Xem mẫu
- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, giáo
dục và đào tạo đã được chúng ta xây dựng là quốc sách hàng đầu để nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ở bậc phổ thông nước
ta hiện nay, giáo dục ngoài mục tiêu trang bị cho người học những tri thức
hiểu biết của loài người, còn hướng tới mục tiêu hình thành ở người học
ý thức công dân, hoàn thiện nhân cách con người, giúp các em định hướng
đúng đắn về thế giới, về con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn. Môn GDCD được xem là một trong những môn
quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu này. GDCD có ý nghĩa trong việc
định hướng cho tương lai phát triển của đất nước, giáo dục bồi dưỡng
cho học sinh những chuẩn mực đạo đức, hình thành nhân cách và những
hiểu biết về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi công dân, trang bị cho
học sinh những hiểu biết lí luận chính tri - xã hội cần thiết mà người công
dân phải có để họ ứng xử với nhà nước, cộng đồng xung quanh và xã hội
phù hợp với các chuẩn mực giá trị xã hội.
Nói tóm lại, môn GDCD ở bậc phổ thông có vai trò hết sức quan
trọng. Nó góp phần đào tạo cho đất nước những con người hiện đại cả
về mặt đạo đức lẫn mặt tài năng, trí tuệ và óc sáng tạo, những người
hiền tài và chính trực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Dù có tầm quan trọng như vậy nhưng GDCD từ xưa thường được
coi là môn học phụ. Người học sinh trên ghế nhà trường chỉ chăm lo cho
tương lai nghề nghiệp của mình mà rất ít dành thời gian chuẩn bị cho
mình những kiến thức đạo đức, những hiểu biết lí luận chính trị xã hội.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ giáo viên giảng dạy còn mỏng, chưa
chuyên sâu, trang thiết bị dạy học còn rất hạn chế, vẫn áp dụng phương
pháp dạy học cũ, lí luận chưa đi đôi với thực tiễn… Vì thế, chất lượng
dạy và học môn GDCD còn thấp.
- Xuất phát từ thực trạng trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả dạy và học môn GDCD trong các trường THPT thuộc
quận Cầu Giấy- Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên
năm 2008.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hiệu quả dạy và học môn GDCD để
đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn học này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ 1: làm sáng tỏ một số cơ sở lí luận về hiệu quả học dạy
và học môn GDCD trong trường phổ thông.
Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu thực trạng hiệu quả học tập môn GDCD
trong một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy- Hà Nội.
Nhiệm vụ 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
học tập môn GDCD trong một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy-Hà
Nội.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả dạy và học môn GDCD ở một số trường
THPT thuộc quận Cầu Giấy-Hà Nội.
5. Khách thể nghiên cứu
Giáo viên và học sinh trường THPT.
6. Phạm vi nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu ở một số trường THPT thuộc quận Cầu
Giấy-Hà Nội. Với 511 học sinh và 15 thầy cô giáo.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay hiệu quả dạy và học GDCD ở một số trường THPT thuộc
quận Cầu Giấy – Hà Nội là chưa tốt, thực trạng này có thể do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Nếu tìm hiểu đúng nguyên nhân của thực trạng
đó, chúng ta có thể xây dựng được một số biện pháp phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả dạy và học môn học này
8. Phương pháp nghiên cứu
- 8.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan đến hiệu
quả dạy và học môn GDCD nhằm xây dựng cơ sở cho việc nghiên cứu lý
luận của đề tài.
Nghiên cứu các công trình khoa học, các tài liệu có liên quan về nội
dung và phương pháp dạy học GDCD.
8.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục
- Điều tra cơ bản trong giáo dục
Xem xét kết quả học tập qua bảng điểm, phiếu điều tra để biết
được hiệu quả học tập môn GDCD nhằm đánh giá một cách chính xác và
đầy đủ, xem xét thực trạng hiệu quả học tập môn GDCD.
- Trưng cầu ý kiến
Thăm dò ý kiến của học sinh thông bảng hỏi bao gồm các câu hỏi
đóng, câu hỏi mở…Khi nhgiên cứu đề tài, chúng tôi dùng phương pháp
này làm phương pháp chủ yếu.
- Phương pháp nghiên cứu sư phạm
Thông qua vở ghi, vở bài tập, bài kiểm tra, giáo án của giáo viên từ
đó bổ xung cho phương pháp chính.
- Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát học sinh trong quá trình học sinh học tập trên lớp
và khi học sinh làm bài kiểm tra, để đánh giá ý thức thái độ của học sinh
đối với môn học.
Tiến hành quan sát giờ dạy trên lớp của giáo viên .
8.2.2. Lấy ý kiến chuyên gia
Qua buổi tọa đàm, hội thoại để lấy ý kiến chuyên gia về hiệu quả
dạy và học môn GDCD.
8.2.3. Phương pháp trò chuyện
Trò chuyện với học sinh, giáo viên…để tìm ra các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả dạy và học môn GDCD, trên cơ sở đó đề ra biện
pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học của bộ môn.
- 8.3 Phương pháp toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu đã điều
tra và thực nghiệm.
