Xem mẫu

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, giáo dục và đào tạo đã được chúng ta xây dựng là quốc sách hàng đầu để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ở bậc phổ thông nước ta hiện nay, giáo dục ngoài mục tiêu trang bị cho người học những tri thức hiểu biết của loài người, còn hướng tới mục tiêu hình thành ở người học ý thức công dân, hoàn thiện nhân cách con người, giúp các em định hướng đúng đắn về thế giới, về con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Môn GDCD được xem là một trong những môn quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu này. GDCD có ý nghĩa trong việc định hướng cho tương lai phát triển của đất nước, giáo dục bồi dưỡng cho học sinh những chuẩn mực đạo đức, hình thành nhân cách và những hiểu biết về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi công dân, trang bị cho học sinh những hiểu biết lí luận chính tri - xã hội cần thiết mà người công dân phải có để họ ứng xử với nhà nước, cộng đồng xung quanh và xã hội phù hợp với các chuẩn mực giá trị xã hội. Nói tóm lại, môn GDCD ở bậc phổ thông có vai trò hết sức quan trọng. Nó góp phần đào tạo cho đất nước những con người hiện đại cả về mặt đạo đức lẫn mặt tài năng, trí tuệ và óc sáng tạo, những người hiền tài và chính trực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Dù có tầm quan trọng như vậy nhưng GDCD từ xưa thường được coi là môn học phụ. Người học sinh trên ghế nhà trường chỉ chăm lo cho tương lai nghề nghiệp của mình mà rất ít dành thời gian chuẩn bị cho mình những kiến thức đạo đức, những hiểu biết lí luận chính trị xã hội. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ giáo viên giảng dạy còn mỏng, chưa chuyên sâu, trang thiết bị dạy học còn rất hạn chế, vẫn áp dụng phương pháp dạy học cũ, lí luận chưa đi đôi với thực tiễn… Vì thế, chất lượng dạy và học môn GDCD còn thấp.
  2. Xuất phát từ thực trạng trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy và học môn GDCD trong các trường THPT thuộc quận Cầu Giấy- Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên năm 2008. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hiệu quả dạy và học môn GDCD để đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn học này. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ 1: làm sáng tỏ một số cơ sở lí luận về hiệu quả học dạy và học môn GDCD trong trường phổ thông. Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu thực trạng hiệu quả học tập môn GDCD trong một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy- Hà Nội. Nhiệm vụ 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn GDCD trong một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy-Hà Nội. 4. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hiệu quả dạy và học môn GDCD ở một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy-Hà Nội. 5. Khách thể nghiên cứu Giáo viên và học sinh trường THPT. 6. Phạm vi nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu ở một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy-Hà Nội. Với 511 học sinh và 15 thầy cô giáo. 7. Giả thuyết nghiên cứu Hiện nay hiệu quả dạy và học GDCD ở một số trường THPT thuộc quận Cầu Giấy – Hà Nội là chưa tốt, thực trạng này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu tìm hiểu đúng nguyên nhân của thực trạng đó, chúng ta có thể xây dựng được một số biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học môn học này 8. Phương pháp nghiên cứu
  3. 8.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận Nghiên cứu phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan đến hiệu quả dạy và học môn GDCD nhằm xây dựng cơ sở cho việc nghiên cứu lý luận của đề tài. Nghiên cứu các công trình khoa học, các tài liệu có liên quan về nội dung và phương pháp dạy học GDCD. 8.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 8.2.1. Phương pháp điều tra giáo dục - Điều tra cơ bản trong giáo dục Xem xét kết quả học tập qua bảng điểm, phiếu điều tra để biết được hiệu quả học tập môn GDCD nhằm đánh giá một cách chính xác và đầy đủ, xem xét thực trạng hiệu quả học tập môn GDCD. - Trưng cầu ý kiến Thăm dò ý kiến của học sinh thông bảng hỏi bao gồm các câu hỏi đóng, câu hỏi mở…Khi nhgiên cứu đề tài, chúng tôi dùng phương pháp này làm phương pháp chủ yếu. - Phương pháp nghiên cứu sư phạm Thông qua vở ghi, vở bài tập, bài kiểm tra, giáo án của giáo viên từ đó bổ xung cho phương pháp chính. - Phương pháp quan sát Tiến hành quan sát học sinh trong quá trình học sinh học tập trên lớp và khi học sinh làm bài kiểm tra, để đánh giá ý thức thái độ của học sinh đối với môn học. Tiến hành quan sát giờ dạy trên lớp của giáo viên . 8.2.2. Lấy ý kiến chuyên gia Qua buổi tọa đàm, hội thoại để lấy ý kiến chuyên gia về hiệu quả dạy và học môn GDCD. 8.2.3. Phương pháp trò chuyện Trò chuyện với học sinh, giáo viên…để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả dạy và học môn GDCD, trên cơ sở đó đề ra biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học của bộ môn.
