Xem mẫu
- LUẬN VĂN
"LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG"
- MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG................... 1
I. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU ............................ 1
1. Tầm quan trọng của thương mại quốc tế với tăng trưởng và phát triển kinh tế ...................... 1
2. Chiến lược hướng về xuất khẩu ............................................................................................. 1
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG .................................................................................. 3
1.Khái niệm và đặc điểm của thị trường.................................................................................... 3
2. Thị trường hàng hoá xuất khẩu ............................................................................................. 4
III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI........................................................................................................... 5
1 Trung Quốc ........................................................................................................................... 5
2. Thái lan ................................................................................................................................ 5
3. Hàn Quốc ............................................................................................................................. 7
4 Nhật Bản ............................................................................................................................... 2
5. Kết luận về kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của các nước đã và mới
công nghiệp hoá ....................................................................................................................... 5
CHƯƠNG II ........................................................................................................................... 10
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
............................................................................................................................................... 10
2. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam ............................................................. 13
CHƯƠNG III ............................................................................................................................ 4
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ĐẾN
NĂM 2020 ................................................................................................................................ 4
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG. ....................................................................... 4
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại.......................... 4
2. Định hướng phát triển thị trường .......................................................................................... 5
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ........... 7
1. Các giải pháp về sản phẩm ...................................................................................................7
2. Các giải pháp về thị trường ................................................................................................ 11
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 18
- CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
I. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU
1. Tầm quan trọng của thương mại quốc tế với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong tác phẩm “Sự giàu có của các Quốc gia” A.Smith đã chỉ rõ: Thương mại quốc tế là một
trong những hình thức đem lại sự giàu có và thịnh vượng cho mỗi dân tộc, là nhân tố đóng góp
đáng kể cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mở rộng, cho phép tăng chuyên môn hoá sản
xuất, tiếp nhận công nghệ mới, khuyến khích phát minh sáng chế, nâng cao năng suất lao động
dẫn tới tăng tổng sản phẩm quốc dân. Thương mại quốc tế cho phép các quốc gia mở rộng sản
xuất trên cơ sở chuyên môn hoá một cách sâu sắc. Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu
dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều
hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế
độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Ngày nay, Thương mại quốc tế còn là công cụ để hội nhập nền kinh tế các nước và hình thành
kinh tế toàn cầu với một không gian rộng lớn, nhờ đó hiệu quả kinh tế xã hội không ngừng tăng
lên làm tăng chất lượng cuộc sống trên toàn thế giới cũng như ở mỗi quốc gia.
Để đánh giá sự tác động của thương mại quốc tế vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân
người ta sử dụng mối quan hệ tương quan giữa kim ngạch xuất nhập khẩu với GDP, kim ngạch
xuất khẩu so với GDP, kim ngạch nhập khẩu so với GDP và tương quan xuất khẩu so với nhập
khẩu.
Thương mại quốc tế ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế còn được tính toán bởi chỉ tiêu tăng
trưởng xuất nhập khẩu và tăng trưởng xuất khẩu vào 1% tăng trưởng GDP. Nghĩa là để đạt
được 1% tăng trưởng GDP thì kim ngạch xuất nhập khẩu hay kim ngạch xuất khẩu phải tăng
trưởng bao nhiêu phần trăm nếu chúng ta cố định các nhân tố khác.
Tăng trưởng 1% GDP do đóng góp của tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu được tính theo
chỉ số liên hoàn và so với năm gốc.
Chỉ số liên hoàn được tính theo công thức:
Đóng góp cho Tỷ lệ tăng trưởng XK
1% tăng trưởng = xuất khẩu (%) x
GDP của XK
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%) GDP
Chỉ số đóng góp so với thời kỳ gốc (t) được tính theo công thức:
Tỷ lệ tăng trưởng XK (%) XKt+1
Đóng góp cho thời kỳ (t+1)
= x
1% tăng trưởng
GDPt+1
GDP của XK Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)
thời kỳ t
Các chỉ số trên cho ta thấy rằng để tăng trưởng 1% GDP, kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó
có tính đến tác động của cả nhập khẩu phải đạt mức tăng trưởng nhất định. Nếu trung bình cho
thời kỳ 5 năm hoặc 10 năm, các chỉ số này sẽ có tác dụng dự báo các chỉ tiêu GDP tương ứng
với tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu hoặc tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tương ứng.
2. Chiến lược hướng về xuất khẩu
Cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu dựa trên nguyên lý của Keynes về tổng cầu
chứ không phải tổng cung là yếu tố quyết định mức sản xuất (lý luận về tổng cầu hiệu quả). Từ
đó, mở ra lập luận mới về nền kinh tế mở, lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền
sản xuất trong nước. Tình hình đó đòi hỏi người ta phải có phương thức phù hợp, cách đi hợp
lý, cấu trúc lại nền kinh tế sở tại, sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trường thế giới.
- Đây chính là cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu hay còn gọi là chiến lược thúc
đẩy xuất khẩu hướng ngoại.
Bản chất của chiến lược hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh
tranh trên thị trường thế giới nhằm: phát huy lợi thế so sánh của quốc gia; buộc sản xuất trong
nước phải luôn luôn đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại; đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thị
trường (cả trong nước và quốc tế) với giá cạnh tranh không có một con đường nào khác là
chuyển dịch cơ cấu nền sản xuất xã hội phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
Quan điểm hướng về xuất khẩu được hiểu: “Sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá
mà thị trường thế giới cần chứ không phải sản xuất cái ta có”, không chỉ đối với sản phẩm xuất
khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới
và thị trường trong nước.
Nếu như đặc trưng của chiến lược thay thế nhập khẩu là mức bảo hộ cao, kiểm soát nhập khẩu
chặt chẽ, tỷ giá hối đoái ít khuyến khích xuất khẩu thì đặc trưng của chiến lược hướng về xuất
khẩu là mức bảo hộ thấp, hạn chế sử dụng hạn ngạch, giấy phép xuất khẩu và các biện pháp
hạn chế nhập khẩu, sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tỷ giá hối đoái ủng hộ
xuất khẩu.
Ưu thế của chiến lược hướng về xuất khẩu là gắn sản xuất và nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, liên kết các nền kinh tế quốc gia với nhau, tạo ra không gian và nhu cầu kinh tế
rộng lớn hơn nhờ liên kết và buôn bán quốc tế, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Đối với nước
ta, chiến lược hướng về xuất khẩu có nhiều ý nghĩa lớn :
- Xuất khẩu giúp cho việc tạo ra và tăng thu ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị
phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
- Hạn chế bảo hộ công nghiệp địa phương mà thực chất là nuôi dưỡng tính ỷ lại và thay thế vào
đó là nâng đỡ và hỗ trợ cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu
- Bảo đảm môi trường đầu tư cho các nhà tư bản nước ngoài thông qua một hệ thống các chính
sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút đến mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước
ngoài, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhanh chóng đổi
mới hiện đại hoá công nghệ sản xuất và công nghệ kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hoá sản xuất trong nước,
- Chiến lược hướng về xuất khẩu vừa là tác nhân vừa là hệ quả và là sự bảo đảm thắng lợi cho
quá trình tự do hoá thương mại,
- Đẩy nhanh tiến trình hội nhập, có hiệu quả thương mại quốc gia với thương mại khu vực và
toàn cầu.