9. Ý nghĩa của đề tài
9.1 Ý nghĩa lý luận
Đề tài có ý nghĩa bổ sung vào cơ sở lý luận cho hoạt động giảng
dạy các bộ môn nói chung và môn GDCD nói riêng, mang lại cách nhìn
chính xác hơn, hoàn thiện hơn, đúng đắn hơn về tầm quan trọng của môn
GDCD. Đồng thời, giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
9.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đã nêu ra một số giải pháp và kiến nghị hữu hiệu nhất góp
phần nâng cao hiệu quả của môn học trong thực tiễn để có thế áp dụng
một cách có hiệu quả vào công tác giảng dạy của từng giáo viên, làm cho
hiệu quả dạy học của giáo viên đặc biệt là giáo viên GDCD cao hơn.
Đề tài cũng tích cực đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả dạy và
học bộ môn này trong các trường THPT, trước hết là trong nhận thức của
mọi người về môn vị trí và tầm quan trọng của môn GDCD, từ đó có
những hành động thực tiễn tích cực đối với bộ môn.
- PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA NÓ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1 Tình hình nghiên cứu
Trước đây, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này, dưới đây,
chúng tôi sẽ đưa ra một số đề tài có liên quan đến nội dung của đề tài mà
chúng tôi đang nghiên cứu:
-"Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học môn GDCD
lớp 10 ở trường THPT Đông Sơn 1 tỉnh Thanh Hoá"- Trần Thị Hồng,
ĐHSPHN, 2006
-"Tích cực hoá phương pháp thuyết trình trong dạy học phần: "Công dân
với kinh tế" môn GDCD ở trường THPT Thuận Thành số 2 tỉnh Bắc
Ninh"- Khúc Tuấn Nam, ĐHSPHN, 2006
-"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập môn GDCD ở trường THPT"- Ông Thị Hải, ĐHSPHN, 2007
-"Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD
phần: "Công dân với các vấn đề chính trị-xã hội" ở trường THPT Đinh
Tiên Hoàng- Ninh Bình"- Phạm Thị Minh Phúc, ĐHSPHN, 2007
-"Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần "Một số vấn
đề cơ bản xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay" môn GDCD lớp
12 ở trường THPT Tuần Giáo- Điện Biên", Nguyễn Quang Lâm,
ĐHSPHN, 2007
-"Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học phần
"Công dân với kinh tế" môn GDCD ở trường THPT Châu Thành, Bà Rịa-
Vũng Tàu", Nguyễn Nghĩa Cường, ĐHSPHN, 2007
1.2. Dạy và học môn GDCD
1.2.1 Vị trí và tầm quan trọng
- Nền giáo dục XHCN ở nước ta có mục đích là đào tạo ra những
con người mới, phát triển toàn diện hài hòa các mặt : Đức-Trí-Thể-Mỹ-
Kỹ, phẩm chất của người lao động mới.
- Cùng với các môn học khác, GDCD cũng nhằm vào mục đích đó.
Môn GDCD là môn khoa học xã hội trong trường THPT, trực tiếp giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức tác phong, chuẩn mực của người lao động
mới. Đồng thời, trang bị những kiến thức lý luận có hệ thống của chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng năng lực và phương
pháp luận khoa học trong thực tiễn.
- Tầm quan trọng của môn GDCD
GDCD trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế giới
quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, về hệ thống giá trị đạo
đức, pháp luật, thể chế chính trị, phương hướng phát triển kinh tế xã hội,
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc…Từ đó nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi
học sinh, xác định vị trí của bản thân với tư cách là chủ thể của sự phát
triển cá nhân, xã hội và tự nhiên.
Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, hiện nay việc dạy và học
môn GDCD chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.Trên thực tế, có nhiều
trường đã xem nhẹ môn này, thậm chí một số trường chuyên và trường
dân lập đã bỏ môn này ra khỏi chương trình giảng dạy.
Trên cơ sở thực trạng dạy và học môn GDCD và tầm quan trọng
của nó hiện nay, chúng ta cần phải đổi mới nội dung phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học môn GDCD nhằm góp phần tích cực vào việc đào
tạo nguồn nhân lực thích ứng với cơ chế thị trường, thực hiện thành công
sự nghiệp CNH-HĐH, thích ứng với xu thế của thời đại.
1.2.2 Quá trình dạy học môn GDCD giúp cho người học nhận
thức được tri thức loài người, phát huy năng lực thực hành của họ
Dạy học là hoạt động chung của người dạy và người học, hai hoạt
động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống
nhất. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển
nhân cách của con người, truyền tải những kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của thế hệ trước cho thế hệ sau. Đồng thời giáo dục còn trang bị cho mỗi
người phương pháp học tập để thích ứng được với một xã hội học tập
thường xuyên, học tập suốt đời.
- * Ý nghĩa của quá trình dạy học môn GDCD
Dạy học là con đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết
dạy là con đường thuận lợi nhất giúp học sinh trong khoảng thời gian
ngắn nhất có thể nắm vững được một khối lượng tri thức với chất lượng
cần thiết. Quá trình dạy học môn GDCD được tiến hành một cách có tổ
chức, có kế hoạch với nội dung dạy học bao gồm hệ thống những tri thức
và hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, với các hình thức tổ chức
dạy học đa dạng. Với sự lãnh đạo điều khiển linh hoạt của thầy giáo,
học sinh dễ dàng và nhanh chóng nắm được hệ thống những chân lý khoa
học mà biết bao thế hệ các nhà khoa học phải trải qua hàng thế kỷ mới
phát hiện và tổng kết được.