  4. 8.3 Phương pháp toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu đã điều tra và thực nghiệm. 9. Ý nghĩa của đề tài 9.1 Ý nghĩa lý luận Đề tài có ý nghĩa bổ sung vào cơ sở lý luận cho hoạt động giảng dạy các bộ môn nói chung và môn GDCD nói riêng, mang lại cách nhìn chính xác hơn, hoàn thiện hơn, đúng đắn hơn về tầm quan trọng của môn GDCD. Đồng thời, giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 9.2 Ý nghĩa thực tiễn Đề tài đã nêu ra một số giải pháp và kiến nghị hữu hiệu nhất góp phần nâng cao hiệu quả của môn học trong thực tiễn để có thế áp dụng một cách có hiệu quả vào công tác giảng dạy của từng giáo viên, làm cho hiệu quả dạy học của giáo viên đặc biệt là giáo viên GDCD cao hơn. Đề tài cũng tích cực đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả dạy và học bộ môn này trong các trường THPT, trước hết là trong nhận thức của mọi người về môn vị trí và tầm quan trọng của môn GDCD, từ đó có những hành động thực tiễn tích cực đối với bộ môn.
  5. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1 Tình hình nghiên cứu Trước đây, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này, dưới đây, chúng tôi sẽ đưa ra một số đề tài có liên quan đến nội dung của đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu: -"Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Đông Sơn 1 tỉnh Thanh Hoá"- Trần Thị Hồng, ĐHSPHN, 2006 -"Tích cực hoá phương pháp thuyết trình trong dạy học phần: "Công dân với kinh tế" môn GDCD ở trường THPT Thuận Thành số 2 tỉnh Bắc Ninh"- Khúc Tuấn Nam, ĐHSPHN, 2006 -"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD ở trường THPT"- Ông Thị Hải, ĐHSPHN, 2007 -"Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD phần: "Công dân với các vấn đề chính trị-xã hội" ở trường THPT Đinh Tiên Hoàng- Ninh Bình"- Phạm Thị Minh Phúc, ĐHSPHN, 2007 -"Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần "Một số vấn đề cơ bản xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay" môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Tuần Giáo- Điện Biên", Nguyễn Quang Lâm, ĐHSPHN, 2007 -"Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học phần "Công dân với kinh tế" môn GDCD ở trường THPT Châu Thành, Bà Rịa- Vũng Tàu", Nguyễn Nghĩa Cường, ĐHSPHN, 2007 1.2. Dạy và học môn GDCD 1.2.1 Vị trí và tầm quan trọng - Nền giáo dục XHCN ở nước ta có mục đích là đào tạo ra những con người mới, phát triển toàn diện hài hòa các mặt : Đức-Trí-Thể-Mỹ- Kỹ, phẩm chất của người lao động mới.
  6. Cùng với các môn học khác, GDCD cũng nhằm vào mục đích đó. Môn GDCD là môn khoa học xã hội trong trường THPT, trực tiếp giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức tác phong, chuẩn mực của người lao động mới. Đồng thời, trang bị những kiến thức lý luận có hệ thống của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng năng lực và phương pháp luận khoa học trong thực tiễn. - Tầm quan trọng của môn GDCD GDCD trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, về hệ thống giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị, phương hướng phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc…Từ đó nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi học sinh, xác định vị trí của bản thân với tư cách là chủ thể của sự phát triển cá nhân, xã hội và tự nhiên. Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, hiện nay việc dạy và học môn GDCD chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.Trên thực tế, có nhiều trường đã xem nhẹ môn này, thậm chí một số trường chuyên và trường dân lập đã bỏ môn này ra khỏi chương trình giảng dạy. Trên cơ sở thực trạng dạy và học môn GDCD và tầm quan trọng của nó hiện nay, chúng ta cần phải đổi mới nội dung phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn GDCD nhằm góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với cơ chế thị trường, thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH, thích ứng với xu thế của thời đại. 1.2.2 Quá trình dạy học môn GDCD giúp cho người học nhận thức được tri thức loài người, phát huy năng lực thực hành của họ Dạy học là hoạt động chung của người dạy và người học, hai hoạt động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, truyền tải những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau. Đồng thời giáo dục còn trang bị cho mỗi người phương pháp học tập để thích ứng được với một xã hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời.
