguyên nhân sâu sa c ủa kh ủng b ố qu ốc t ế nh ư chênh lệch phát triển, bất công, nghèo đói, chiếm đóng của nước ngoài... nhằm hoàn thi ện c ơ sở pháp lý quốc tế về chống khủng bố. Bên cạnh đó, Liên Hợp Quốc cũng cần có biện pháp hỗ trợ các quốc gia thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển trong việc tăng c ường năng l ực ch ống khủng bố của mình. Và một nguyên tắc cần tôn trọng là tất cả nh ững ho ạt đ ộng ch ống kh ủng b ố cần được tiến hành phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. 2.5. Hoạt động xét xử tôi phạm chiến tranh. Là một trong 6 cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, Hội đồng bảo an được thành lập nhằm duy trì hòa bình va an ninh quốc tế. Và để thực hiện vai trò chức năng c ủa mình, Hội đ ồng bảo an đã thành lập các tòa án xét xử tội phạm chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự ra đời của tòa Nuremberg và tòa Tôkyô; nhiều tòa án khác được Hội đồng bảo an lập ra trên cơ s ở thừa kế mô hình của hai tòa án nói trên. Trong đó có thể nhắc tới hai tòa án là tòa Adhoc (tòa v ụ vi ệc) t ại Nam Tư cũ và tòa Ruanđa xét xử tội phạm chiến tranh ở hai nước này. Tòa án tội phạm quốc tế Nam Tư cũ – ICTY (International criminal Tribunnal for the former Yugoslavia) được thành lập năm 1993 theo nghị quyết 808 của Hội đồng bảo an về việc xét xử bốn loại tội ác phải trên lãnh thổ Nam Tư cũ từ những năm 1991 (gồm vi pham nghiêm tr ọng công ước Geneva 1949, vi phạm luật lệ chiến tranh, diệt chủng và tội ác chống loài người). Tòa án này ch ỉ có chức năng xét xử cá nhân, không xét xử tổ chức hoặc chính quyền mà hình phạt cao nhất có thể đ ưa ra là án tù chung thân. Tòa án tội phạm quốc tế Ruanđa được thành lập vào năm 1994 theo nghị quy ết 955 c ủa Hội đồng bảo an, theo chương VII - Hiến chương để xử các cá nhân phạm tội diệt chủng và các t ội ác chống loài người trên lãnh thổ Ruanđa và lãnh thổ các nước láng giềng trong năm 1994. Hai cơ quan này thuộc Hội đồng bảo an có nhiệm vụ xét xử tội ph ạm chiến tranh góp ph ần thực hiện vai trò gìn giữ hòa bình của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Bên c ạnh đó, tòa hình s ự quốc tế (ICC) thành lập sau này theo quy chế Rome 1998, có hiệu lực năm 2002, tuy không ph ải c ơ quan thường trực của Hội Đồng bảo an Liên Hợp quốc nhưng hoạt động c ủa tòa án này v ẫn th ể hiện vai trò quan trọng của Hội đồng bảo an. Do đó, quyền khởi kiện lên công t ố viên trong tr ường hợp nhận thấy sự đe dọa phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược của Hội đồng bảo an chính là sự tăng cường, hỗ trợ cho vai trò xét xử tội phạm, đem lại hòa bình công lý. III. Đánh giá về việc thực hiện vai trò của Liên Hợp Qu ốc trong vi ệc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế trong hơn 60 năm qua. 6
  7. 1. Tích cực: Vai trò của LHQ trong việc gìn giữ hoà bình , an ninh quốc tế ngày càng được củng cố và nhận được lòng tin từ các nước thành viên. LHQ cũng là nhân tố thúc đẩy quan h ệ ngoại giao tốt đẹp giữa các nước, thực hiện tốt vai trò điều phối giữa các quốc gia nh ằm duy trì trật t ự thế giới.LHQ cũng đã chủ động tích cực đối phó với các vấn đ ề mới phát sinh và đ ưa ra nh ững giải pháp hữu hiệu, ví dụ như trong hoạt động chống khủng bố đã có nhiều bước tiến đáng kể, từng bước thiết lập được một hệ thống chống khủng bố trên toàn cầu với sự h ợp tác c ủa các nước thành viên. 3.1 Hạn chế Thực tế hoạt động của Liên hợp Quốc trong hơn 60 năm qua cho thấy, bên cạnh nh ững thành tựu đạt được như đã nêu trên, bức tranh về hoà bình, an ninh th ế gi ới mà Liên h ợp qu ốc đóng vai trò chính vẫn còn những “mảng mầu ảm đạm”, gây lo ngại chung cho cộng đồng quốc tế. Trước tiên, hoạt