Tuy nhiên, khi áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu cũng có những nhược điểm:
- Nền kinh tế định hướng hướng về xuất khẩu có thể gây ra sự mất cân đối trầm trọng giữa các
ngành xuất khẩu và không xuất khẩu do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các ngành có
liên quan. Các ngành phục vụ cho xuất khẩu sẽ nhận được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ,
trong khi các ngành không xuất khẩu thì sẽ không được hưởng chính sách này, vì thế các ngành
còn lại sẽ cũng có khuynh hướng hoặc là sản xuất kém hoặc là chuyển dần kinh doanh sang
những hoạt động có liên quan tới xuất khẩu. Điều này khiến cho sự phát triển không đồng đều
giữa các ngành kinh tế,
- Mọi chính sách vĩ mô như điều chỉnh tỷ giả hối đoái, lãi suất ngân hàng.. do quá tập trung vào
khuyến khích xuất khẩu nên có thể dẫn tới những khủng hoảng kinh tế trầm trọng do mất giá
đồng tiền,
- Do ít chú ý tới các ngành công nghiệp phát triển thiết yếu nhất, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng
nhanh nhưng nền kinh tế vẫn gắn chặt với thị trường nước ngoài nên dễ bị tác động bởi những
sự biến đổi của các thị trường lớn,
- - Nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần bị kiệt quệ do bị khai thác triệt để nhằm phục vụ cho
mục tiêu xuất khẩu,
- Nếu quá tập trung vào xuất khẩu mà không coi trọng nhập khẩu thì trong dài hạn, nền kinh tế
dễ bị rơi vào tình trạng tụt hậu, nhất là với các nước đang phát triển khi mà trình độ khoa học
kỹ thuật chưa phát triển.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1.Khái niệm và đặc điểm của thị trường.
1.1 Khái niệm
Theo Samuelson, “thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng
hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá”. Với định nghĩa này, ông
đã đơn giản hoá rằng, đây là một quá trình mua bán diễn ra trực tiếp giữa người mua và bán mà
ít bị sự điều khiển hoặc các yếu tố bên ngoài chi phối tới cả quá trình. Nhưng với David Begg,
thị trường được xem xét dưới nhiều khía cạnh hơn “thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá
trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt hàng nào, quyết định
của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân
về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả”. Nói tóm lại, thị
trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế để thực hiện việc trao đổi hàng hoá trong nền kinh
tế hàng hoá và cụ thể hơn, ở đó cung cầu về hàng hoá gặp nhau và được thoả mãn.
1.2 Đặc điểm của thị trường
Kinh tế thị trường được hiểu là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao dựa trên sự phát triển
của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm làm ra của
những người sản xuất với nhau. Nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi các quy luật khác nhau:
quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ...
Quy luật giá trị đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá phải căn cứ vào giá trị xã hội
trung bình của hàng hoá để sản xuất và trao đổi một cách bình đẳng ngang giá trên thị trường.
Giá cả trên thị trường vận động xoay quanh trục giá trị trung bình của nền sản xuất xã hội, nếu
các nhà sản xuất vi phạm quy luật giá trị thì sẽ dẫn tới thua lỗ và phá sản.
Quy luật cung cầu hoạt động thông qua hai lực lượng cơ bản của thị trường là Cung và Cầu
(Người bán – Người mua, Người sản xuất – Người tiêu dùng …) thuộc hai khâu của quá trình
tái sản xuất xã hội: sản xuất và tiêu dùng. Quy luật này nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng của
Cung và Cầu. Cung cầu không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà thường xuyên tác động qua
lại nhau. Mối quan hệ này xảy ra thường xuyên, lặp đi lặp lại trên thị trường. Vì vậy, để sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, lực lượng sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường phải
xuất phát từ những nhu cầu sẵn có hoặc tiềm năng của thị trường.
Quy luật cạnh tranh là sự biểu hiện của quy luật lợi ích trong nền kinh tế thị trường. Trên thị
trường, với sự tự do sản xuất kinh doanh của nhiếu chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế
tham gia thường dẫn tới sự cạnh tranh lẫn nhau trên tất các các phương diện: cạnh tranh về giá
cả, chất lượng, và dịch vụ phục vụ khách hàng. Quá trình cạnh tranh này có thể xẩy ra giữa
người mua với người bán, người mua với người mua và người bán với người bán với nhau.
Muốn tồn tại và giành thắng lợi trên thương trường, các lực lượng của thị trường cần luôn bám
sát quy luật cạnh tranh. Bởi cạnh tranh là một cuộc chạy đua không có đích cuối cùng làm cho
giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống, chất lượng tăng lên, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp
phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất – kinh doanh, không ngừng ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, cạnh tranh tước quyền thống trị và độc quyền về kinh tế.
Quy luật lưu thông tiền tệ chỉ ra trong thị trường, khối lượng tiền lưu thông phải phù hợp với
tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường. Nếu quy luật này bị vi phạm sẽ dẫn tới ách tắc
trong lưu thông và gây khó khăn dẫn đến mất ổn định nền kinh tế. Do vậy, để tồn tại và phát
triển thị trường hàng xuất khẩu, các thành phần tham gia vào thị trường đều phải tự giác tuân
thủ theo các quy luật thị trường một cách nghiêm túc.
- Nói về thị trường quốc tế, “thị trường quốc tế của một nước là tập hợp những khách hàng nước
ngoài tiềm năng có nhu cầu về những mặt hàng nào đó của nước đó”
2. Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.1 Hàng hoá xuất khẩu
Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá (phân biệt với xuất
khẩu dịch vụ gắn với khái niệm thương mại dịch vụ) theo quy ước của Liên hợp quốc và WTO
là những sản phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất, gia
công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường ngoài nước (xuất khẩu). Hàng
tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá quá cảnh không thuộc diện
của khái niệm hàng hoá xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng ở trong nước. Những
hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất
lượng của hàng hoá phải cao, đảm bảo đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật và môi
trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu. Ví dụ: sản xuất hàng thuỷ sản
xuất khẩu vào khối EU hay Mỹ phải đạt các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP .Vấn đề nhãn
mác hàng hoá gắn liền với uy tín của doanh nghiệp và rất được các nước công nghiệp phát triển
quan tâm.Ví dụ, hàng hoá của Trung Quốc mang thương hiệu Made in China, hàng của Nhật
Bản mang thương hiệu Made in Japan, trong khi đó Việt Nam lại chưa chú ý đúng mức để phát
triển hàng hoá xuất khẩu mang thương hiệu Made in Việt Nam bởi hàng của ta chất lượng kém,
số lượng ít, khối lượng nhỏ.
2.2 Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.2.1 Khái niệm thị trường hàng hoá xuất khẩu
Thị trường hàng hoá xuất khẩu là thị trường trong đó người mua và người bán có quốc tịch
khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá mua bán, chất lượng
hàng hoá cao theo tiêu chuẩn quốc tế, mua bán theo hợp đồng với khối lượng lớn, thanh toán
chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới. Xuất khẩu hàng hoá
bao hàm cả xuất khẩu trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu qua
trung gian). Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt nam hoặc nhập
hàng hoá của Việt nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất
khẩu hàng hoá của Việt nam.
2.2.2 Phân loại thị trường hàng hoá xuất khẩu
Căn cứ vào vị trí địa lý:
Thị trường Châu lục
Thị trường khu vực
Thị trường nước và vùng lãnh thổ
Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương
Thị trường truyền thống
Thị trường hiện có
Thị trường mới
Thị trường tiềm năng
Căn cứ mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát triển thị trường của nước xuất
khẩu đối với các thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính. Đối với loại thị trường này, trong quan
hệ ngoại thương, nước xuất khẩu có thể phải chấp nhận một số thiệt thòi về lợi ích trước mắt để
thu được lợi ích lâu dài (nhất là trong đàm phán ký kết các hiệp định thương mại cấp Chính
phủ). Đây là những thị trường mà một nước sẽ nhằm vào khai thác chính và trong một tương lai
lâu dài.
- Thị trường xuất khẩu tương hỗ. Đối với loại thị trường này, nước xuất khẩu duy trì quan hệ
giao thương theo nguyên tắc tương hỗ - tức là hai nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau
những ưu đãi và nhân nhượng tương xứng nhau, nhất là trong việc mở rộng thị trường.