  7. * Ý nghĩa của quá trình dạy học môn GDCD Dạy học là con đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết dạy là con đường thuận lợi nhất giúp học sinh trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể nắm vững được một khối lượng tri thức với chất lượng cần thiết. Quá trình dạy học môn GDCD được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch với nội dung dạy học bao gồm hệ thống những tri thức và hệ thống những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, với các hình thức tổ chức dạy học đa dạng. Với sự lãnh đạo điều khiển linh hoạt của thầy giáo, học sinh dễ dàng và nhanh chóng nắm được hệ thống những chân lý khoa học mà biết bao thế hệ các nhà khoa học phải trải qua hàng thế kỷ mới phát hiện và tổng kết được. Dạy và học môn GDCD nói riêng và các môn học khác nói chung còn là con đường quan trọng bậc nhất giúp học sinh phát huy một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo. Như vậy trong quá trình dạy học có sự tương tác cần thiết giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó học sinh nắm nhanh chóng và có hiệu quả những tri thức khoa học cần thiết. Những hệ thống tri thức khoa học này được nắm vững trên cơ sở học sinh tiến hành các thao tác hoạt động trí tuệ, đặc biệt là thao tác tư duy. Đồng thời các thao tác hoạt động trí tuệ, thông qua đó lại được phát triển và hoàn thiện thêm một bước. Dạy học môn GDCD còn là một trong những con đường chủ yếu góp phần giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và những phẩm chất đạo đức của con người mới XHCN. Nhờ quá trình học tập môn học này, học sinh có thể nắm vững có hiệu quả hệ thống những tri thức khoa học cần thiết, chính những tri thức khoa học lại này giúp học sinh dần dần nắm được bản chất của thế giới, của tự nhiên - xã hội và bản thân mình. Những tri thức đó giúp học sinh có quan điểm và đặc biệt là có hành động đúng đắn trong mối quan hệ với tự nhiên-xã hội và với bản thân mình.
  8. Từ đó chúng ta có thể coi quá trình dạy và học môn GDCD là một trong những hoạt động đặc trưng nhất, chủ yếu nhất của nhà trường được thực hiện bởi các chủ thể nhất định là thầy và trò. * Giáo viên GDCD phải được trang bị đầy đủ cả về chuyên môn và nghiệp vụ. Dạy học là một vấn đề bao gồm nhiều mặt, thầy giáo là người có vai trò đa diện, là người hướng dẫn học sinh trong cuộc hành trình học hỏi. Người thầy giáo phải có kinh nghiêm hiểu biết về “lộ trình” và về “du khách”, đồng thời đặt mục tiêu và giới hạn của việc “du hành” tùy thuộc theo khả năng của học sinh. Thầy giáo xác định con đường phải theo, làm cho mọi khía cạnh của cuộc hành trình có ý nghĩa hơn và cũng trong quá trình này thầy giáo còn đánh giá các bước tiến cùng với sự cộng tác của “du khách” đồng hành. Cũng như các môn khoa học khác, người giáo viên GDCD phải được trang bị đầy đủ và từng bước hoàn thiện về chuyên môn của mình. Họ phải là những người biết tìm tòi học hỏi, bởi họ không chỉ là người dạy mà còn là người học. Học từ sách vở, từ cuộc sống và ngay cả với học sinh của mình. Đặc biệt đối với môn GDCD thì người thầy giáo muốn giáo dục được người khác, trước hết phải tu dưỡng rèn luyện về mọi mặt, phải có tinh thần học tập thường xuyên, liên tục, suốt đời, học tập không có bậc thang cuối cùng, nhất là trong giai đoạn đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo hiện nay.Như vậy, người giáo viên GDCD mới có thể thực hiện đầy đủ và có hiệu quả chức năng của mình. Như nhà giáo dục người Nga Ginôviep đã nói: “Để cung cấp cho người học một hạt nhỏ hào quang kiến thức, người thầy giáo phải uống cạn một biển cả hào quang ánh sáng”. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên GDCD nắm vững nhiệm vụ, yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của bộ môn và biết vận dụng một cách sáng tạo vào từng bài học lý thuyết cũng như thực hành sẽ là điều kiện quan trọng nhất để đem lại hiệu quả cao cho công tác giảng dạy.