Dạy và học môn GDCD nói riêng và các môn học khác nói chung
còn là con đường quan trọng bậc nhất giúp học sinh phát huy một cách có
hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
Như vậy trong quá trình dạy học có sự tương tác cần thiết giữa
thầy giáo và học sinh, nhờ đó học sinh nắm nhanh chóng và có hiệu quả
những tri thức khoa học cần thiết. Những hệ thống tri thức khoa học này
được nắm vững trên cơ sở học sinh tiến hành các thao tác hoạt động trí
tuệ, đặc biệt là thao tác tư duy. Đồng thời các thao tác hoạt động trí tuệ,
thông qua đó lại được phát triển và hoàn thiện thêm một bước.
Dạy học môn GDCD còn là một trong những con đường chủ yếu
góp phần giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan
cách mạng và những phẩm chất đạo đức của con người mới XHCN. Nhờ
quá trình học tập môn học này, học sinh có thể nắm vững có hiệu quả hệ
thống những tri thức khoa học cần thiết, chính những tri thức khoa học lại
này giúp học sinh dần dần nắm được bản chất của thế giới, của tự nhiên
- xã hội và bản thân mình. Những tri thức đó giúp học sinh có quan điểm
và đặc biệt là có hành động đúng đắn trong mối quan hệ với tự nhiên-xã
hội và với bản thân mình.
- Từ đó chúng ta có thể coi quá trình dạy và học môn GDCD là một
trong những hoạt động đặc trưng nhất, chủ yếu nhất của nhà trường
được thực hiện bởi các chủ thể nhất định là thầy và trò.
* Giáo viên GDCD phải được trang bị đầy đủ cả về chuyên môn và
nghiệp vụ.
Dạy học là một vấn đề bao gồm nhiều mặt, thầy giáo là người có
vai trò đa diện, là người hướng dẫn học sinh trong cuộc hành trình học
hỏi. Người thầy giáo phải có kinh nghiêm hiểu biết về “lộ trình” và về
“du khách”, đồng thời đặt mục tiêu và giới hạn của việc “du hành” tùy
thuộc theo khả năng của học sinh. Thầy giáo xác định con đường phải
theo, làm cho mọi khía cạnh của cuộc hành trình có ý nghĩa hơn và cũng
trong quá trình này thầy giáo còn đánh giá các bước tiến cùng với sự cộng
tác của “du khách” đồng hành.
Cũng như các môn khoa học khác, người giáo viên GDCD phải
được trang bị đầy đủ và từng bước hoàn thiện về chuyên môn của mình.
Họ phải là những người biết tìm tòi học hỏi, bởi họ không chỉ là người
dạy mà còn là người học. Học từ sách vở, từ cuộc sống và ngay cả với
học sinh của mình.
Đặc biệt đối với môn GDCD thì người thầy giáo muốn giáo dục
được người khác, trước hết phải tu dưỡng rèn luyện về mọi mặt, phải có
tinh thần học tập thường xuyên, liên tục, suốt đời, học tập không có bậc
thang cuối cùng, nhất là trong giai đoạn đổi mới, nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo hiện nay.Như vậy, người giáo viên GDCD mới có thể thực
hiện đầy đủ và có hiệu quả chức năng của mình. Như nhà giáo dục người
Nga Ginôviep đã nói: “Để cung cấp cho người học một hạt nhỏ hào quang
kiến thức, người thầy giáo phải uống cạn một biển cả hào quang ánh
sáng”.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên GDCD nắm vững nhiệm vụ,
yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của bộ môn và biết vận dụng một cách sáng
tạo vào từng bài học lý thuyết cũng như thực hành sẽ là điều kiện quan
trọng nhất để đem lại hiệu quả cao cho công tác giảng dạy.
- Không những người giáo viên GDCD phải trau dồi đầy đủ và hoàn
thiện tri thức cho bản thân để truyền thụ cho học sinh, mà họ còn phải
hiểu và nắm được thông tin ngược từ học sinh, để kịp thời chỉ đạo, tổ
chức, điều khiển quá trình dạy học nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Trong quá trình dạy học môn GDCD, việc luôn luôn đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực và sử dụng phương pháp đó
một cách hợp lý sẽ là một công cụ giúp cho quá trình giảng dạy của giáo
viên đạt hiệu quả.
Phương pháp nào là tối ưu nhất để truyền tải nội dung dạy học
cho người học? Phương tiện nào là tốt nhất?.Chỉ khi người giáo viên trả
lời tốt những câu hỏi này, họ mới có được những phương pháp dạy học
phù hợp với bộ môn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Có thể hiểu phương pháp dạy học là những con đường, cách thức
tiến hành hoạt động dạy học. Người giáo viên GDCD hiểu và nắm vững
các phương pháp học tích cực đồng thời áp dụng một cách sáng tạo, có
hiệu quả vào giảng dạy mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của mình.
