Xem mẫu
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Nền văn
hóa nghìn năm của dân tộc ta đã được gìn giữ và thể hiện đậm nét qua hình ảnh
các làng nghề truyền thống trên khắp đất nước. Hàng thủ công mỹ nghệ
(TCMN) qua đó đã trở thành những vật thể hữu dụng kết tinh đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc và sự tài hoa của những con người Việt Nam cần cù, khéo léo.
Đó cũng là những sứ giả độc đáo thay lời nhân dân Việt Nam giới thiệu về vẻ
đẹp của con người và dân tộc mình rộng rãi đến toàn thế giới.
Trong xu thế tất yếu của toàn cầu hóa và trong bước chuyển mình l ớn lao
của thời đại mới, với mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã từng bước vươn ra thế giới, đưa nhiều
mặt hàng chất lượng cao của đất nước mình đến với người tiêu dùng quốc tế.
Hàng TCMN Việt Nam, với những nét đặc sắc, tinh xảo, hoàn mỹ, đ ược tạo
nên từ bàn tay tài hoa của hàng vạn người lao động ở các làng nghề nổi tiếng,
cũng theo xu thế chung đó mà trở thành mặt hàng kinh doanh mang lại lợi nhuận
cao cho các doanh nghiệp và là ngành hàng xuất khẩu nhiều tiềm năng, được ưa
chuộng trên toàn thế giới. Hàng TCMN đã đóng góp thêm vào giá trị sản xuất
công nghiệp của các địa phương, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Không những vậy,
ngành sản xuất hàng TCMN với đặc tính sử dụng nhiều lao động thủ công đã
tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn, góp phần ổn
định kinh tế và thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam, giảm tệ nạn xã hội, duy
trì và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó làm cho ngành sản xuất này trở
thành lĩnh vực kinh doanh không những có ý nghĩa kinh tế hiệu quả mà còn đảm
bảo ý nghĩa xã hội đáng trân trọng. Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu hàng
TCMN sẽ mang lại lợi ích to lớn về cả kinh tế và văn hóa - xã hội cho đ ất
nước, đảm bảo sự phát triển đồng đều và ổn định, đồng thời tiếp thêm sức tồn
tại lớn mạnh, vững bền cho các làng nghề truyền thống, tạo tiền đề giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới.
-1-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Tuy vậy, bên cạnh việc được coi là nhóm hàng hứa hẹn mang lại giá trị xuất
khẩu to lớn, có tỉ lệ thực thu sau xuất khẩu rất cao do sử dụng đến 95% nguyên
liệu sẵn có và rẻ tiền trong nước, hàng TCMN Việt Nam vẫn chưa tận dụng
tốt nhất những tiềm năng và lợi thế mà nó có được. Mức độ phát triển của
ngành hàng này vẫn còn nhiều hạn chế so với tiềm lực của nó, khi doanh thu
xuất khẩu những năm gần đây dù có tăng trưởng nhưng vẫn chưa đạt chỉ tiêu
đề ra, các mặt hàng TCMN còn bộc lộ nhiều điểm yếu và lượng xuất khẩu còn
thiếu ổn định. Điều đó cho thấy ngành sản xuất hàng TCMN cần đ ược quan
tâm phát triển đúng hướng và đầu tư lâu dài để nâng cao chất l ượng hàng hóa,
ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào và củng cố thị trường đầu ra cho sản phẩm.
Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái như hiện nay, thì
việc đưa ra những giải pháp cần thiết, kịp thời và hiệu quả để phát triển nhóm
hàng này càng trở nên quan trọng và cần được quan tâm đặc biệt hơn.
Vì những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho chuyên đ ề
kinh tế của mình là: “Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt
Nam hiện nay”, nhằm tìm hiểu thực trạng xuất khẩu hàng TCMN ở nước ta
trong những năm gần đây, qua đó phân tích đánh giá chung về những thuận l ợi
và khó khăn của việc xuất khẩu hàng TCMN ra thị trường thế giới và từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh và năng lực xuất khẩu
của hàng TCMN Việt Nam.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu tình hình xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam
những năm gần đây (2009, 2010).