  9. Không những người giáo viên GDCD phải trau dồi đầy đủ và hoàn thiện tri thức cho bản thân để truyền thụ cho học sinh, mà họ còn phải hiểu và nắm được thông tin ngược từ học sinh, để kịp thời chỉ đạo, tổ chức, điều khiển quá trình dạy học nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. Trong quá trình dạy học môn GDCD, việc luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và sử dụng phương pháp đó một cách hợp lý sẽ là một công cụ giúp cho quá trình giảng dạy của giáo viên đạt hiệu quả. Phương pháp nào là tối ưu nhất để truyền tải nội dung dạy học cho người học? Phương tiện nào là tốt nhất?.Chỉ khi người giáo viên trả lời tốt những câu hỏi này, họ mới có được những phương pháp dạy học phù hợp với bộ môn để đạt được hiệu quả tốt nhất. Có thể hiểu phương pháp dạy học là những con đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học. Người giáo viên GDCD hiểu và nắm vững các phương pháp học tích cực đồng thời áp dụng một cách sáng tạo, có hiệu quả vào giảng dạy mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ của mình. * Lòng yêu nghề, sự nhiệt tình và tính sáng tạo là rất cần thiết đối với giáo viên dạy GDCD GDCD là một bộ môn lý luận tương đối khó trong trường THPT, muốn học sinh nắm bắt được đầy đủ kiến thức và có hứng thú trong học tập thì người giáo viên cần phải có lòng say mê nghề nghiệp, sự nhiệt tình trong giảng dạy. Thầy giáo mở ra một chân trời mênh mông cho học sinh. Thầy nhìn thấy tiềm năng đa dạng của họ như những con người. thầy tin tưởng vào những khả năng vĩ đại của con người. Thầy giáo cảm thấy hứng thú với ý nghĩ rằng: nghề dạy học ở khía cạnh tích cực nhất của nó luôn luôn chủ yếu là việc phát hiện, bộc lộ và phát triển những gì tiềm tàng trong con người học sinh. Vì vậy, có lẽ bổn phận có ý nghĩa nhất của người giáo viên dạy GDCD là cung cấp một tầm nhìn vĩ đại cho học sinh, người thầy giáo theo đúng nghĩa là người có trí tưởng tượng linh hoạt, sự cao cả của cảm xúc, cảm thông và yêu thương con người, sự khôn ngoan trong việc đánh giá tâm tính, khả năng đặt kế hoạch, sức
  10. mạnh của lòng trung thành, sự chịu đựng, sự nắm bắt nhạy bén và nhanh chóng các nhân tố khống chế các tình huống phức tạp. Để có được những yếu tố trên thì họ phải có lòng yêu nghề, sự nhiệt tình và tính sáng tạo trong giảng dạy, đồng thời luôn luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong quá trình truyền tải kiến thức muốn đạt được hiệu quả cao nhất người giáo viên luôn luôn phải tích cực, chủ động, sáng tạo, biết kết hợp lý luận và thực tiễn. Họ không những chỉ là người sáng tạo mà còn là người kích thích sự sáng tạo của học sinh, từ đó giúp cho quá trình dạy học đạt được mục đích tối ưu. 1.2.3 Tính tích cực, tính tự lực nhận thức và tính sáng tạo trong học tập môn GDCD * Tính tích cực học tập Theo quan niệm mới hiện nay thì học sinh giữ vai trò chủ thể của nhận thức còn thầy giáo chỉ là người điều khiển nhận thức. Tính tự giác, tích cực của học sinh xuất phát từ nhận thức nhiệm vụ, yêu cầu của học tập: “học cái gì ?”, “học để làm gì ?”. Do đó đã đưa tới tính tự giác, tích cực trong học tập. Trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức GDCD, tính tự giác, tích cực học tập là điều kiện quan trọng để ghi nhớ, lĩnh hội tri thức vì không thể có ai học thay mình. Tính tự giác của học sinh sẽ dẫn đến sự say mê, hào hứng trong học tập, đó là điều kiện để họ tiếp thu những tri thức khó. Với tư cách là chủ thể trong quá trình giáo dục, học sinh tiếp nhận các tác động giáo dục một cách có chọn lọc thông qua lăng kính chủ quan của mình và tự vận động biến các tác động, yêu cầu giáo dục từ bên ngoài thành nhu cầu được giáo dục bên trong của bản thân. Trong quá trình này các em đã thực hiện được vai trò tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của mình. Đó là việc các em tự ý thức được nhiệm vụ và trách nhiệm trong học tập, từ đó cố gắng hết sức mình, không bị động, phụ thuộc hoàn toàn vào giáo viên. Như nhà bác học Êđisơn đã từng nói: “ Thiên tài gồm một phần trăm cảm hứng và chín chín phần trăm là mồ hôi”.