Căn cứ vào dung lượng và sức mua của thị trường
Thị trường xuất khẩu có sức mua lớn
Thị trường xuất khẩu có sức mua trung bình
Thị trường xuất khẩu có sức mua thấp
Căn cứ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại giữa nước xuất khẩu với nước
nhập khẩu:
Thị trường xuất siêu
Thị trường nhập siêu
Căn cứ mức độ mở cửa của thị trường, mức bảo hộ, tính chặt chẽ và khả năng xâm nhập thị
trường:
Thị trường “khó tính”
Thị trường “dễ tính”
Căn cứ vào sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp của nước xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh
Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh
Căn cứ vào các thoả thuận thương mại cấp Chính phủ và các yêu cầu của đối tác thương mại về
việc có hạn chế hay không hạn chế định lượng nhập khẩu một số mặt hàng:
Thị trường xuất khẩu theo hạn ngạch
Thị trường xuất khẩu không có hạn ngạch
Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường:
Thị trường độc quyền
Thị trường độc quyền “nhóm’
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo : một dạng của loại hình này đã được nhiều nước ứng
dụng thành công khi tìm kiếm thị trường là thị trường ngách
Thị trường ngách được xem như một loại hình thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Thị
trường này đóng một vai trò rất quan trọng cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng
về xuất khẩu, những nước mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém so với các hàng hoá
hiện có trên thị trường quốc tế. Về khái niệm, thị trường ngách là một khoảng trống hay những
“khe nhỏ” trên thị trường, ở đó đã xuất hiện hay tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó.
Những nhu cầu này chưa được các nhà kinh doanh khác phát hiện hoặc phát hiện ra nhưng họ
không có lợi thế hoặc không muốn đầu tư vào để thoả mãn. Song nhu cầu này lại được một số
nhà kinh doanh khác phát hiện và đầu tư để khai thác đưa hàng đến tiêu thụ. Đối với nước ta,
thị trường ngách cần được đặc biệt lưu tâm nghiên cứu để xuất khẩu hàng hoá vì quy mô và
khối xuất khẩu nhiều loại hàng hoá của ta phù hợp với loại thị trường này.
III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1 Trung Quốc
1.1 Khái quát về thực trạng xuất nhập khẩu của Trung Quốc
- Bảng 1.1 Xuất khẩu của Trung Quốc (1978 - 1998)
Đơn vị: 100 triệu USD
Năm 1978 1980 1985 1990 1991 1992 1994 1997 1998
Xuất 97.5 181.2 273.5 620.9 718.4 850 1210.4 1530.7 1520.9
khẩu
Nhập 108.9 200.2 422.5 533.5 637.9 806.1 1156.9 1680.3 1719.1
khẩu
Kim 206.4 381.4 696 1154.4 1356.3 1656.1 2367.3 3211 3240
ngạch
XNK
Thâm -11.4 -19 -149 87.4 80.5 43.9 53.5 -149.6 -198.2
hụt
TMQT
(Nguồn: IMF, Intellegent Unit, 1998 và Keigetsu ho - Toyo Kenzai 9 - 99, No. 9, Vol. 59, P 45
– 46)
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thời kỳ 1978 - 1998 tăng trung bình 16.5% hàng
năm. Sau khủng hoảng tài chính khu vực, Trung quốc cam kết duy trì ổn định đồng Nhân dân
tệ với mục tiêu ngăn chặn mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế khu vực.
Đồng Nhân dân tệ trong giai đoạn này bị đánh giá cao, trong khi sức cạnh tranh của các nền
kinh tế khủng hoảng được cải thiện nhờ phá giá, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Trung quốc
giảm đáng kể.
Đồ thị 1.2 Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung quốc
140.0%
120.0%
100.0%
80.0%
60.0%
40.0%
20.0%
0.0%
1978 1980 1985 1990 1991 1992 1994 1997 1998
-20.0%
T¨ ng tr ëng xuÊt khÈu T¨ ng tr ëng nhËp khÈu
Đồ thị 1.2 Thâm hụt cán cân thương mại Trung quốc
- Thâm hụt thương mại đã có thời kỳ bằng khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu (năm 1985). Trong
20.0%
10.0%
0.0%
1978 1980 1985 1990 1991 1992 1994 1997 1998
-10.0%
-20.0%
-30.0%
-40.0%
-50.0%
-60.0%
Th©m hôt/xuÊt khÈu
thời kỳ 5 năm 1990-1994, Trung quốc đạt thặng dư trong cán cân thương mại nhưng ở mức độ
nhỏ, chỉ tương đương với khoảng 5% tổng giá trị xuất khẩu trong thời kỳ này. Mặc dù vậy, đây
cũng là nhân tố quan trọng góp phần tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ của Trung quốc trong thời kỳ
này.
1.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc
Kinh nghiệm đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc xác định tập trung mở cửa kinh tế để thúc đẩy
xuất khẩu. Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp để mở cửa nền kinh tế bao gồm:
Trung Quốc ưu tiên phát triển các đặc khu kinh tế. Ngay từ những năm 1979, Trung Quốc đã
thành lập các đặc khu xuất khẩu, nhưng ngay sau đó đã đổi thành đặc khu kinh tế vì các đặc
khu xuất khẩu bị hạn chế ở khả năng chế biến và xuất khẩu. Sau đó, các đặc khu kinh tế được
phát triển thành các khu trung tâm thương mại lớn, có các cơ sở gia công xuất khẩu tiên tiến,
những khu sinh hoạt có chất lượng cao với đầy đủ tiện nghi phục vụ, những trung tâm thông tin
quốc tế lớn. Việc xây dựng các trung tâm thương mại lớn được thực hiện bằng bước thứ nhất,
chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề và bước thứ
hai, huy động vốn đầu tư, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo điều kiện của từng đặc
khu. Xây dựng các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư khác nhau: vốn trong nước, vốn nước
ngoài hay vốn liên doanh.
Trung Quốc còn ưu tiên tập trung mở cửa các thành phố ven biển. Trung Quốc tiến hành mở
cửa 14 thành phố vùng duyên hải, thành lập tại đây các khu công nghiệp kỹ thuật cao, thực thi
chính sách khuyến khích các loại hình gia công xuất khẩu để tận dụng nguồn lao động dồi dào,
đồng thời áp dụng các biện pháp để nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu ngành nghề vùng ven biển.
Các thành phố ven biển là các khu vực mở cửa về kinh tế - kỹ thuật, trở thành những cầu cảng
lớn giúp Trung Quốc hướng ra thị trường Thái Bình Dương, Tây Âu và Bắc Hoa Kỳ. Các thành
phố này được hưởng các quy chế ưu tiên như tại các đặc khu kinh tế trong hoạt động xuất khẩu
nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực mở cửa các cửa khẩu biên giới Đông Bắc và Tây Nam. Phát
huy ưu thế cuả 228 000 km đường biên giới chung giữa 9 tỉnh và khu tự trị với 15 quốc gia
châu Á khác, Trung Quốc rất chú trọng đến việc phát triển hoạt động biên mậu. Ngoài hình
thức trao đổi hàng là chủ yếu, Trung Quốc rất chú trọng đến việc phát triển các hình thức buôn
bán khác như đưa sức lao động, thiết bị kỹ thuật và mẫu hàng ra nước ngoài để đổi lấy những
mặt hàng, nguyên vật liệu quý hiếm trong nước còn thiếu.
Chính phủ Trung Quốc tiến hành đổi mới bộ máy tổ chức ngoại thương cho ngày càng gọn nhẹ,
giảm bớt sự rườm rà trong thủ tục hành chính, giúp cho hoạt động xuất khẩu thuận lợi.
- Để giúp các xí nghiệp ngoại thương thoát khỏi tình trạng lệ thuộc và thiếu năng động, Trung
Quốc đã từng bước tách chức năng của chính quyền khỏi họat động của xí nghiệp. Nhờ đó các
xí nghiệp ngoại thương đã có được quyền hạn thực sự, chủ động hơn trong hoạt động của
mình.. Chính phủ đã đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa phương với những nội dung:
- Đưa quyền sản xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp sản xuất cỡ nhỏ và vừa, từng
bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho Tổng công ty xuất nhập khẩu.
- Cho phép các địa phương có thể thành lập các công ty ngoại thương địa phương. Các thành
phố trực thuộc Trung ương và tỉnh cũng được phép thành lập Tổng công ty ngoại thương riêng.
- Cho phép 19 Bộ, Ngành của Trung Ương được thành lập công ty xuất nhập khẩu.