- Đánh giá những cơ hội và thách thức trong xuất khẩu hàng TCMN.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định và phát triển xuất khẩu hàng
TCMN.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi không gian
-2-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Phạm vi không gian ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi thời gian
Số liệu sử dụng cho đề tài là số liệu thu thập của các năm 2009, 2010 và
nửa đầu năm 2011.
3.3. Phạm vi nội dung
Phân tích tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam hiện
nay. Đồng thời tìm hiểu những cơ hội, thách thức và đề xuất một số giải pháp
nhằm ổn định việc xuất khẩu hàng TCMN ra thị trường thế giới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ Internet, báo chí, Tổng cục Hải quan,
Tổng cục Thống kê, Hiệp hội TCMN Việt Nam, Bộ Công Thương, Cục Xúc
tiến thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
4.2 Phương pháp phân tích số liệu
Tổng hợp các số liệu, so sánh các số liệu tương đối, số liệu tuyệt đối thu
thập được để đánh giá những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu hàng TCMN
Việt Nam sang thị trường thế giới.
-3-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Hàng thủ công mỹ nghệ
Mặt hàng TCMN là mặt hàng có quy trình sản xuất thủ công là chủ yếu,
được truyền từ đời này qua đời khác, vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm
mỹ và thể hiện được nét văn hóa đặc sắc của dân tộc.
1.1.2. Nghề và làng nghề thủ công truyền thống
1.1.2.1. Nghề thủ công truyền thống
Có rất nhiều tên gọi khác nhau để chỉ nghề thủ công truyền thống ở
nước ta như: Nghề truyền thống, nghề cổ truyền, nghề thủ công, nghề phụ,
ngành tiểu thủ công nghiệp…
Theo Từ điển bách khoa Encarta: “Nghề thủ công (handicrafts) là nghề
sản xuất hoàn toàn hay một phần bằng tay những vật dụng trang trí hay tiêu
dùng, việc sản xuất đòi hỏi kỹ năng tay chân và cả kỹ năng nghệ thuật.”
Đối với mỗi nghề được xếp vào các nghề thủ công truyền thống, nhất
thiết phải có các yếu tố sau đây:
1. Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta;
2. Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề;
3. Có nhiều nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề;
4. Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt Nam;
5. Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn, hoặc chủ yếu nhất;
6. Sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng rất
cao, vừa là hàng hóa vừa là sản phẩm văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí
trở thành các di sản văn hóa của dân tộc, mang bản sắc văn hóa Việt Nam;
7. Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng. Có đóng
góp đáng kể về kinh tế vào ngân sách Nhà nước.
-4-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
1.1.2.2. Làng nghề thủ công truyền thống
Làng nghề là thực thể vật chất và tinh thần tồn tại cố định của một hoặc
nhiều nghề thủ công truyền thống. Vì thế, mỗi nghề truyền thống đều được
bảo tồn, hoạt động, phát triển ở một làng nghề, một cụm làng nghề hay ở
nhiều làng nghề, vùng nghề trong cả nước, do tính lan tỏa và sức sống mãnh
liệt của nghề thủ công lâu đời ở nước ta cũng như bất cứ dân tộc nào khác ở
phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan…)
Ở nông thôn Việt Nam, bên cạnh những làng nông nghiệp, có các làng
có hoạt động nổi bật về một nghề thủ công nào đó và được gọi là làng nghề
hay làng nghề thủ công. Làng nghề thủ công truyền thống được xác định bằng
các yếu tố sau:
• Cộng đồng nghề nghiệp là những người thợ, các hộ, các cơ sở cùng
tham gia vào một nghề.