  11. * Tính tự lực nhận thức Học sinh luôn luôn phát huy tính độc lập của tư duy, tự lực suy nghĩ trong học tập. Điều đó được thể hiện ở nhu cầu đọc thêm sách báo mở mang kiến thức và phát huy khả năng vận dụng thực tiễn. Dạy học luôn lấy hoạt động của người học làm trung tâm, còn trong quá trình học tập thì tính tự lực nhận thức là động cơ bên trong của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần khai thác tối đa tiềm năng của các em. Đặc biệt đối với môn GDCD đó là việc rất cần thiết. Trong khi có sự tác động từ phía giáo viên và nhiều yếu tố khác, muốn học tốt môn này, học sinh cần phải tự tạo cho mình khả năng và điều kiện chủ động sáng tạo trong hoạt động học tập, tích cực tìm tòi để tìm ra những chân lý và giải quyết mọi vấn đề trong học tập. Tức là quá trình học sinh thu nhận, khám phá, tái tạo lại, cấu trúc lại thế giới xung quanh, qua đó hình thành và phát triển chính bản thân mình, mà trước hết là các kiến thức về thế giới, các khả năng và phương pháp hành động cũng như những giá trị cuộc sống khác. Người học phải có “cái tôi” của riêng mình. * Tính sáng tạo Trong quá trình lĩnh hội kiến thức, học sinh không tiếp thu một cách máy móc, rập khuôn mà cần phải tư duy sáng tạo, vận dụng một cách linh hoạt vào các vấn đề của thực tiễn. Khi học môn GDCD học sinh luôn đóng vai trò quan trọng thể hiện ở chỗ: họ nhận thức được mục đích, ý nghĩa của quá trình học tập, đây là điều kiện khác biệt giữa hoạt động tự giác của con người so với hoạt động theo bản năng của con vật. chỉ có con người mới ý thức được việc làm của mình và mới xác định được trước mục đích hoạt động của mình. Học môn GDCD học sinh cũng phải biết phát huy có hiệu quả tính tích cực, độc lập, sáng tạo của mình, biết đổi mới phương pháp học tập, gắn học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn… Như vậy, muốn nắm bắt được trọn vẹn tri thức khoa học, người học sinh luôn luôn phải biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn tính tự giác,
  12. tích cực, tính tự lực nhận thức và tính sáng tạo thì mới đạt được hiệu quả cao trong học tập môn GDCD. 1.2.4 Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học môn GDCD Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học là quan hệ chuyển giao thông tin của thầy giáo và sự tiếp nhận thông tin của học sinh. Sau khi đã xử lý đầy đủ, chính xác các thông tin, người giáo viên thực hiện chuyển giao thông tin phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh. Sự phù hợp đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với giáo viên dạy GDCD, các yếu tố tác động đến thông tin mà học sinh tiếp nhận là: tư thế, tác phong lên lớp, tâm lý, giọng nói, lời nói đi đôi với việc làm cả trên lớp và trong cuộc sống, phương pháp giảng bài, sự hiểu biết về khả năng nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý và hoàn cảnh sống của học sinh…Đó là những yêu cầu mà giáo viên GDCD phải có. Từ đó, đưa ra nhiệm vụ, yêu cầu nhận thức có tác dụng đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của các em, giúp các em đưa ra nhiệm vụ học tập cho mình. Đồng thời giáo viên cũng thu nhận những tín hiệu ngược từ học sinh để giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học và giáo viên cũng tự điều chỉnh hoạt động dạy của chính mình. Cuối cùng giáo viên phân tích đánh giá kết quả học tập của cả học sinh và của cả mình. Đối với học sinh, các yếu tố ảnh hưởng tới sự tiếp nhận thông tin của các em là: năng lực nhận thức, nhu cầu, tâm lý tình cảm, điều kiện học tập…giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ cần giải quyết, có nhu cầu giải quyết nhiệm vụ, biến các nhiệm vụ khách quan thành yêu cầu chủ quan, giải quyết nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của giáo viên ở các mức độ khác nhau. Để mối quan hệ này đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải có phương pháp giảng bài tốt, luôn luôn có lòng nhiệt tình, say mê, tính sáng tạo tích cực đáp ứng nhu cầu và năng lực nhận thức của học sinh nhằm kích thích tính hứng thú học tập của họ. đồng thời học sinh phải tích cực
  13. chủ động xây dựng cho bản thân tiếp nhận thông tin nhanh nhạy, chắc chắn, luôn tạo ra cho mình sự khát khao tri thức khoa học mới 1.3 Hiệu quả dạy và học môn GDCD 1.3.1 Khái niệm hiệu quả Theo từ điển tiếng việt phổ thông: “Hiệu quả là kết quả đích thực”. “Hiệu quả là khái niệm chung để chỉ các kết quả hoạt động của các sự vật, hiện tượng bao gồm hiệu quả về kinh tế, xã hội, đời sống, phát triển nhận thức…” ( google.com.vn ). Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu một cách khái quát nhất là: Hiệu quả là kết quả đích thực của các hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau như hiệu quả về kinh tế, xã hội, đời sống, giáo dục, nhận thức… 1.3.2 Môn GDCD trong trường THPT - GDCD được xem là một trong những nội dung quan trọng được sắp sếp từ bậc tiểu học đến đại học. Mặc dù dưới những góc độ và tên gọi khác nhau, nhưng nhìn chung GDCD có nhiệm vụ: giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh những chuẩn mực đạo đức của người công dân, phản ánh những mối quan hệ đạo đức đối với lao động, công việc, đối với người khác, đối với bản thân, với nhà nước và với xã hội; những chuẩn mực và phương pháp mà người công dân phải tuân thủ bao gồm: các chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ công dân và cả những chuẩn mực về nguyên tắc ứng xử của mỗi công dân.( Theo từ điển bách khoa Việt Nam ). - Mục đích môn học GDCD là một môn khoa học thuộc khoa học xã hội, góp phần đào tạo thế hệ thanh niên trở thành những người lao động mới, hình thành cho họ những phẩm chất và năng lực, nhân cách của người công dân tương lai. Đó là những phẩm chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mới, động cơ, hoài bão, niềm tin và các hành vi tốt đẹp của con người mới, các tri thức khoa học của nó trực tiếp gắn liền với việc hình thành thế giới quan khoa học một cách tương đối có hệ thống (qua tri thức của triết học,