Bên cạnh việc đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa phương, Trung Quốc còn thực hiện
chế độ trách nhiệm khoán ngoại thương. Hình thức khoán được thực hiện theo phương thức:
Tổng công ty ngoại thương Trung ương giao khoán xuất nhập khẩu trực tiếp cho các địa
phương. Các địa phương chịu trách nhiệm về mặt xuất khẩu, thu ngoại tệ xuất khẩu và giao nộp
ngoại tệ lên trên, bảo đảm đầy đủ chỉ tiêu với nhà nước. Sau khi đã nhận khoán, các địa
phương giao chỉ tiêu khoán xuống các doanh nghiệp và cơ sở hoạt động ngoại thương trong
tỉnh, thành phố hay huyện. Chế độ khoán này được xây dựng dựa trên cơ sở điều chỉnh hối
suất, xoá bỏ chế độ bù lỗ xuất khẩu đối với các xí nghiệp ngoại thương.
Thứ nhất, Trung Quốc đã mạnh dạn cái cách thể chế kế hoạch ngoại thương từ chế độ hai chiều
sang chế độ một chiều là chính. Địa phương là người chính thức nhận khoán trực tiếp nhiệm vụ
xuất nhập khẩu ngoại thương của Nhà nước. Lấy mốc kế hoạch xuất khẩu của năm 1988, Nhà
nước xác định những năm về sau, phần hàng hoá xuất khẩu thực hiện theo kế hoạch quản lý
một chiều giữa Trung ương và địa phương chiếm 70% kế hoạch, phần hàng hoá xuất khẩu thực
hiện theo chế độ quản lý hai chiều chiếm 30%. Về kế hoạch xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu
thuộc kế hoạch có tính pháp lệnh chiếm 30% tổng mức xuất khẩu hàng hoá, hàng hoá thuộc kế
hoạch có tính chất hướng dẫn chiếm khoảng 15% tổng mức xuất khẩu, 55% tổng mức xuất
khẩu được buông lỏng, thực hiện tự do kinh doanh thả nổi, do thị trường điều tiết. Việc làm này
khiến cho các địa phương có được tính tự chủ trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá.
Thứ hai, Trung Quốc đã thực hiện thể chế quản lý tài chính ngoại thương. Chính phủ Trung
Quốc đã thực hiện buông lỏng quan hệ tài vụ ngoại thương, tách rời sự bó buộc tài chính giữa
Trung ương với địa phương để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và tự
chịu lãi, lỗ. Việc tiến hành hạch toán theo phương thức khoán ngoại thương, đồng thời mở rộng
phạm vi sử dụng vốn để thúc đẩy kinh doanh, tăng lãi, giảm lỗ đã Nhà nước tránh khỏi việc
phải bù lỗ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ còn thực hiện giảm thuế
doanh thu cho các doanh nghiệp ngoại thương thu mua hàng hoá để xuất khẩu và các doanh
nghiệp đại lý cung ứng hàng hoá xuất khẩu.
Thứ ba, Trung Quốc thực hiện phân phối lại lợi nhuận trong ngoại thương. Trung quốc cho
phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu được giữ lại toàn bộ lợi nhuận. Việc làm này không làm cho
sản xuất phát triển, Nhà nước phải thực hiện bù lỗ nhiều cho xuất khẩu hàng hoá. Tới 1988,
trên cơ sở cải cách chế độ khoán kinh doanh ngoại thương, Trung Quốc thực hiện cải cách triệt
để hơn thể chế phân phối lợi nhuận của đơn vị ngoại thương với biện pháp khoán rộng, đưa
mức khoán thu ngoại tệ xuất khẩu cho toàn bộ doanh nghiệp ngoại thương các cấp, các loại
hình, nộp lợi nhuận và ngoại tệ theo hệ số cơ bản, đồng thời khoán doanh số cho các xí nghiệp:
nếu tăng cũng không thu, nếu lỗ sẽ không bù.
Sử dụng các công cụ về thuế, chính sách trợ cấp xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính, chính sách tỷ
gía hối đoái, hỗ trợ xúc tiến thương mại và tìm cách vượt qua rào cản về hàng rào kỹ thuật của
các nước nhập khẩu cũng là một kinh nghiệm khác của Trung Quốc trong việc thúc đẩy xuất
khẩu thành công.
- Đối với công cụ thuế. Trong hoạt động thu thuế xuất khẩu, Chính phủ Trung Quốc thực hiện áp
dụng thu thuế điều tiết xuất khẩu đối với hàng hoá có doanh thu lớn, nếu xuất khẩu không có
lãi và lợi nhuận dưới 7,5 % thì không thu.
Để thúc đẩy xuất khẩu, Trung Quốc áp dụng chế độ thoái thu thuế giá trị gia tăng đã nộp (áp
dụng VAT đầu ra bằng 0% cho hàng xuất khẩu).
Chế độ hoàn thuế xuất khẩu được Trung Quốc bắt đầu áp dụng từ năm 1983. Đến nay, các loại
thuế sản phẩm được được hoàn lại bao gồm: thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh
thu và thuế tiêu dùng. Đối với việc áp dụng chế độ này, Quốc vụ viện đã yêu cầu phải thực hiện
theo nguyên tắc thu bao nhiêu thì hoàn bấy nhiêu, hoàn thuế triệt để, không thu thì không hoàn.
Để đảm bảo chính sách này được thi hành triệt để, ngành thuế vụ Trung Quốc còn phối hợp với
các ngành hữu quan để có các biện pháp quản lý hoàn thuế xuất khẩu và đặc biệt chú trọng tới
việc hoàn thiện chính sách này.
Đối với chính sách trợ cấp xuất khẩu, Trung Quốc thực hiện chính sách này ngay từ những năm
đầu mở cửa. Để chuẩn bị ra nhập WTO, Trung quốc xoá bỏ trợ cấp cho xuất khẩu kể từ
1/1/1999. Nhưng các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vẫn nhận được trợ cấp gián tiếp
như giảm giá năng lượng, nguyên liệu thô và nhân công; ưu đãi tín dụng (doanh nghiệp xuất
khẩu được vay với lãi suất ưu đãi, bảo hộ rủi ro theo thông lệ quốc tế).
Hỗ trợ về tài chính. Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng đầu tư Trung Quốc, Tổng cục kiểm
soát ngoại tệ là những tổ chức tài chính quan trọng được thành lập với nhiệm vụ trợ giúp tài
chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu. Tất cả cơ quan có quan hệ buôn bán với nước ngoài đều phải mở tài khoản ở Ngân
hàng Trung Quốc và thông qua đó để thực hiện để thực hiện mọi giao dịch ngoại tệ. Ngân hàng
Trung Quốc thực hiện giám sát các công ty, các xí nghiệp sử dụng số ngoại tệ thu được từ xuất
khẩu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ xuất khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái. Trung Quốc sử dụng như một công cụ để tăng cường xuất khẩu.
Trước 1979, việc quản lý ngoại hối theo cơ chế tập trung đã kìm hãm sự xuất khẩu. Vì thế, để
thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ thực hiện cải cách thể chế quản lý ngoại hối thông qua điều
chỉnh tỷ giá hối đoái và thực hiện chế độ giữ lại ngoại tệ. Trung Quốc loại bỏ chế độ hạn chế
khối lượng ngoại tệ tối đa. Theo hệ thống tài chính mới, các công ty và doanh nghiệp xuất khẩu
có khoản thu ngoại tệ được bán ra theo tỷ giá thị trường. Sự thay đổi này cũng có lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài (trước đây họ bị buộc phải đăng ký nguồn vốn của mình theo tỷ giá
chính thức của nhà nước song lại phải mang lợi nhuận về theo tỷ giá cao hơn trên thị trường
chứng khoán)
Hỗ trợ xúc tiến thương mại. Các cơ quan thương vụ của Trung Quốc đã có nhiều cố gắng trong
việc liên hệ với các ngành, các giới kinh doanh của các nước sở tại để thúc đẩy xuất khẩu như
tham gia tích cực vào việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại; bảo vệ quyền lợi của
các doanh nghiệp nước mình ở các nước sở tại, giúp đỡ các tổ chức đoàn thể hoạt động ngoại
thương ở trong nước sang làm việc và buôn bán với nước ngoài.
Trung Quốc còn cho thành lập các công ty thương mại quốc tế tổng hợp, hoạt động trong nhiều
lĩnh vực và có nhiều chi nhánh ở nhiều nước. Trong thời gian đầu hoạt động, các hãng này
được hỗ trợ nhiều mặt như vốn, xác địng ngân hàng chủ quản, cho phép được quyền huy động
vốn của nước ngoài, ưu tiên xem xét nếu có điều kiện chín muồi thì có thể huy động vốn bằng
cổ phiếu.