• Nghề có thao tác chủ yếu hay một phần bằng tay.
• Địa bàn không có ranh giới rạch ròi, có thể trùng cũng có thể không
trùng với ranh giới hành chính, có thể chỉ nằm trên một phần của một đơn vị
hành chính, hoặc trải rộng qua nhiều đơn vị hành chính khác nhau.
• Thời gian: Nghề được truyền nối trong một thời gian khá dài, việc
truyền nối ấy có thể xảy ra bên ngoài, nhưng đã được quy tụ trên đ ịa bàn và
đã trải qua vài ba thế hệ thợ.
1.2. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1.2.1. Giới thiệu chung về nghề truyền thống hàng thủ công mỹ nghệ
Nghề TCMN Việt Nam vốn được hình thành từ lâu đời. Truyền thống ấy
gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng những
sản phẩm thủ công được sản xuất và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Sản phẩm
TCMN Việt Nam có bản sắc riêng, linh hồn riêng và gây ấn tượng sâu đậm tới
mức tên của sản phẩm luôn kèm theo tên làng làm ra nó. Ở đó không chỉ t ập
trung một hay nhiều nghề thủ công như một trung tâm sản xuất vừa và lớn, mà
còn là nơi hội tụ những người thợ thủ công và nghệ nhân tài hoa.
-5-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Lịch sử phát triển nền văn hoá và kinh tế của đất nước ta luôn gắn liền
với lịch sử phát triển làng nghề. Bởi những sản phẩm TCMN không chỉ là
những vật phẩm văn hoá hay vật phẩm kinh tế thuần tuý cho sinh hoạt thường
ngày mà còn là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hoá xã hội,
trình độ phát triển kinh tế, dân trí, đặc điểm nhân văn của dân tộc.
Trước khi có nền sản xuất cơ khí hoá và hiện đại hoá, kể c ả tự đ ộng hoá
như hiện nay, thì mọi sản phẩm trong xã hội đều được làm ra bởi một nền
công nghệ duy nhất, đó là công nghệ truyền thống với bàn tay và khối óc sáng
tạo của các thế hệ thợ thủ công cùng việc sử dụng các loại công cụ sản xuất
thô sơ. Nói khác đi, mọi giá trị vật phẩm vật chất và tinh thần trong các thời kỳ
lịch sử – xã hội lúc đó của dân tộc ta, cũng như các dân tộc khác trên thế giới,
đều là sản phẩm thủ công, đều hội tụ ở các sản phẩm thủ công. Ngay cả ở
thời hiện đại, khi máy móc đã thay thế phần lớn sức lao động của con người,
nền sản xuất và sản phẩm thủ công cũng không mất đi. Với sự giúp đỡ của
máy móc và thiết bị hiện đại, công nghệ truyền thống sẽ được hiện đại hoá,
nền sản xuất thủ công thủ công truyền thống càng phát triển thuận lợi và mạnh
mẽ hơn. Hàng TCMN Việt Nam vẫn tồn tại và bước vào đời sống thường nhật
một cách giản dị, tự nhiên, dần phát triển muôn hình vạn dạng, bắt kịp với nhịp
sống ngày một cao, như một thứ gia vị không thể thiếu làm tăng thêm sắc màu
cho cuộc sống hiện đại ngày nay.
1.2.2. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Các mặt hàng TCMN của Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Có
thể kể đến, đó là: hàng gốm sứ, hàng đúc đồng, hàng mây tre đan, hàng thêu ren,
hàng thổ cẩm, hàng gỗ, hàng sơn mài, hàng kim hoàn, hàng rèn, hàng đá và một
số hàng nổi tiếng như nón, tranh dân gian, giấy dó ở các làng nghề truyền
thống… Dưới bàn tay khéo léo và khối óc tài hoa của những người thợ thủ
công, từ các nguyên liệu thô sơ, họ đã tạo ra biết bao thành phẩm không những
có giá trị về kinh tế mà có giá trị về nghệ thuật, có sức thu hút lớn không chỉ
với người tiêu dùng Việt Nam mà còn được người tiêu dùng nhiều nước ưa
chuộng.