  14. đạo đức, pháp luật, mỹ học…). GDCD bồi dưỡng lý tưởng, khả năng hoạt động tham gia vào các phong trào cách mạng của đất nước, có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao của công dân đối với nhân dân và tổ quốc, hiểu đúng đắn đường lối chính sách cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Nói tóm lại, tri thức khoa học của GDCD bao gồm khối lượng lớn bao quát toàn bộ đời sống xã hội, nó gắn liền với con người, Góp phần hình thành ở người học thế giới quan khoa học, nhân sinh quan mới một cách đúng đắn. - Nhiệm vụ của môn GDCD GDCD bao gồm nhiều tri thức khoa học riêng rẽ. Vì vậy, nhiệm vụ của GDCD cũng được xác định cụ thể theo từng khoa học riêng: + Triết học: Hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp tư duy biện chứng, xây dựng nhân sinh quan mới trong hiện thực. + Kinh tế chính trị: xây dựng phương pháp tư duy khoa học về các quan điểm kinh tế của chủ nghĩa xã hội, gắn liền với quan điểm kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam. + Đạo đức: Hình thành cho học sinh những quan niệm đạo đức mới ( thông qua các khái niệm đạo đức ), qua đó rèn luyện ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. + Pháp luật: Xây dựng ý thức pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với cuộc sống hiện thực. + Mỹ học: Quan điểm về cái đẹp trong cuộc sống. Xây dựng chuẩn mực về cái đẹp của con người mới XHCN… Tất cả các lĩnh vực tri thức khoa học riêng rẽ đó đều tổng hợp lại, nhằm mục đích hình thành người lao động mới về mặt phẩm chất và nhân cách. - Nội dung, chương trình môn học Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ và chức năng của môn GDCD. Bộ giáo dục và đào tạo đã vạch ra cấu trúc nội dung môn học theo một hệ
  15. thống nhất định bao gồm: Triết học, kinh tế chính trị, chủ nghiã xã hội, pháp luật, đạo đức… Trong đó cấu trúc chương trình GDCD ở THPT là: + Lớp 10: Học triết học và đạo đức. + Lớp 11: Chương trình học là tổng hợp tri thức về thời đại, về xã hội, trong đó chủ đạo là: các quan điểm về kinh tế của CNTB, XHCN và các quan niệm về đạo đức. + Lớp 12: Học về pháp luật và các đường lối của Đảng ta về cách mạng XHCN. 1.3.3 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả dạy và học môn GDCD * Tri thức Trong quá trình giảng dạy, giáo viên truyền thụ cho học sinh những tri thức, kinh nghiệm của mình về phương pháp học, cách xử lý các vấn đề trong thực tiễn, cách tra cứu tài liệu…giúp cho học sinh có phương pháp học tập đúng đắn và vận dụng một cách linh hoạt vào cuộc sống. - Về lý luận: Đó là lượng tri thức mà học sinh nắm được trong quá trình giảng dạy của giáo viên. Tiêu chí biểu đánh giá quả dạy và học môn GDCD thể hiện rõ nét ở việc học sinh nắm được lượng kiến thức ít hay nhiều. Nếu hiểu sai vấn đề thì hiệu quả học tập sẽ kém. Việc nắm vững lý thuyết hay không sẽ ảnh hưởng lớn tới quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh. - Về thực hành: Là việc áp dụng lý thuyết đã được học vào thực tiễn. Hiệu quả học tập môn GDCD của học sinh không chỉ thể hiện ở việc nắm vững các kiến thức trên lớp mà phần nhiều còn thể hiện ở việc học sinh áp dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Tức là lý thuyết phải luôn gắn với thực hành. Muốn đạt được hiệu quả tốt nhất trong học tập thì hai yếu tố này không được tách rời nhau, Lý thuyết không được xa rời thực tiễn, ngược lại thực tiễn phải dựa trên cơ sở của lý thuyết. Hiểu đúng lý
  16. thuyết sẽ là điều kiện, tiền đề để vận dụng đúng, có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn. Kết quả đạt được trong thực tiễn chính là biểu hiện kiến thức mà các em nắm bắt, tiếp thu được trên lớp. - Đánh giá: Để kiểm tra hiệu quả dạy và học môn GDCD, một trong những hình thức được sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất đó là thông qua các bài kiểm tra, qua ý thức phát biểu xây dựng bài, các cuộc thi giáo viên giỏi, học sinh giỏi môn GDCD... Kết quả mà học sinh đạt được trong quá trình dạy học là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá mọi hoạt động dạy học có đạt được mục đích hay không! Kết quả học tập được thể hiện ở mức độ mà người học đạt được so với các mục tiêu đã xác định hay ở mức độ mà người học đạt được trong tương quan chung với những người cùng học. Dù hiểu theo nghĩa nào thì đánh giá kết quả học tập cũng phản ánh hiệu quả học tập mà học sinh đạt được sau một quá trình học tập. Như vậy, đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu đề ra cho học sinh trong một giai đoạn học tập, các mục tiêu này thể hiện ở từng môn học nói chung, môn GDCD nói riêng. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ nắm được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra. kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng là một trong những tiêu chí thể hiện chất lượng và hiệu quả dạy học của giáo viên. Bên cạnh đó để đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên còn căn cứ vào các hình thức như: Kiểm tra giáo án của giáo viên, các buổi dự giờ… Có thể biết mức độ lĩnh hội của học sinh được xem xét qua việc học sinh nghe giảng, hiểu bài, Từ đó nắm vững, ghi nhớ trên cơ sở những kiến thức đã học, tiếp theo là tiến hành phân tích tổng hợp để có thể vận dụng linh hoạt vào thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thầy cô luôn là người hướng dẫn cho học sinh biết cách học tốt và con đường nắm bắt đầy đủ các tri thức một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Còn học sinh, nếu thực hiện tốt được quy trình này thì chắc chắn là kết quả học tập của họ nhất định sẽ đạt được như mong muốn.