Trung Quốc đã thiết lập hệ thống kênh phân phối thông qua hệ thống mạng lưới Hoa kiều ở
khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tìm cách vượt hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Trung
Quốc cố gắng ký kết các hiệp định thương mại với các nước để được hưởng những nhượng bộ
về buôn bán. Đồng thời, Trung Quốc còn nghiên cứu kỹ hàng rào kỹ thuật trong thương mại
- của các nước bạn hàng để xem ảnh hưởng như thế nào đối với việc xuất khẩu những mặt hàng
chủ yếu của mình, từ đó đưa ra các biện pháp đối phó thích hợp.
Kinh nghiệm quan trọng trong thúc đẩy thị trường hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc là việc
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trung Quốc đề ra kế hoạch lấy khoa học kỹ thuật thúc
đẩy phát triển mậu dịch. Nội dung của kế hoạch này gồm: trong 3 năm xây dựng một loạt các
cơ sở sản xuất sản phẩm kỹ thuật cao của 5 ngành: tin học, công nghệ sinh học, vật liệu xây
dựng, hàng điện tử, hàng tiêu dùng; đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu hàng kỹ thuật cao, đối với các
sản phẩm xuất khẩu chủ đạo cần có bản quyền sở hữu công nghiệp; tạo môi trường thuận lợi để
tiếp cận kỹ thuật cao, đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất trong
nước; tổ chức các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sản phẩm cao đạt tiêu chuẩn ISO.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu được chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 sẽ lấy xuất khẩu hàng
công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động làm trọng tâm, thay thế dần xuất khẩu những sản
phẩm thô, sơ cấp, nông nghiệp. Giai đoạn 2, lấy xuất khẩu sản phẩm công nhiệp làm thành
phẩm, công nghiệp nặng, hoá chất sử dụng nhiều vốn thay thế những sản phẩm sơ cấp và công
nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Giai đoạn 3 sẽ xuất khẩu sản phẩm kỹ thuật cao, đòi hỏi tri
thức và công nghệ tiên tiến.
2. Thái lan
2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan
Bảng 2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan thời kỳ 1979-1999
1979 1989 1998 1999 1999-03
GDP (Tỷ USD) 27.4 72.3 112.1 124.3
Tăng trưởng GDP 6.8 5.4 -10.2 4.2 5.0
Xuất khẩu (triệu USD) 6269 25291 66400 71485
Nhập khẩu (triệu USD) 8137 27127 48813 57577
Cán cân thanh toán (triệu USD) -2086 -2498 14434 11346
Tăng trưởng xuất khẩu 12.5 10.0 6.7 8.9 9.0
Tăng trưởng nhập khẩu 8.0 6.3 -22.3 19.6
Xuất khẩu/GDP 22.6 34.9 58.6 57.1
Thâm hụt/GDP -7.6 -3.5 12.9 9.1
Thâm hụt/xuất khẩu -33.27 -9.88 21.74 15.87
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng thế giới, World Development Indicator
2001, CD-ROM
Đồ thị 2.1 Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu và GDP của Thái lan
Đồ thị 2.2 Thâm hụt cán cân thanh toán của Thái lan thời kỳ 1979-1999
25
20
15
10
5
0
1979 1989 1998 1999 1999-03
-5
-10
-15
-20
-25
T¨ ng tr ëng GDP T¨ ng tr ëng xuÊt khÈu T¨ ng tr ëng nhËp khÈu
- 40
30
20
10
0
1979 1989 1998 1999
-10
-20
-30
-40
-50
Th© hôt/GDP
m Th©m hôt/xuÊt khÈu
Bảng 2.1, đồ thị 2.1 và đồ thị 2.2 đã đưa ra một bức tranh khái quát về tình hình tăng trưởng
xuất nhập khẩu của Thái lan trong thời gian 1979-1999. Một điều đáng ngạc nhiên là trong khi
Thái lan là một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực thì năm 1998, 1999 lại chứng kiến thặng dư trong cán cân thanh toán của Thái lan. Lý
do của hiện tượng này là do xuất khẩu giảm sút, nhưng đồng thời nhu cầu nhập khẩu cũng
giảm nhanh chóng. Suy giảm của nhập khẩu có thể được xem xét là kết quả của sự suy giảm
dòng vốn FDI, và suy giảm của cầu trong nước đối với hàng hoá nhập khẩu
2.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Thái Lan
Trong những năm gần đây, Chính phủ Thái lan đã thể hiện quyết tâm trong việc hợp tác chặt
chẽ với khu vực tư nhân để thực hiện các chiến lược phát triển, tạo điều kiện cho hàng hoá từ
Thái lan xâm nhập vào những thị trường mới. Mục tiêu của Chính phủ Thái lan là nhằm tăng
cường các dịch vụ và phương tiện công cộng cơ bản đã được thiết lập để hỗ trợ cho các nhà
xuất khẩu và để khuyến khích việc đa dạng hoá các sản phẩm và thị trường.
Thái Lan đã tích cực thành lập các uỷ ban và cục: Uỷ ban đầu tư, Cục xúc tiến xuất khẩu và Uỷ
ban phát triển xuất khẩu cũng như các thông tin thương mại quốc tế.
Uỷ ban đầu tư dành ưu tiên cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên vật liệu
trong nước hoặc thuê một lực lượng lớn lao động, thu được ngoại tệ đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế vùng ngoài thủ đô. Bất cứ một dự án khả thi nào mà xuất khẩu được 80% hoặc nhiều
hơn thì được Uỷ ban đầu tư hỗ trợ. Các biện pháp mà Uỷ ban đầu tư dành ưu đãi cho các dự án
có định hướng xuất khẩu gồm:
Miễn thuế nhập khẩu và thuế kinh doanh đối với các nguyên vật liệu và các chi tiết nhập khẩu.
Miễn thuế nhập khẩu và thuế thuế kinh doanh đối với các mặt hàng tái xuất.
Miễn thuế kinh doanh cho các nhà sản xuất hoặc các thương nhân buôn bán nguyên vật liệu
hoặc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu.
Uỷ ban cũng sẽ cung cấp ưu đãi đầu tư nếu dự án đáp ứng các tiêu chuẩn như tăng ngoại tệ
thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực trong nước, tăng đáng kể
công ăn việc làm, hoạt động ở các tỉnh, bảo vệ được nguồn năng lượng hoặc thay thế các nguồn
nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu và thiết lập hoặc phát triển các ngành cơ bản làm nền tảng
cho những bước phát triển tiếp theo của các ngành khác.
Bên cạnh Uỷ ban đầu tư, Cục xúc tiến xuất khẩu và Uỷ ban phát triển xuất khẩu có chức năng
tăng cường sự công nhận quốc tế về các sản phẩm của Thái lan và hỗ trợ cho khách hàng nước
ngoài mong muốn làm ăn với Thái lan. Nhiệm vụ của Cục này bao gồm:
Phát triển và lên kế hoạch về hoạt động đẩy mạnh khuếch trương và phát triển xuất khẩu, giám
sát thực hiện các chương trình hành động phát triển xuất khẩu
- Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc bán các sản
phẩm của Thái lan.
Cung cấp thông tin và dịch vụ thương mại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu của Thái lan và các
nhà nhập khẩu nước ngoài.
Trợ giúp và hỗ trợ phát triển chất lượng, kiểu dáng các sản phẩm của Thái lan.
Đưa ra các nguyên tắc để giải quyết các khó khăn trong hoạt động xuất khẩu
Hợp tác và phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước để đẩy mạnh các hoạt động khuyếch
trương xuất khẩu.