động của các cơ quan của Liên hợp quốc chưa đảm bảo sự cân bằng trong việc đưa ra quyết sách liên quan tới hoà bình và an ninh thế giới. Thẩm quyền của Đại hội đồng còn quá ít so với quy mô và tầm quan trọng của nó. Trong khi đó, hoạt động giữ gìn hoà bình an ninh quốc tế của Liên hợp quốc lại phụ thuộc rất lớn vào 5 nước Ủy viên thường trực trong HĐBA. Nếu 1 trong 5 nước sử dụng quyền phủ quyết thì các nghị quyết của Liên hợp quốc sẽ không được thông qua. Nhiều hoạt động của Liên h ợp qu ốc lấy danh nghĩa là giữ gìn hoà bình an ninh quốc tế nhưng thực ra lại bị lợi dụng để phục vụ cho lợi ích riêng của một trong những thành viên của Hội đồng bảo an. Bằng chứng là nơi nào có gắn nhiều với lợi ích của các thành viên Hội đồng thì nơi đó s ẽ nh ận đ ược nhi ều s ự quan tâm hơn. Hay như đối với lĩnh vực chống khủng bố quốc t ế cũng v ậy, do s ự ki ện 11/9 x ảy ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ nên mới tạo ra những phản ứng nhanh chóng, kịp thời để có một cơ ch ế về chống khủng bố như hiện nay của Hội đồng bảo an. Sự lạm quyền của Hội đồng bảo an có lẽ cũng xuất phát t ừ Hiến chương của LHQ còn tồn tại một số điểm bất cập, không còn phù hợp với thực tế thế giới hiện nay Ví dụ như: Việc quy định cơ chế 5 ủy viên thường trực và 10 ủy viên không thường trực (theo Đi ều 23 Hi ến chương Liên hợp quốc) không còn phản ảnh đúng tương quan lực lượng quốc tế mới. Quan điểm của nhiều quốc gia cho rằng thật không công bằng và thi ếu dân ch ủ n ếu đ ến nay v ẫn ch ỉ có 5 quốc gia có quyền nắm trong tay những đặc quyền trong việc đưa ra nh ững quy ết đ ịnh quan trọng ảnh hưởng tới toàn thế giới. Đìều này dường như khó đáp ứng nổi nguyện vọng chung của cộng đồng quốc tế là mong muốn Liên hợp quốc hoạt động có hiệu qu ả h ơn n ữa trong việc bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế. Nhưng, việc cải tổ Liên hợp quốc lại không thể tiến hành nhanh chóng vì bị ràng buộc bởi các quy định của Hiến ch ương liên h ợp quốc. Đây là một bất cập cần lưu ý. Mặt khác, Liên hợp quốc nói chung và Hội đồng bảo an nói riêng vẫn ch ưa có nh ững biện pháp nhằm giải quyết dứt điểm các vấn đề đang nổi cộm trong quan h ệ quốc t ế như tình hình chiến tranh ở Trung đông, việc thực hiện quyền con người ở Châu Phi, các xung đột liên quan đến sắc tộc, tôn giáo, xung đột chính trị,… C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 7
  8. Tuy nhiên, nhìn vào chức năng, vai trò cũng như những hoạt động của Liên Hợp Quốc chúng ta thấy đây vẫn là tổ chức quốc tế quan trọng và cần thiết đối với việc liên kết các qu ốc gia v ới nhau trong nhiều hoạt động. Do vậy, mặc dù có nhiều điểm hạn chế phát sinh trong quá trình hoạt đ ộng của mình nhưng vai trò của LHQ, đặc biệt trong vấn đề giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế là không thể phủ nhận. Chính vì thế, nhiều năm gần đây đã có nhiều sự hưởng ứng “c ải cách Liên H ợp Quốc”. Muốn vậy,việc đặt ra là có những phương hướng và biện pháp nhằm kh ắc ph ục các h ạn chế, tồn tại để LHQ thực hiện tốt hơn vai trò của mình. D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, NXB CAND, Hà Nội năm 2004. 2. Nguyễn Quốc Hùng – Nguyễn Hồng Quân, Liên Hợp Quốc và l ực l ượng gìn gi ữ hòa bình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008. 3. Tạp chí Luật học, Đặc san kỷ niệm 60 năm thành lập HLO năm 2005. 4. Tạp chí nhà nước và pháp luật số 10 năm 2005, “Liên Hợp Quốc với vai trò duy trì hòa bình và an ninh quốc tế” – Lê Mai Anh. 5. Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc t ế, t ạp chí, Nguyễn Hoài Thương 6. Trang web: • http://www.vietnamembassy-slovakia.vn/vi/vnemb.vn/tin_hddn/ns071011085554 8
nguon tai.lieu . vn