  17. * Kỹ năng Theo từ điển tiếng việt phổ thông, kỹ năng “Là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tế”. Như vậy, kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới. Bất cứ kỹ năng nào cũng phải dựa trên cơ sở lý thuyết. Cơ sở lý thuyết đó là kiến thức. Bởi vì, học sinh muốn thực hiện được kỹ năng của mình trong thực tế thì phải hiểu được mục đích, biết cách thức đi đến kết quả và hiểu những điều kiện cần thiết để triển khai các cách thức đó. Trong thực tế, dạy học nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng, học sinh trường gặp khó khăn khi vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các bài tập cụ thể, chính là do kiến thức không chắc chắn, khái niệm trở nên “ chết cứng ” và không biến thành cơ sở của kỹ năng. Muốn kiến thức là cơ sở của kỹ năng thì kiến thức đó phải phản ánh đầy đủ thuộc tính của bản chất, được thử thách trong thực tiễn và tồn tại trong ý thức với tư cách là công cụ của hành động. Vì vậy, việc giáo dục để hình thành kỹ năng cho học sinh trong nhà trường là rất cần thiết đối với các em. Nhưng muốn hình thành kỹ năng khi học môn GDCD thì cần phải giúp các học sinh biết tìm tòi để nhận xét ra các yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng, giúp học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các tình huống trong học tập, xác lập mối liên quan giữa các tình huống và kiến thức tương xứng. * Thái độ học tập của học sinh Đối với học sinh muốn học tốt môn GDCD thì trước hết phải có ý thức xây dựng bài, có thái độ nghiêm túc trong học tập, chuyên cần, chủ động tìm kiếm các tài liệu từ các nguồn khác nhau để phục vụ cho việc học tập của mình. Học sinh cần có lòng khao khát mở rộng tri thức, mong muốn có nhiều hiểu biết, say mê trong học tập. Quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập…phải có những nỗ lực bên trong, đôi khi có cả sự đấu tranh với chính bản thân mình để hoàn thành mục đích học tập. Nếu có nhu cầu học thực sự thì học sinh sẽ có thái độ tốt đối với môn học.
  18. GDCD là môn học vừa “ khô và khó”, bởi vậy việc tiếp thu kiến thức là không dễ, nếu không có một thái độ nghiêm túc trong học tập, không biến tư tưởng “phải học” trở thành “ nhu cầu” của mình thì chắc chắn lượng kiến thức mà các em tiếp thu được sẽ rất ít và mơ hồ. Chỉ khi nào học sinh tự ý thức được tầm quan trọng của môn học cũng như có thái độ đúng đắn và nghiêm túc đối với bộ môn này thì mới có thể giúp cho quá trình dạy và học đạt kết quả tốt nhất. 1.3.4 Các nhân tố tác động đến hiệu quả dạy và học môn GDCD - Chương trình chi tiết môn GDCD trong trường THPT Kế hoạch dạy học là do nhà nước ban hành, trong đó quy định các môn học, trình tự dạy các môn học, qua từng năm học, việc tổ chức năm học (số tuần thực học, số tuần lao động và nghỉ, chế độ học tập hàng tuần, hàng ngày). Số lượng các môn học và số tiết học dành cho mỗi môn học là khác nhau, do vậy nó có ảnh hưởng to lớn và quyết định tới hiệu quả của quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. - Sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác Sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác dùng chung trong các trường học sẽ do nhà nước quy định. Nếu chương trình dạy học quy định phạm vi dạy học của các môn học thì sách giáo khoa có nhiệm vụ trình bày nội dung của môn học một cách rõ ràng, cụ thể và chi tiết với cấu trúc xác định. Sách giáo khoa là hình thái vật chất của môn học, của nội dung học vấn mà môn học thể hiện. Sách giáo khoa trình bày những nội dung cơ bản, những thông tin cần thiết, vừa sức đối với học sinh và theo một hệ thống chặt chẽ. Chức năng của sách giáo khoa là giúp học sinh lĩnh hội, củng cố, đào sâu những tri thức tiếp thu được trên lớp, phát triển năng lực trí tuệ và giáo dục các phẩm chất nhân cách cho học sinh. Mặt khác, sách giáo khoa cũng là cơ sở để giáo viên dựa vào đó xác định nội dung, lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học để tổ chức tốt công tác dạy học của mình.