Thêm vào đó, Chính phủ Thái lan còn đưa ra các biện pháp xúc tiến xuất khẩu mà các nhà xuất
khẩu của Thái lan cho là khuyến khích họ nhất. Kế hoạch cắt giảm thuế và miễn thuế đối với
nguyên liệu thô, miễn thuế thu nhập và giảm thuế nhập khẩu, thuế kinh doanh đối với các thiết
bị máy móc. Tuy nhiên, khi thực thi chính sách miễn giảm thuế này, một số công ty xuất khẩu
nhỏ của Thái lan đã chứng minh để nhận được ưu đãi đó họ cần phải thực hiện một số cam kết
nào đó có thể không thích hợp đối với kinh doanh của họ. Ví dụ như việc thuê người thông thạo
làm các thủ tục giấy tờ, nhiều khi chi phí này cao hơn khoản họ được hưởng.
Đối với hệ thống tài chính cho xuất khẩu. Kinh nghiệm đã thực hiện tại Thái lan cho chúng ta
thấy, các nhà xuất khẩu mới và nhỏ nhiều khi phải đối mặt với những trở ngại lớn để nhận được
tài trợ từ các ngân hàng của mình. Họ gặp nhiều khó khăn trước khi có đủ điều kiện để nhận
được tài trợ từ ngân hàng. Họ cũng gặp bất lợi trong quá trình tìm kiếm khoản hỗ trợ tài chính
vì thiếu các khoản thế chấp hữu hình. Mặc dù cơ cấu mới có kế hoạch phân bổ nguồn tín dụng
cho các nhà xuất khẩu nhỏ thì một số vấn đề vẫn tồn tại trong việc hỗ trợ các nhà xuất khẩu
nhỏ. Những nhà xuất khẩu nào có giấy phép xuất khẩu đều có thể nhận được khoản tín dụng cả
gói, nghĩa là nhận được hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ. Mặt khác, các nhà sản xuất không vì
mục đích xuất khẩu chỉ có thể nhận khoản tín dụng này với lãi suất cao hơn. Điều này có thể
gây ra sự khác biệt giữa hai nhóm nhà sản xuất. Bản thân các nhà xuất khẩu có thể sử dụng sai
mục đích hoặc không hợp lý các khoản tín dụng ưu đãi trên, dùng cho mục đích kinh doanh
khác ngoài xuất khẩu. Hơn nữa, lãi suất tín dụng cho xuất khẩu thấp hơn nhiều so với lãi suất
thị trường, nhu cầu được tái cấp vốn tăng lên đáng kể, ngân hàng trung ương Thái lan nếu
không quản lý chặt chẽ được phương thức này thì có thể bị đe doạ tới tình hình phát triển kinh
tế cuả đất nước.
Thái lan còn tăng cường thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân. Khu vực này năng động đã
thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, đa dạng hoá cơ cấu xuất khẩu cả về sản phẩm lẫn thị trường.
Thái lan mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá, tư nhân hoá một số lĩnh vực hoạt động công
cộng. Chính sách tỷ giá linh hoạt và hệ thống thanh toán tự do đã được thực hiện. Chính những
chính sách này đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩy xuất khẩu.
3. Hàn Quốc
3.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Hàn quốc
- Bảng 3.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Hàn quốc
1979 1989 1998 1999 1999-03
GDP (Tỷ USD) 64.6 221.2 317.1 406.9
Tăng trưởng GDP 8.6 6.1 -6.7 10.7 6.7
Xuất khẩu (triệu USD) 19097 70790 157686 171692
Nhập khẩu (triệu USD) 22603 65985 115035 143973
Cán cân thanh toán (triệu USD) -4151 5360 40954 25010
Tăng trưởng xuất khẩu 12.5 14.8 13.2 16.3 9.6
Tăng trưởng nhập khẩu 9.0 10.4 -22.4 28.9
Xuất khẩu/GDP 27.2 32 49.4 42.1
Thâm hụt/GDP -6.4 2.4 12.9 6.1
Thâm hụt/xuất khẩu -21.74 7.57 25.97 14.57
Nguồn: tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng thế giới, World Development Indicator 2001
Đồ thị 3.1 Tăng trưởng xuất nhập khẩu của Hàn quốc
Đồ thị 3.2. Thâm hụt cán cân thanh toán hàn Quốc thời kỳ 1979 - 1999
40
30
50
40
20
30
10
20
0
10 1979 1989 1998 1999 1999-03
-10
0
1979 1989 1998 1999
-10
-20
-20
-30
-30 T¨ ng tr ëng GDP T¨ ng tr ëng xuÊt khÈu T¨ ng tr ëng nhËp khÈu
-40
Th©m hôt/GDP Th©m hôt/xuÊt khÈu
Trong suốt thời kỳ từ 1989 tới nay, Hàn Quốc luôn đạt thặng dư trong xuất nhập khẩu, nghĩa là
luôn đạt tỷ lệ xuất siêu. Năm 1998, do tác động của khủng hoảng tài chính trong khu vực Đông
Nam Á, nhập khẩu của Hàn Quốc đã giảm một cách đáng kể so với năm trước (22,4%), nhưng
xuất khẩu vẫn tăng cao. Thặng dư cán cân thương mại thời kỳ này đạt mức cao nhất. Đối với
Hàn Quốc, xuất khẩu luôn chiếm một tỷ trọng cao trong tổng GDP có khi lên tới gần 50% vào
năm 1998. Đó là một trong những lý do giúp cho Hàn Quốc tăng trưởng kinh tế cao.
3.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Hàn Quốc
Hàn Quốc không đánh thuế đối với mặt hàng xuất khẩu. Vật tư, nguyên liệu cho sản xuất hàng
xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu. Hàn Quốc cho phép tự do hoá xuất khẩu hầu hết các mặt
hàng, chỉ rất ít các mặt hàng chịu sự điều tiết của Nhà nước (chỉ quan tâm tới những mặt hàng
liên quan đến luật vệ sinh thực phẩm, thiết bị y tế, hoá mỹ phẩm ..
Về tín dụng, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện tín dụng xuất khẩu dưới ba hình thức: vốn xuất
khẩu dành cho nhà cung cấp trong nước, vốn trực tiếp dành cho người mua nước ngoài, vốn
- cho vay lại bằng cách EXIMBANK của Hàn Quốc cho ngân hàng nước ngoài vay tiền với lãi
suất thấp để ngân hàng này cho người mua vay lại để mua hàng hoá của Hàn Quốc.
Cục xúc tiến thương mại của Hàn Quốc, Phòng Thương mại và Công nghiệp cùng với các Viện
nghiên cứu thực hiện cung cấp miễn phí một cách dễ dàng các thông tin cần thiết về thị trường,
cơ hội làm ăn. Mạng lưới các trung tâm cung cấp tông tin này được đặt ở nhiều nơi trên thế giới
nhằm mục đích thu thập thông tin thị trường, kinh tế, chính trị từ các nước một cách nhanh nhất
và cập nhật nhất.
Chính phủ Hàn Quốc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay ngắn hạn với lãi suất phù hợp để
tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới và những doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu những mặt
hàng mới. Nhà nước còn hỗ trợ một phần về tài chính để giúp các doanh nghiệp này có thể
tham dự hội chợ hay triển lãm ở nước ngoài nhằm mục đích giới thiệu và quảng cáo mặt hàng
của mình với nước ngoài.