1.2.3. Tình hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ những năm gần đây
-6-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
1.2.3.1. Cơ cấu chủ thể sản xuất
Xét về chủ thể sản xuất, hiện nay phần lớn các cơ sở sản xuất ở các
làng nghề truyền thống vẫn là các hộ gia đình, chiếm tới 90% số lượng các cơ
sở sản xuất ở các làng nghề. Tỷ lệ khiêm tốn của các doanh nghiệp cho thấy
sự phát triển về trình độ quản lý kinh tế còn chậm ở các làng nghề. Trên thực
tế, có nhiều hộ gia đình hoàn toàn có khả năng phát triển thành công ty nhưng
do trình độ nhận thức chưa cao và chưa có nhu cầu nên họ vẫn chỉ dừng ở mức
hộ gia đình. Điều này là do đặc thù sản xuất làng nghề là các thao tác công nghệ
còn đơn giản, tận dụng sức lao động thủ công là chính, không đòi hỏi vốn
nhiều với mô hình quản lý phức hợp. Cho đến nay vẫn chưa có nhà đầu tư
nước ngoài nào tham gia đầu tư vào lĩnh vực sản xuất của các làng nghề.
Một đặc điểm của các doanh nghiệp làng nghề là hầu hết giám đốc là
người địa phương, có trình độ văn hóa, có tay nghề, nắm bắt được tình hình
phát triển hàng hóa địa phương mình, có sự nhanh nhạy về đánh giá, nắm bắt
thị trường. Chính vì thế, tuy chiếm tỉ trọng nhỏ về số lượng, nhưng các doanh
nghiệp làng nghề đóng góp một tỉ lệ đáng kể trong tổng giá trị sản xuất và tỉ
trọng này có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây.
Theo Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội, trong các thành
phần kinh tế ở làng nghề Hà Nội hiện nay, Hộ cá thể chiếm tỉ trọng đáng kể
với trên 90% các chủ thể sản xuất, sau đó là các Doanh nghiệp tư nhân và công
ty trách nhiệm hữu hạn (hơn 2%), còn lại là Tổ hợp tác sản xuất, Hợp tác xã và
Công ty cổ phần chiếm tỉ trọng không đáng kể.
1.2.3.2. Quy mô sản xuất
Có thể nhận thấy, sản xuất của các làng nghề vẫn là sản xuất nhỏ lẻ,
quy mô vốn không nhiều, tập trung ở các làng nghề có quy trình sản xuất không
đòi hỏi đầu tư nhiều như mây tre, thêu … Bên cạnh đó cũng có một số làng
nghề có các hộ gia đình đầu tư với số vốn tương đối lớn, tập trung ở các nghề
gốm sứ, đồ gỗ… Tuy nhiên, ngay cả những gia đình này cũng khó so sánh được
về quy mô vốn so với các cơ sở sản xuất trong các lĩnh vực khác.
Bản thân các hộ gia đình cũng không nhận thấy s ự c ần thi ết phải t ập
trung sản xuất với các hộ gia đình khác để hình thành những cơ sở sản xuất quy
-7-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
mô lớn hơn. Lý do thường là các hộ gia đình sợ bị đánh cắp mẫu mã, bí quyết
kỹ thuật khi sản xuất tập trung. Điều này cũng đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng
và bảo hộ thương hiệu đối với các sản phẩm TCMN.
1.2.3.3. Phương thức sản xuất
Hiện nay, việc tổ chức sản xuất tại làng nghề đang có xu hướng chuyển
sang mô hình tổ chức sản xuất theo kiểu phân công chuyên môn hóa và hợp tác
hóa sản xuất theo giai đoạn công nghệ và theo chi tiết sản phẩm của nền sản
xuất lớn cơ giới hóa. Tuy nhiên trong lĩnh vực này giữa các làng nghề cũng có
một số nét khác biệt phụ thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của mặt hàng được sản
xuất ra.