* Lòng yêu nghề, sự nhiệt tình và tính sáng tạo là rất cần thiết đối
với giáo viên dạy GDCD
GDCD là một bộ môn lý luận tương đối khó trong trường THPT,
muốn học sinh nắm bắt được đầy đủ kiến thức và có hứng thú trong học
tập thì người giáo viên cần phải có lòng say mê nghề nghiệp, sự nhiệt
tình trong giảng dạy. Thầy giáo mở ra một chân trời mênh mông cho học
sinh. Thầy nhìn thấy tiềm năng đa dạng của họ như những con người.
thầy tin tưởng vào những khả năng vĩ đại của con người. Thầy giáo cảm
thấy hứng thú với ý nghĩ rằng: nghề dạy học ở khía cạnh tích cực nhất
của nó luôn luôn chủ yếu là việc phát hiện, bộc lộ và phát triển những gì
tiềm tàng trong con người học sinh. Vì vậy, có lẽ bổn phận có ý nghĩa
nhất của người giáo viên dạy GDCD là cung cấp một tầm nhìn vĩ đại cho
học sinh, người thầy giáo theo đúng nghĩa là người có trí tưởng tượng linh
hoạt, sự cao cả của cảm xúc, cảm thông và yêu thương con người, sự
khôn ngoan trong việc đánh giá tâm tính, khả năng đặt kế hoạch, sức
- mạnh của lòng trung thành, sự chịu đựng, sự nắm bắt nhạy bén và nhanh
chóng các nhân tố khống chế các tình huống phức tạp. Để có được những
yếu tố trên thì họ phải có lòng yêu nghề, sự nhiệt tình và tính sáng tạo
trong giảng dạy, đồng thời luôn luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo.
Trong quá trình truyền tải kiến thức muốn đạt được hiệu quả cao
nhất người giáo viên luôn luôn phải tích cực, chủ động, sáng tạo, biết kết
hợp lý luận và thực tiễn. Họ không những chỉ là người sáng tạo mà còn là
người kích thích sự sáng tạo của học sinh, từ đó giúp cho quá trình dạy
học đạt được mục đích tối ưu.
1.2.3 Tính tích cực, tính tự lực nhận thức và tính sáng tạo trong
học tập môn GDCD
* Tính tích cực học tập
Theo quan niệm mới hiện nay thì học sinh giữ vai trò chủ thể của
nhận thức còn thầy giáo chỉ là người điều khiển nhận thức. Tính tự giác,
tích cực của học sinh xuất phát từ nhận thức nhiệm vụ, yêu cầu của học
tập: “học cái gì ?”, “học để làm gì ?”. Do đó đã đưa tới tính tự giác, tích
cực trong học tập.
Trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức GDCD, tính tự giác, tích
cực học tập là điều kiện quan trọng để ghi nhớ, lĩnh hội tri thức vì không
thể có ai học thay mình. Tính tự giác của học sinh sẽ dẫn đến sự say mê,
hào hứng trong học tập, đó là điều kiện để họ tiếp thu những tri thức khó.
Với tư cách là chủ thể trong quá trình giáo dục, học sinh tiếp nhận
các tác động giáo dục một cách có chọn lọc thông qua lăng kính chủ quan
của mình và tự vận động biến các tác động, yêu cầu giáo dục từ bên ngoài
thành nhu cầu được giáo dục bên trong của bản thân. Trong quá trình này
các em đã thực hiện được vai trò tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo
của mình. Đó là việc các em tự ý thức được nhiệm vụ và trách nhiệm
trong học tập, từ đó cố gắng hết sức mình, không bị động, phụ thuộc hoàn
toàn vào giáo viên. Như nhà bác học Êđisơn đã từng nói: “ Thiên tài gồm
một phần trăm cảm hứng và chín chín phần trăm là mồ hôi”.
- * Tính tự lực nhận thức
Học sinh luôn luôn phát huy tính độc lập của tư duy, tự lực suy nghĩ
trong học tập. Điều đó được thể hiện ở nhu cầu đọc thêm sách báo mở
mang kiến thức và phát huy khả năng vận dụng thực tiễn. Dạy học luôn
lấy hoạt động của người học làm trung tâm, còn trong quá trình học tập
thì tính tự lực nhận thức là động cơ bên trong của học sinh. Vì vậy, giáo
viên cần khai thác tối đa tiềm năng của các em. Đặc biệt đối với môn
GDCD đó là việc rất cần thiết.
Trong khi có sự tác động từ phía giáo viên và nhiều yếu tố khác,
muốn học tốt môn này, học sinh cần phải tự tạo cho mình khả năng và
điều kiện chủ động sáng tạo trong hoạt động học tập, tích cực tìm tòi để
tìm ra những chân lý và giải quyết mọi vấn đề trong học tập. Tức là quá
trình học sinh thu nhận, khám phá, tái tạo lại, cấu trúc lại thế giới xung
quanh, qua đó hình thành và phát triển chính bản thân mình, mà trước hết
là các kiến thức về thế giới, các khả năng và phương pháp hành động
cũng như những giá trị cuộc sống khác. Người học phải có “cái tôi” của
riêng mình.