4 Nhật Bản
4.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản
Bảng 4.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản
1979 1989 1998 1999
GDP (Tỷ USD) 1011 2899.3 3783 4395.1
Tăng trưởng GDP 3.7 1.6 -2.8 1.4
Xuất khẩu (triệu USD) 117130 311254 436456 464692
Nhập khẩu (triệu USD) 126730 267831 363488 395527
Cán cân thanh toán (triệu USD) -8740 63215 120696 106865
Tăng trưởng xuất khẩu 5.2 5.1 6.47
Tăng trưởng nhập khẩu 12.5 9.2 8.81
Xuất khẩu/GDP 11.6 10.7 11.5 10.6
Thâm hụt/GDP -0.86 2.18 3.19 2.43
Thâm hụt/xuất khẩu -7.46 20.31 27.65 23.00
(Nguồn: Tác giả tính toán từ nguồn số liệu của Ngân hàng thế giới, World development
Indicator CD – ROM)
Đồ thị 4.1 Tăng trưởng xuất nhập khẩu và GDP của Nhật Bản
- 14
12
10
8
6
4
2
0
1979 1989 1998 1999
-2
-4
T¨ ng tr ëng GDP T¨ ng tr ëng xuÊt khÈu T¨ ng tr ëng nhËp khÈu
Đồ thị 4.2 Thâm hụt cán cân thương mại của Nhật Bản
35.00
30.00
25.00
20.00
15.00
10.00
5.00
0.00
1979 1989 1998 1999
-5.00
-10.00
-15.00
Th©m hôt/GDP Th©m hôt/xuÊt khÈu
Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản sau những năm khủng hoảng đã chuyển sang một
hướng khác đó là việc mở rộng cửa cho các nước khác xuất khẩu vào Nhật Bản. Qua bảng 3.4.1
ta thấy, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của Nhật Bản nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của xuất
khẩu. Nguyên nhân làm cho nhập khẩu tăng nhanh hơn so xuất khẩu có thể là do sự rps buộc
của các cường quốc mạnh - các cường quốc liên tục bị nhập siêu từ Nhật Bản. Nhật Bản dùng
chính sách tăng nhập khẩu cũng chủ yếu để làm hoà giải mối quan hệ buôn bán với các nước
bạn hàng. Tuy nhiên, tốc độ nhập khẩu của Nhật Bản đã giảm nhẹ từ 12% (1979) xuống còn
8,8% năm 1999. Tốc độ xuất khẩu tăng nhưng vẫn thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Nhật Bản luôn
là một nước thực hiện xuất siêu rất cao.
4.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản
- Nhật Bản là một nước bị ảnh hưởng tương đối nặng nề hậu quả của chiến tranh và là một nước
hoàn toàn thiếu nguyên liệu sản xuất. Nhưng chỉ sau chiến tranh thế giới II, tức là vào những
năm 50s hay 60s, nền kinh tế Nhật Bản đã khôi phục và phát triển một cách nhanh chóng đã
làm cho vị thế của Mỹ và các nước Tây Âu lay động trên thương trường quốc tế. Hiện nay, sản
phẩm dân dụng của Nhật (ôtô, xe gắn máy, hàng điện, điện tử) đã có mặt mọi nơi trên thế giới
và chiếm được uy tín cao đối với khách hàng toàn cầu ở mặt chất lượng của sản phẩm.
Hệ thống chính sách của Nhật Bản đã đem lại những đóng góp lớn lao cho sự thành công của
mình.
Đối với kế hoạch và chính sách. Nhật Bản đã sử dụng hệ thống chính sách và Chính phủ chịu
trách nhiệm cao nhất trong xây dựng kế hoạch công nghiệp. Kế hoạch của Chính phủ Nhật
Bản bao gồm việc làm rõ phương hướng kinh tế xã hội, chỉ rõ phương hướng chính sách của
Chính Phủ nhằm thực hiện mục tiêu chương trình và trong hệ thống kế hoạch của mình, Chính
phủ còn đưa ra những chỉ dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh.
Về chính sách tài chính. Nhật Bản hạn chế chi trong phạm vi thu, bảo đảm cân bằng ngân sách.
Chính phủ luôn giữ mức thuế suất thấp đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước để
khuyến khích họ sản xuất, tập trung tăng cường đầu tư vào hiện đại hoá nhà máy. Thay vào
việc lấy thuế làm nguồn thu chính cho Ngân sách, Chính phủ đã tăng cường sử dụng hình thức
phát hành công trái để vay tiền dân.
Chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản liên tục thực hiện chính sách lãi suất thấp
trong những năm sau chiến tranh thế giới II để khuyến khích các công ty trong nước tích cực sử
dụng nguồn vốn vay Ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Chế độ quản lý xí nghiệp. ở Nhật Bản, chế độ quản lý ở xí nghiệp rất độc đáo, và có lẽ điều này
đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự nhanh chóng thành công của Nhật
Bản. Thứ nhất, các công ty của Nhật Bản đã rất táo bạo, nhìn xa trông rộng. Các nhà quản lý ở
các công ty của Nhật Bản không bao giờ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà họ đã thực hiện tầm nhìn
chiến lược, nhìn lâu dài tới sự phát triển và tồn tại của công ty. Các công ty sẵn sàng hoãn lợi
nhuận tối đa trước mắt để tăng tỷ phần thị trường, sẵn sàng đầu tư vào kỹ thuật, đề cao rèn
luyện nhân viên, dồn sức vào hiện đại hoá nhà máy ngay cả khi nhà máy hiện có đã đáp ứng
được nhu cầu trước mắt. Thứ hai, việc duy trì chế độ làm việc suốt đời cho công nhân theo
chính sách của Nhật Bản khi người công nhân làm việc cho công ty đã góp phần quan trọng
trong việc tạo lập một nền tảng ý thức quan trọng trong việc đóng góp trách nhiệm cho sự phát
triển kinh doanh của công ty. Chế độ tiền lương trong công ty dựa vào thâm niên, hàng năm để
giúp nhân viên không bị nhàm chán trong công việc, các công ty của Nhật Bản đã ứng dụng
luân chuyển công việc cho nhân viên. Lấy làm việc theo nhóm là mục tiêu chính để hướng cho
từng cá nhân trong quá trình làm việc. Các nhà quản lý cũng giảm tới mức thấp nhất sự cách
biệt địa vị giữa nhà quản lý và công nhân. Thứ ba, các công ty ở Nhật Bản đã áp dụng hệ thống
kích thích cho nhân viên về vật chất, tinh thần, và truyền thống, chế độ tiền lương và thăng tiến
trong công ty. Đồng thời, các nhà quản lý của Nhật Bản rất tôn trọng sáng kiến của nhân viên,
khuyến khích phát triển các sáng kiến trên tinh thần nhóm.
Nhật Bản đã thành công trong việc vượt lên làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Sau chiến
tranh thế chiến thứ II, các nước tư bản dồn phần lớn chi phí nghiên cứu vào mục tiêu quân sự,
hay chinh phục vũ trụ thì Nhật Bản lại tập trung chủ yếu vào nghiên cứu mục tiêu dân dụng.
Trong lĩnh vực này, Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp nhập kỹ thuật hiện đại và phương pháp
sản xuất tiên tiến của nước ngoài và duy trì nguyên tắc chỉ mua bằng phát minh hoặc thiết bị
của nước ngoài rồi nghiên cứu, sử dụng làm chủ kỹ thuật đó, không để cho người nước ngoài
sử dụng kỹ thuật mới trên đất Nhật. Con người Nhật Bản được đào tạo với ý thức luôn săn tin,
cùng xử lý thông tin và cùng tham gia quyết định.
Hơn nữa, sự kết hợp hài hoà giữa Chính phủ và giới kinh doanh ở Nhật trong chính sách ngoại
thương đã tạo lên được sức cạnh tranh mạnh mẽ ở tầm quốc gia. Chính phủ Nhật Bản đã hoạch
- định chiến lược rõ ràng chuyển từ sản xuất hàng hoá có hàm lượng lao động cao sang phát huy
sức mạnh truyền thống xuất khẩu các sản phẩm có nguyên liệu ngoại nhập để nhanh chóng mở
rộng sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu. Chính phủ trợ cấp tiền để thúc đẩy loại bỏ những thiết bị
cũ, chuyển đổi những ngành nghề đã qua thời kỳ hưng thịnh. Giải pháp được đưa ra là: tìm
kiếm phát triển công nghệ mũi nhọn để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, trợ
giúp các ngành sản xuất đã được lựa chọn nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế, Chính phủ Nhật còn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển và cải
tiến các kỹ thuật đã nhập khẩu.
Để tổ chức và đẩy mạnh xuất khẩu, các tổ chức xúc tiến thương mại đã được ra đời. Các tổ
chức này xây dựng điều tra ở hầu hết tất cả các nước, theo dõi những thay đổi về chính sách
thuế quan, về thị hiếu tiêu dùng và tình hình cạnh tranh của các nước. Do đó, thông tin luôn
được cập nhật và cung cấp kịp thời cho các nhà sản xuất trong nước. Ngoài ra, Nhật Bản còn
cho thành lập các phòng trưng bày tại nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm trong và ngoài
nước để giới thiệu sản phẩm mới. Trong quá trình tổ chức thăm dò và tìm kiếm đối tượng có
thể trở thành khách hàng, những hội nghị tối cao bàn về xuất khẩu trong đó có sự tham gia của
cả đại diện Chính phủ và giới kinh doanh được thành lập họp định kỳ bàn về mục tiêu xuất
khẩu và đánh giá các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu được tổ chức. Thông qua các cuộc hội nghị
như vậy, kế hoạch và thực tế luôn đi đôi với nhau. Chính phủ (người lập ra các kế hoạch) lắng
nghe và hiểu biết quá trình hoạt động từ phía các doanh nghiệp.