  19. Ngoài sách giáo khoa, ở nhà trường phổ thông còn có những sách và các tài liệu tham khảo khác dành cho giáo viên và học sinh như: Sách hướng dẫn giảng dạy, sách tra cứu, các loại từ điển, sách bài tập, những bản đồ địa lý và lịch sử, sách dùng cho các giờ ngoại khoá…Các tài liệu học tập này giúp học sinh mở rộng, bổ sung, đào sâu kiến thức phù hợp với trình độ và hứng thú của mình. Trong quá trình học tập, học sinh phải luôn kết hợp học ở sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo khác nhằm củng cố kiến thức một cách đầy đủ. - Yếu tố người học trong viẹc lĩnh hội kiến thức môn GDCD Người học là người mà với năng lực cá nhân của mình tham gia vào một quá trình để thu lượm một tri thức mới. Người học là người tìm cách học và tìm cách hiểu nhằm thu hút về phía mình đối tượng tri thức và chiếm lấy làm sở hữu. Từ đó người học từng bước tiếp thu và tổ chức quá trình tiếp thu một cách độc lập, sáng tạo các hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhằm hình thành năng lực và thái độ đúng, tạo ra động lực của việc học và hình thành nhân cách của bản thân. Vai trò chủ động, tích cực năng động của người học trong quá trình học tập có tính chất quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, lĩnh hội kiến thức và từng bước hoàn thiện nhân cách của bản thân mà không ai có thể thay thế được. Do vậy học sinh muốn đạt hiệu quả cao trong học tập phải biết phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập của mình, thực hiện học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. - Yếu tố người dạy đối với việc truyền tải các kiến thức của môn GDCD Người dạy là người bằng kiến thức , kinh nghiệm của mình chịu trách nhiệm hướng dẫn người học. Người dạy chỉ cho người học cái đích phải đạt, giúp đỡ, làm cho người học hứng thú học và đưa họ tới đích. Do đó có thể nói vai trò người dạy là giúp đỡ người học học và hiểu. Người dạy phục vụ người học.
  20. Giáo viên GDCD cũng phải đảm bảo những yêu cầu, mục đích như vậy, họ phải được trang bị cả về chuyên môn và nghiệp vụ, có lòng yêu nghề, nhiệt tình, say mê và tính sáng tạo cao, quan tâm đến học sinh, hiểu tâm lý học sinh, tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau ( nội khoá, ngoại khoá…) - Cơ sở vật chất cho việc dạy và học môn GDCD Cơ sở vật chất là cái đảm bảo nâng cao hiệu quả dạy và học, bao gồm các yếu tố như nhà trường, lớp học, trang thiết bị dạy và học( bàn ghế, bảng, các thiết bị khác…) Trường lớp là yếu tố “cần” trong toàn bộ quá trình dạy và học song yếu tố quyết định trình độ hoạt động dạy và học không chỉ là ở chỗ dạy và học cái gì mà còn là dạy cái đó bằng phương pháp và phương tiện nào. Theo nghĩa hẹp: Phương tiện dạy học là thiết bị nhằm đạt được mục đích dạy học đã đặt ra. Theo nghĩa rộng: Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật hiện tượng trong thời gian tham gia và quá trình dạy học, đóng vai trò là công cụ hay điều kiện để giáo viên và học viên sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối tượng dạy học. Một vật nào đó được coi là phương pháp dạy học khi và chỉ khi nó được đặt trong mối quan hệ giữa nó với đối tượng dạy. Tức là giáo viên hay học sinh dùng làm công cụ là khâu trung gian để tác động đến đối tượng dạy học. Phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tác động của giáo viên và học sinh tới đối tượng dạy và học nhưng một phương tiện có thể trở thành phương tiện dạy học khi và chỉ khi người giáo viên và học viên biết cách sử dụng nó. Trên thực tế, có các phương tiện dạy của giáo viên và phương tiện học của học sinh, hai loại phương tiện này vừa độc lập vừa phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ chuyển hoá cho nhau. Nói tóm lại, phương tiện dạy học là tập hợp những đối tượng vật chất và tinh thần được giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận
nguon tai.lieu . vn