* Tính sáng tạo
Trong quá trình lĩnh hội kiến thức, học sinh không tiếp thu một cách
máy móc, rập khuôn mà cần phải tư duy sáng tạo, vận dụng một cách
linh hoạt vào các vấn đề của thực tiễn. Khi học môn GDCD học sinh luôn
đóng vai trò quan trọng thể hiện ở chỗ: họ nhận thức được mục đích, ý
nghĩa của quá trình học tập, đây là điều kiện khác biệt giữa hoạt động tự
giác của con người so với hoạt động theo bản năng của con vật. chỉ có
con người mới ý thức được việc làm của mình và mới xác định được
trước mục đích hoạt động của mình.
Học môn GDCD học sinh cũng phải biết phát huy có hiệu quả tính
tích cực, độc lập, sáng tạo của mình, biết đổi mới phương pháp học tập,
gắn học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn…
Như vậy, muốn nắm bắt được trọn vẹn tri thức khoa học, người
học sinh luôn luôn phải biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn tính tự giác,
- tích cực, tính tự lực nhận thức và tính sáng tạo thì mới đạt được hiệu quả
cao trong học tập môn GDCD.
1.2.4 Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong
quá trình dạy học môn GDCD
Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học là quan hệ
chuyển giao thông tin của thầy giáo và sự tiếp nhận thông tin của học
sinh. Sau khi đã xử lý đầy đủ, chính xác các thông tin, người giáo viên
thực hiện chuyển giao thông tin phù hợp với khả năng tiếp nhận của học
sinh. Sự phù hợp đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đối với giáo viên dạy GDCD, các yếu tố tác động đến thông tin mà
học sinh tiếp nhận là: tư thế, tác phong lên lớp, tâm lý, giọng nói, lời nói
đi đôi với việc làm cả trên lớp và trong cuộc sống, phương pháp giảng
bài, sự hiểu biết về khả năng nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý và hoàn
cảnh sống của học sinh…Đó là những yêu cầu mà giáo viên GDCD phải
có. Từ đó, đưa ra nhiệm vụ, yêu cầu nhận thức có tác dụng đưa học sinh
vào tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của các em, giúp các em đưa
ra nhiệm vụ học tập cho mình. Đồng thời giáo viên cũng thu nhận những
tín hiệu ngược từ học sinh để giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học và
giáo viên cũng tự điều chỉnh hoạt động dạy của chính mình. Cuối cùng
giáo viên phân tích đánh giá kết quả học tập của cả học sinh và của cả
mình.
Đối với học sinh, các yếu tố ảnh hưởng tới sự tiếp nhận thông tin
của các em là: năng lực nhận thức, nhu cầu, tâm lý tình cảm, điều kiện
học tập…giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ cần giải quyết, có nhu cầu
giải quyết nhiệm vụ, biến các nhiệm vụ khách quan thành yêu cầu chủ
quan, giải quyết nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của giáo viên ở các mức độ
khác nhau.
Để mối quan hệ này đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải có
phương pháp giảng bài tốt, luôn luôn có lòng nhiệt tình, say mê, tính sáng
tạo tích cực đáp ứng nhu cầu và năng lực nhận thức của học sinh nhằm
kích thích tính hứng thú học tập của họ. đồng thời học sinh phải tích cực
- chủ động xây dựng cho bản thân tiếp nhận thông tin nhanh nhạy, chắc
chắn, luôn tạo ra cho mình sự khát khao tri thức khoa học mới
1.3 Hiệu quả dạy và học môn GDCD
1.3.1 Khái niệm hiệu quả
Theo từ điển tiếng việt phổ thông: “Hiệu quả là kết quả đích
thực”.
“Hiệu quả là khái niệm chung để chỉ các kết quả hoạt động của các
sự vật, hiện tượng bao gồm hiệu quả về kinh tế, xã hội, đời sống, phát
triển nhận thức…” ( google.com.vn ).
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu một cách khái quát nhất là:
Hiệu quả là kết quả đích thực của các hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác
nhau như hiệu quả về kinh tế, xã hội, đời sống, giáo dục, nhận thức…
1.3.2 Môn GDCD trong trường THPT
- GDCD được xem là một trong những nội dung quan trọng được
sắp sếp từ bậc tiểu học đến đại học. Mặc dù dưới những góc độ và tên
gọi khác nhau, nhưng nhìn chung GDCD có nhiệm vụ: giáo dục, bồi
dưỡng cho học sinh những chuẩn mực đạo đức của người công dân, phản
ánh những mối quan hệ đạo đức đối với lao động, công việc, đối với
người khác, đối với bản thân, với nhà nước và với xã hội; những chuẩn
mực và phương pháp mà người công dân phải tuân thủ bao gồm: các
chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ công dân và cả những chuẩn mực
về nguyên tắc ứng xử của mỗi công dân.( Theo từ điển bách khoa Việt
Nam ).