Từ sau những năm 1970s, sau cuộc khủng hoảng kinh tế của mình và để xoa dịu tình hình quan
hệ với các nước trên thế giới (do Nhật Bản liên tục xuất siêu sang các nước nhất là Mỹ và Tây
Âu), Nhật Bản đã phục hồi nền kinh tế, xoa dịu tình hình bằng cách đầu tư ra nước ngoài và tự
kiềm chế xuất khẩu, mở rộng cửa cho hàng hoá nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa.
Nghiên cứu cải cách các luật về phân phối và buôn bán theo cách đơn giản để tạo điều kiện cho
sự thâm nhập dễ dàng của các công ty nước ngoài.
Đồng thời, Chính phủ còn đổi mới chiến lược kinh tế đối ngoại theo hướng hội nhập có hiệu
quả vào những thay đổi của nền kinh tế thế giới. Cùng với tạo dựng và mở rộng nhu cầu trong
nước, Nhật Bản đã tích cực điều chỉnh chiến lược kinh tế đối ngoại nhằm giải quyết những yêu
cầu như: giảm lệ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu nước ngoài, đa dạng hoá thị trường và sản
phẩm xuất khẩu thích ứng với xu thế tự do hoá thương mại và kiềm chế xuất khẩu trong những
trường hợp bất lợi cho nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là giảm thiểu sự mất cân đối giữa nhập
khẩu và xuất khẩu gây tình trạng tách nền kinh tế Nhật ở chừng mực nhất định với thị trường
thế giới.
5. Kết luận về kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của các nước đã và mới
công nghiệp hoá
Nhìn chung, các nước Trung Quốc, Thái Lan đều đi theo con đường tăng cường mở cửa nền
kinh tế, đặc biệt đối với Trung Quốc, họ đã thành công trong việc ưu tiên phát triển các đặc khu
kinh tế, mở cửa các thành phố ven biển và mở cửa các cửa khẩu biên giới.
Thực hiện khoán ngoại thương cũng là một kinh nghiệm hay để Nhà nước dễ dàng quản lý đối
với các doanh nghiệp trong khi thực hiện chỉ tiêu đã được khoán.
Việc xoá bỏ trợ cấp trực tiếp mà thay vào đó là trợ cấp gián tiếp thông qua giảm giá năng
lượng, nguyên liệu thô và nhân công… là một biện pháp mà trong đó Nhà nước vẫn hỗ trợ
được cho các doanh nghiệp và đồng thời tránh tạo cho các doanh nghiệp thói ỷ lại, ít năng động
trong sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn mà thị trường tự do đang nổi lên, các rào cản về thương mại như hàng rào kỹ
thuật sẽ được sử dụng nhiều hơn tránh cho việc sử dụng thuế thì cách mà các nước đã làm là cố
gắng ký kết hiệp định thương mại với các nước để được hưởng những nhượng bộ trong ngoại
thương.
- Lấy khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển mậi dịch, hình thành môi trường kỹ thuật cao, đẩy
nhanh tốc độ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao.
Tăng cường tham gia của các khu vực tư nhân cũng là một giải pháp mà các nước đã sử dụng
Ở các nước này, các trung tâm xúc tiến xuất khẩu cũng đã được hình thành không những ở
trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Các trung tâm này hoạt động tích cực và có hiệu quả trong
việc thu thập thông tin về thị trường quốc tế và xử lý các thông tin đó.
Tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý, kinh tế và nguồn lực của từng nước mà các nước trên đã có
những hoạt động riêng để thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu của mình. Tuy nhiên, Việt
nam cần phải căn cứ và phân tích từng mảng điều kiện cụ thể của mình để từ đó có những giải
pháp cụ thể hơn.
Qua tìm hiểu về kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, ở đây
còn nổi lên kinh nghiệm phát triển thị trường ngách của một số nước như Trung Quốc và Hàn
Quốc, Nhật Bản. Theo kinh nghiệm của một số nước thành công trên thị trường thế giới, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều tận dụng được khai thác thị trường ngách trên thế giới.
Đối với Nhật Bản, sau đại chiến thế giới thứ hai, Nhật Bản đã kiệt quệ về kinh
tế, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhật Bản với Mỹ và phương Tây rất mỏng manh.
Trong khi Mỹ và các nước phương Tây tập trung vốn, thế lực vào công nghiệp phục vụ cho
chiến tranh và chinh phục vũ trụ thì Nhật Bản nhanh chóng đi vào nghiên cứu phần còn lại đó
là hàng dân dụng (ô tô, điện tử, các mặt hàng cần nhiều lao động và các mặt hàng cần thiết bị,
linh kiện tinh vi). Hơn thế nữa, thị trường lớn tập trung vào các nước như Mỹ, Tây Âu và các
nước này chưa để ý tới các nước ở khu vực Châu Á, Mỹ Latinh và Châu Phi, Nhật Bản đã dùng
sách lược tấn công vào thị trường đó. Ở đâu có chỗ trống là ở đó Nhật nhảy vào. Và kết quả là,
sản phẩm của Nhật Bản được biết trên toàn cầu. Ví dụ, ngay tại đất Mỹ với thị trường xe gắn
máy. Mỹ chỉ tậo trung vào sản xuất những xe máy cỡ lớn, giá cao với tỷ lệ lãi cao nên đã bỏ
qua thị trường xe gắn máy nhỏ vì cho rằng thị trường này đem lại lợi nhuận thấp. Các công ty
của Nhật Bản như Honda, Suzuki, Yamaha đã dành lấy thời cơ này để nhảy vào thị trường Mỹ
và các thị trường khác trên thế giới. Các công ty này sản xuất xe cỡ nhỏ với giá rẻ hơn để đáp
ứng nhu cầu người tiêu dùng. Khi xâm nhập vào Mỹ, họ đã không bị các nhà sản xuất của Mỹ
phản ứng lại vì những nhà sản xuất này cho rằng loại xe này chỉ như một thứ đồ chơi và không
đem lại lợi nhuận cao, không hợp với thói quen của người Mỹ. Do vậy, các nhà sản xuất Nhật
Bản đã tận dụng ngay cơ hội này khi đã có sự nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng.
Đối với Hàn Quốc, các nhà sản xuất này cũng đã tìm mọi cách để khai thác thị
trường ngách. Phương hướng đi tìm thị trường ngách của Hàn Quốc thường tập trung vào các
đặc điểm:
Tìm những phần thị trường mà các đỗi thủ chính bỏ qua, nhưng có khả năng nảy
sinh cơ hội kinh doanh.
Tìm kiếm phần thị trường mà các đối thủ chính quan tâm mà không đáp ứng đủ
nhu cầu người tiêu dùng
Phần thị trường có mức cạnh tranh thấp nhất
Phần thị trường mà các đối thủ thiếu sự thay đổi về công nghệ
Phần thị trường mà ranh giới nhập cuộc của các đối thủ rất cao nhưng các doanh
nghiệp Hàn Quốc lại có lợi thế hơn.
Việc Hàn Quốc khai thác được một thị trường bỏ ngỏ là 30 triệu dân Mỹ sống
dưới mức nghèo khổ. Vì vậy, các doanh nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất những mặt hàng nhanh,
nhiều, tốt, rẻ phục vụ cho gần 30 triệu dân này.
Đối với Trung Quốc, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều chiến thuật trong khai
thác thị trường và đã thành công với những chiến thuật đó. Các doanh nghiệp của Trung Quốc
khai thác thị trường theo rất nhiều kiểu khác nhau. Thứ nhất, mèo nhỏ tích cực bắt nhiều chuột
nhỏ. Hàng hoá của các doanh nghiệp Trung Quốc len lỏi vào tất cả những ngách thị trường các
nguon tai.lieu . vn