Mặc dù phương thức tổ chức sản xuất của các làng nghề tuy có đ ặc
điểm khác nhau nhưng có một số nét chung là:
- Đã hình thành nhiều dây chuyền sản xuất chính phát triển song song đ ể
cùng sản xuất những mặt hàng tương tự và hoạt động theo phương thức tự sản
tự tiêu.
- Trên những dây chuyền đó đã hình thành sự phân công chuyên môn hóa và
hợp tác hóa sản xuất theo giai đoạn công nghệ và theo chi tiết sản phẩm. Chính
các tổ chức sản xuất đó đã tạo điều kiện chuyển sản xuất tại làng nghề lên
trình độ cơ khí hóa, điện khí hóa.
- Vì phát triển trên cơ sở hộ gia đình nên trên từng dây chuyền sản xuất đã
có sự hợp tác, liên kết các hộ gia đình theo mô hình tổ chức gia công công
nghiệp với các hộ vệ tinh và hộ đầu mối.
- Cũng vì phát triển trên cơ sở hộ gia đình nên tiềm lực của từng hộ tuy cho
phép thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa sản xuất từng công đoạn nhưng cũng
vì tiềm lực đó có hạn nên trình độ công nghệ được ứng dụng còn thấp so với
các nước trong khu vực nên có thể bị cạnh tranh khi thực hiện lộ trình hội nhập
kinh tế. Đây cũng là nhược điểm cần chú ý tìm giải pháp khắc phục.
1.2.4. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ những năm gần đây
Sản phẩm TCMN là mặt hàng có truyền thống lâu đời của Việt Nam, và
được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp tích c ực vào
-8-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời có một vai trò quan trọng trong
giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn.
1.2.4.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN
Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam có sự tăng trưởng
mạnh trong 10 năm gần đây. Trong giai đoạn từ năm 2000 – 2009, kim ngạch
xuất khẩu hàng TCMN tăng từ 274 triệu USD đến 880 triệu USD.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 đã
ảnh hưởng đáng kể đến doanh thu và tốc độ tăng trưởng của ngành hàng làm
kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này có sự chững lại vào năm 2009.
Giai đoạn từ cuối 2009, đầu 2010, ngành TCMN, đồ gỗ, đồ gia dụng và
quà tặng đã phục hồi trở lại, với nhiều cơ hội tăng trưởng hơn. Doanh thu
ngành hàng TCMN đạt trên 1 tỷ USD năm 2010, và thường có mức tăng trung
bình khoảng 13- 15%/ năm. Ngành hàng TCMN đã giúp tạo ra công ăn việc làm
cho hàng triệu lao động ở các làng nghề trên cả nước, đem lại nguồn thu nhập
đáng kể và ổn định, đem lại nguồn thu ngoại tệ, trong khi sử dụng nguyên liệu
chính là ở trong nước, nâng cao tỷ suất hiệu quả. Tám tháng đầu năm 2010, một
số mặt hàng như mây, tre, đan xuất khẩu đạt 135 triệu USD, gốm sứ hơn 200
triệu USD.
Trong 8 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng TCMN
từ mây, tre, cói thảm của cả nước đạt 128,6 triệu đô la Mỹ, giảm 36,32% so
cùng kỳ năm 2010, theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng Cục Hải quan.
Riêng kim ngạch trong tháng 8 là 16,7 triệu đô la Mỹ, giảm 8,59% so cùng kỳ.
Nguyên nhân là do kinh tế toàn cầu vẫn còn trong tình trạng suy thoái, những
mặt hàng TCMN trang trí lại không phải là mặt hàng thiết yếu trong danh mục
tiêu dùng của người dân nên bị giảm trừ trong mua sắm.