- Mục đích môn học
GDCD là một môn khoa học thuộc khoa học xã hội, góp phần đào
tạo thế hệ thanh niên trở thành những người lao động mới, hình thành cho
họ những phẩm chất và năng lực, nhân cách của người công dân tương
lai. Đó là những phẩm chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới,
động cơ, hoài bão, niềm tin và các hành vi tốt đẹp của con người mới, các
tri thức khoa học của nó trực tiếp gắn liền với việc hình thành thế giới
quan khoa học một cách tương đối có hệ thống (qua tri thức của triết học,
- đạo đức, pháp luật, mỹ học…). GDCD bồi dưỡng lý tưởng, khả năng
hoạt động tham gia vào các phong trào cách mạng của đất nước, có ý thức
và tinh thần trách nhiệm cao của công dân đối với nhân dân và tổ quốc,
hiểu đúng đắn đường lối chính sách cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Nói tóm lại, tri thức khoa học của
GDCD bao gồm khối lượng lớn bao quát toàn bộ đời sống xã hội, nó gắn
liền với con người, Góp phần hình thành ở người học thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan mới một cách đúng đắn.
- Nhiệm vụ của môn GDCD
GDCD bao gồm nhiều tri thức khoa học riêng rẽ. Vì vậy, nhiệm vụ
của GDCD cũng được xác định cụ thể theo từng khoa học riêng:
+ Triết học: Hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp tư
duy biện chứng, xây dựng nhân sinh quan mới trong hiện thực.
+ Kinh tế chính trị: xây dựng phương pháp tư duy khoa học về các
quan điểm kinh tế của chủ nghĩa xã hội, gắn liền với quan điểm kinh tế
của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Đạo đức: Hình thành cho học sinh những quan niệm đạo đức mới
( thông qua các khái niệm đạo đức ), qua đó rèn luyện ý thức đạo đức và
hành vi đạo đức.
+ Pháp luật: Xây dựng ý thức pháp luật và hành vi pháp luật phù
hợp với cuộc sống hiện thực.
+ Mỹ học: Quan điểm về cái đẹp trong cuộc sống. Xây dựng chuẩn
mực về cái đẹp của con người mới XHCN…
Tất cả các lĩnh vực tri thức khoa học riêng rẽ đó đều tổng hợp lại,
nhằm mục đích hình thành người lao động mới về mặt phẩm chất và
nhân cách.
- Nội dung, chương trình môn học
Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ và chức năng của môn GDCD. Bộ
giáo dục và đào tạo đã vạch ra cấu trúc nội dung môn học theo một hệ
- thống nhất định bao gồm: Triết học, kinh tế chính trị, chủ nghiã xã hội,
pháp luật, đạo đức…
Trong đó cấu trúc chương trình GDCD ở THPT là:
+ Lớp 10: Học triết học và đạo đức.
+ Lớp 11: Chương trình học là tổng hợp tri thức về thời đại, về xã
hội, trong đó chủ đạo là: các quan điểm về kinh tế của CNTB, XHCN và
các quan niệm về đạo đức.
+ Lớp 12: Học về pháp luật và các đường lối của Đảng ta về cách
mạng XHCN.
1.3.3 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả dạy và học môn GDCD
* Tri thức
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên truyền thụ cho học sinh những
tri thức, kinh nghiệm của mình về phương pháp học, cách xử lý các vấn
đề trong thực tiễn, cách tra cứu tài liệu…giúp cho học sinh có phương
pháp học tập đúng đắn và vận dụng một cách linh hoạt vào cuộc sống.
- Về lý luận: Đó là lượng tri thức mà học sinh nắm được trong quá
trình giảng dạy của giáo viên.
Tiêu chí biểu đánh giá quả dạy và học môn GDCD thể hiện rõ nét ở
việc học sinh nắm được lượng kiến thức ít hay nhiều. Nếu hiểu sai vấn
đề thì hiệu quả học tập sẽ kém. Việc nắm vững lý thuyết hay không sẽ
ảnh hưởng lớn tới quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học
sinh.
- Về thực hành: Là việc áp dụng lý thuyết đã được học vào thực
tiễn.
Hiệu quả học tập môn GDCD của học sinh không chỉ thể hiện ở
việc nắm vững các kiến thức trên lớp mà phần nhiều còn thể hiện ở việc
học sinh áp dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Tức là lý thuyết phải luôn
gắn với thực hành. Muốn đạt được hiệu quả tốt nhất trong học tập thì hai
yếu tố này không được tách rời nhau, Lý thuyết không được xa rời thực
tiễn, ngược lại thực tiễn phải dựa trên cơ sở của lý thuyết. Hiểu đúng lý
- thuyết sẽ là điều kiện, tiền đề để vận dụng đúng, có hiệu quả vào hoạt
động thực tiễn. Kết quả đạt được trong thực tiễn chính là biểu hiện kiến
thức mà các em nắm bắt, tiếp thu được trên lớp.
- Đánh giá: Để kiểm tra hiệu quả dạy và học môn GDCD, một
trong những hình thức được sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất đó là
thông qua các bài kiểm tra, qua ý thức phát biểu xây dựng bài, các cuộc thi
giáo viên giỏi, học sinh giỏi môn GDCD... Kết quả mà học sinh đạt được
trong quá trình dạy học là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá mọi hoạt
động dạy học có đạt được mục đích hay không! Kết quả học tập được
thể hiện ở mức độ mà người học đạt được so với các mục tiêu đã xác
định hay ở mức độ mà người học đạt được trong tương quan chung với
những người cùng học. Dù hiểu theo nghĩa nào thì đánh giá kết quả học
tập cũng phản ánh hiệu quả học tập mà học sinh đạt được sau một quá
trình học tập.