-9-
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Bảng 1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM MÂY, TRE, CÓI THẢM
NĂM 2009 VÀ 2010
ĐVT: USD
KMXK 2010 KNXK 2009 Tăng giảm KN
năm 2010 so năm
2009 (%)
Tổng KN 203.109.346 178.712.078 13,65
Hoa Kỳ 33.820.915 24.460.190 38,27
Nhật Bản 28.898.182 26.227.912 10,18
Đức 27.178.977 29.268.429 (7,14)
Pháp 10.034.189 7.997.754 25,46
Ôxtrâylia 9.618.422 6.748.072 42,54
Hà Lan 8.640.430 5.145.150 67,93
Đài Loan 8.127.220 8.483.463 (4,20)
Anh 6.611.794 5.484.482 20,55
Italia 6.541.492 7.403.216 (11,64)
Bỉ 6.034.618 5.206.632 15,90
Tây Ban Nha 5.940.072 7.701.257 (22,87)
Hàn Quốc 5.305.466 4.570.881 16,07
Nga 4.642.359 4.513.080 2,86
Ba Lan 3.715.938 3.989.739 (6,86)
Canada 2.550.047 2.332.703 9,32
Thuỵ Điển 2.098.637 2.603.815 (19,40)
Đan Mạch 1.749.071 1.501.643 16,48
- 10 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Nguồn: Tổng Cục Hải quan
Nhiều thị trường xuất khẩu chính của mặt hàng TCMN đang bắt đầu suy
giảm. Theo Tổng Cục Hải quan, xuất khẩu nhóm mặt hàng TCMN tại thị
trường Mỹ chiếm 15,7% tỷ trọng trong 8 tháng đầu năm với 20,3 triệu USD,
giảm 3,18% so với cùng kỳ năm trước. Riêng tháng 8, kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường này đạt 2,8 triệu USD, giảm 11,04% so với tháng 8-2010. Sau
Mỹ là thị trường Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8 đạt 2,2 triệu
USD, giảm 12,1% so với tháng 8-2010. Tính chung 8 tháng đầu năm 2011, Nhật
Bản đã nhập khẩu 17,9 triệu USD mây, tre, cói thảm từ Việt Nam, giảm
15,58% so với cùng kỳ năm 2010.
1.2.4.2. Cơ cấu mặt hàng
Hàng TCMN của nước ta thâm nhập vào các thị trường với nhiều loại
mặt hàng khác nhau nhưng trong đó tập trung chủ yếu vào 5 nhóm mặt hàng
chính là: Gốm sứ mỹ nghệ, Đồ gỗ mỹ nghệ, Mây, tre đan, Thêu ren và Thảm
len. Từ năm 1999 đến nay kim ngạch xuất khẩu của các nhóm hàng này ổn định
và tăng lên không ngừng.
C Ơ C ẤU MẶT HÀNG TH Ủ CÔNG MỸ NGH Ệ XU ẤT KH ẨU
Các loại khác, 24%
Gốm s ứ mỹ nghệ ,
43%
Thảm len, 4%
Thêu ren, 4%
Mây, tre đan, 14%
Đồ gỗ mỹ nghệ, 11%
Nguồn: Tổng cục Hải quan (2000 - 2009)
- 11 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
Qua biểu đồ trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam
chủ yếu là do xuất khẩu hàng gốm sứ đem lại. Nghề gốm sứ vốn là truyền
thống lâu đời của Việt Nam, do vậy lợi thế phát triển mặt hàng này rất dồi dào.
Tuy nhiên chi phí đầu tư ban đầu cho việc sản xuất mặt hàng này khá lớn nên
các thành phần kinh tế tư nhân, hộ gia đình khó có thể đáp ứng được.