Như vậy, đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ
hoàn thành các mục tiêu đề ra cho học sinh trong một giai đoạn học tập,
các mục tiêu này thể hiện ở từng môn học nói chung, môn GDCD nói
riêng. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ nắm được kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo của học sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra.
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là một trong những
tiêu chí thể hiện chất lượng và hiệu quả dạy học của giáo viên. Bên cạnh
đó để đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên còn căn cứ vào các hình
thức như: Kiểm tra giáo án của giáo viên, các buổi dự giờ…
Có thể biết mức độ lĩnh hội của học sinh được xem xét qua việc
học sinh nghe giảng, hiểu bài, Từ đó nắm vững, ghi nhớ trên cơ sở những
kiến thức đã học, tiếp theo là tiến hành phân tích tổng hợp để có thể vận
dụng linh hoạt vào thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thầy cô luôn là
người hướng dẫn cho học sinh biết cách học tốt và con đường nắm bắt
đầy đủ các tri thức một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Còn học sinh,
nếu thực hiện tốt được quy trình này thì chắc chắn là kết quả học tập
của họ nhất định sẽ đạt được như mong muốn.
- * Kỹ năng
Theo từ điển tiếng việt phổ thông, kỹ năng “Là khả năng ứng dụng
tri thức khoa học vào thực tế”.
Như vậy, kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách
thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới. Bất cứ kỹ năng
nào cũng phải dựa trên cơ sở lý thuyết. Cơ sở lý thuyết đó là kiến thức.
Bởi vì, học sinh muốn thực hiện được kỹ năng của mình trong thực tế thì
phải hiểu được mục đích, biết cách thức đi đến kết quả và hiểu những
điều kiện cần thiết để triển khai các cách thức đó. Trong thực tế, dạy học
nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng, học sinh trường gặp khó khăn
khi vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các bài tập cụ thể, chính là do
kiến thức không chắc chắn, khái niệm trở nên “ chết cứng ” và không
biến thành cơ sở của kỹ năng. Muốn kiến thức là cơ sở của kỹ năng thì
kiến thức đó phải phản ánh đầy đủ thuộc tính của bản chất, được thử
thách trong thực tiễn và tồn tại trong ý thức với tư cách là công cụ của
hành động. Vì vậy, việc giáo dục để hình thành kỹ năng cho học sinh
trong nhà trường là rất cần thiết đối với các em. Nhưng muốn hình thành
kỹ năng khi học môn GDCD thì cần phải giúp các học sinh biết tìm tòi để
nhận xét ra các yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng,
giúp học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các tình
huống trong học tập, xác lập mối liên quan giữa các tình huống và kiến
thức tương xứng.
* Thái độ học tập của học sinh
Đối với học sinh muốn học tốt môn GDCD thì trước hết phải có ý
thức xây dựng bài, có thái độ nghiêm túc trong học tập, chuyên cần, chủ
động tìm kiếm các tài liệu từ các nguồn khác nhau để phục vụ cho việc
học tập của mình. Học sinh cần có lòng khao khát mở rộng tri thức, mong
muốn có nhiều hiểu biết, say mê trong học tập. Quá trình giải quyết
nhiệm vụ học tập…phải có những nỗ lực bên trong, đôi khi có cả sự đấu
tranh với chính bản thân mình để hoàn thành mục đích học tập. Nếu có
nhu cầu học thực sự thì học sinh sẽ có thái độ tốt đối với môn học.
- GDCD là môn học vừa “ khô và khó”, bởi vậy việc tiếp thu kiến thức là
không dễ, nếu không có một thái độ nghiêm túc trong học tập, không biến
tư tưởng “phải học” trở thành “ nhu cầu” của mình thì chắc chắn lượng
kiến thức mà các em tiếp thu được sẽ rất ít và mơ hồ. Chỉ khi nào học
sinh tự ý thức được tầm quan trọng của môn học cũng như có thái độ
đúng đắn và nghiêm túc đối với bộ môn này thì mới có thể giúp cho quá
trình dạy và học đạt kết quả tốt nhất.
1.3.4 Các nhân tố tác động đến hiệu quả dạy và học môn GDCD
- Chương trình chi tiết môn GDCD trong trường THPT
Kế hoạch dạy học là do nhà nước ban hành, trong đó quy định các
môn học, trình tự dạy các môn học, qua từng năm học, việc tổ chức năm
học (số tuần thực học, số tuần lao động và nghỉ, chế độ học tập hàng
tuần, hàng ngày). Số lượng các môn học và số tiết học dành cho mỗi môn
học là khác nhau, do vậy nó có ảnh hưởng to lớn và quyết định tới hiệu
quả của quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
- Sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác
Sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác dùng chung trong các
trường học sẽ do nhà nước quy định.
Nếu chương trình dạy học quy định phạm vi dạy học của các môn
học thì sách giáo khoa có nhiệm vụ trình bày nội dung của môn học một
cách rõ ràng, cụ thể và chi tiết với cấu trúc xác định. Sách giáo khoa là
hình thái vật chất của môn học, của nội dung học vấn mà môn học thể
hiện.
Sách giáo khoa trình bày những nội dung cơ bản, những thông tin
cần thiết, vừa sức đối với học sinh và theo một hệ thống chặt chẽ. Chức
năng của sách giáo khoa là giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu những
tri thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và giáo dục các
phẩm chất nhân cách cho học sinh. Mặt khác, sách giáo khoa cũng là cơ sở
để giáo viên dựa vào đó xác định nội dung, lựa chọn phương pháp,
phương tiện dạy học để tổ chức tốt công tác dạy học của mình.
- Ngoài sách giáo khoa, ở nhà trường phổ thông còn có những sách và
các tài liệu tham khảo khác dành cho giáo viên và học sinh như: Sách
hướng dẫn giảng dạy, sách tra cứu, các loại từ điển, sách bài tập, những
bản đồ địa lý và lịch sử, sách dùng cho các giờ ngoại khoá…Các tài liệu
học tập này giúp học sinh mở rộng, bổ sung, đào sâu kiến thức phù hợp
với trình độ và hứng thú của mình.
Trong quá trình học tập, học sinh phải luôn kết hợp học ở sách giáo
khoa và các tài liệu tham khảo khác nhằm củng cố kiến thức một cách
đầy đủ.
- Yếu tố người học trong viẹc lĩnh hội kiến thức môn GDCD
Người học là người mà với năng lực cá nhân của mình tham gia vào
một quá trình để thu lượm một tri thức mới.
Người học là người tìm cách học và tìm cách hiểu nhằm thu hút về
phía mình đối tượng tri thức và chiếm lấy làm sở hữu. Từ đó người học
từng bước tiếp thu và tổ chức quá trình tiếp thu một cách độc lập, sáng
tạo các hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhằm hình thành năng lực và
thái độ đúng, tạo ra động lực của việc học và hình thành nhân cách của
bản thân. Vai trò chủ động, tích cực năng động của người học trong quá
trình học tập có tính chất quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, lĩnh hội
kiến thức và từng bước hoàn thiện nhân cách của bản thân mà không ai có
thể thay thế được. Do vậy học sinh muốn đạt hiệu quả cao trong học tập
phải biết phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập của mình, thực hiện học
đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
- Yếu tố người dạy đối với việc truyền tải các kiến thức của môn
GDCD
Người dạy là người bằng kiến thức , kinh nghiệm của mình chịu
trách nhiệm hướng dẫn người học. Người dạy chỉ cho người học cái đích
phải đạt, giúp đỡ, làm cho người học hứng thú học và đưa họ tới đích. Do
đó có thể nói vai trò người dạy là giúp đỡ người học học và hiểu. Người
dạy phục vụ người học.
- Giáo viên GDCD cũng phải đảm bảo những yêu cầu, mục đích như
vậy, họ phải được trang bị cả về chuyên môn và nghiệp vụ, có lòng yêu
nghề, nhiệt tình, say mê và tính sáng tạo cao, quan tâm đến học sinh, hiểu
tâm lý học sinh, tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập
khác nhau ( nội khoá, ngoại khoá…)
- Cơ sở vật chất cho việc dạy và học môn GDCD
Cơ sở vật chất là cái đảm bảo nâng cao hiệu quả dạy và học, bao
gồm các yếu tố như nhà trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học( bàn
ghế, bảng, các thiết bị khác…)
Trường lớp là yếu tố “cần” trong toàn bộ quá trình dạy và học song
yếu tố quyết định trình độ hoạt động dạy và học không chỉ là ở chỗ dạy
và học cái gì mà còn là dạy cái đó bằng phương pháp và phương tiện nào.
Theo nghĩa hẹp: Phương tiện dạy học là thiết bị nhằm đạt được mục đích
dạy học đã đặt ra. Theo nghĩa rộng: Phương tiện dạy học là toàn bộ sự
vật hiện tượng trong thời gian tham gia và quá trình dạy học, đóng vai trò
là công cụ hay điều kiện để giáo viên và học viên sử dụng làm khâu trung
gian tác động vào đối tượng dạy học.
Một vật nào đó được coi là phương pháp dạy học khi và chỉ khi nó
được đặt trong mối quan hệ giữa nó với đối tượng dạy. Tức là giáo viên
hay học sinh dùng làm công cụ là khâu trung gian để tác động đến đối
tượng dạy học.
Phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm
tăng sức mạnh tác động của giáo viên và học sinh tới đối tượng dạy và
học nhưng một phương tiện có thể trở thành phương tiện dạy học khi và
chỉ khi người giáo viên và học viên biết cách sử dụng nó.
Trên thực tế, có các phương tiện dạy của giáo viên và phương tiện
học của học sinh, hai loại phương tiện này vừa độc lập vừa phụ thuộc
lẫn nhau và quan hệ chuyển hoá cho nhau.
Nói tóm lại, phương tiện dạy học là tập hợp những đối tượng vật
chất và tinh thần được giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận
nguon tai.lieu . vn