Đồ gỗ mỹ nghệ cũng là mặt hàng đang được ưa chuộng hiện nay. Mặt
hàng này có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai vì các doanh nghiệp Việt
Nam đã dần tiếp cận thị trường EU một cách hiệu quả bằng cách thiết lập các
của hàng giới thiệu sản phẩm tại nước sở tại để bán trực tiếp không qua trung
gian.
Bên cạnh đó, hàng mây tre đan cũng đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng TCMN của nước ta. Trong tháng 3/2011 xuất khẩu mặt hàng
mây tre đan đạt 20 triệu USD, tính chung cả quý I đạt 50 triệu USD, tăng nhẹ so
với cùng kỳ năm 2010. Ngoài ra, còn có một số mặt hàng khác đem l ại kim
ngạch xuất khẩu cho ngành TCMN Việt Nam, trong đó phải kể đến mặt hàng
thổ cẩm rất có triển vọng. Mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu tại chỗ tại các cơ
sở sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động du lịch.
1.2.4.3. Cơ cấu thị trường
Cơ cấu thị trường hàng TCMN xuất khẩu có chiều hướng phát triển tốt,
theo hướng đa dạng hóa, mở rộng được nhiều thị trường mới. Hiện nay hàng
TCMN nước ta đã có mặt ở 163 nước, trong đó tập trung vào 15 nước và vùng
lãnh thổ. Trong đó có thể thấy Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Canada là các thị trường
lớn và nhiều tiềm năng.
a) Thị trường EU
Sản phẩm TCMN Việt Nam hiện nay đã có mặt ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới với tốc độ tăng trưởng 17,87%/năm. Theo Bộ Thương mại, thị
trường rộng lớn nhất và có nhiều tiềm năng nhất trong xuất khẩu hàng TCMN
Việt Nam là EU. Sản phẩm TCMN của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
này tăng lên rất nhanh trong những năm qua và hiện đang chiếm tỉ trọng l ớn
trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây cũng là thị trường ta xuất khẩu
- 12 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
được nhiều loại hàng TCMN (khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu TCMN
của Việt Nam) và có triển vọng mở rộng và đẩy mạnh tiêu thụ một số mặt
hàng mà ta có khả năng phát triển.
Đồ gỗ mỹ nghệ, gỗ chế biến, hàng gốm, sứ mỹ nghệ là nhóm hàng đang
được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh ở thị trường này, trong đó xuất khẩu chính là
mặt hàng gỗ. Bên cạnh đó, thông qua Hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đ ức, các
doanh nghiệp Việt Nam đã thành công trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng,
kí được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Các mặt hàng như
mây, tre, lá đan, sản phẩm bàn ghế, nội thất bằng nguyên liệu song mây, hàng
thêu ren,… cũng được thị trường EU ưa chuộng. Việt Nam hiện đang thực hiện
xuất khẩu với khối lượng đáng kể các mặt hàng mây tre sang Tây Âu; thảm cói,
đệm cói sang Hà Lan, Tây Ban Nha, Italy…; hàng thêu ren, thảm dệt sang Pháp,
Italy, Thụy Sỹ, Áo, Đức…
b) Thị trường Hoa Kỳ
Theo thống kê, những năm gần đây, Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu
khoảng 13 tỷ USD/năm hàngTCMN. Tuy nhiên, xuất khẩu mặt hàng này của
Việt Nam vào Hoa Kỳ mới chỉ ở mức rất khiêm tốn.
Riêng các mặt hàng mây, tre, cói thảm , sơn mài, Hoa Kỳ là thị trường có
kim ngạch nhập khẩu cao nhất. Tháng 12/2010, Việt Nam đã xuất khẩu 3,9
triệu USD hàng mây, tre, cói, thảm sang Hoa Kỳ, tăng 19,30% so với tháng liền
kề trước đó, nâng kim ngạch năm 2010 mặt hàng này sang Hoa Kỳ lên 33,8
triệu, chiếm 16,6% trong tổng kim ngạch mặt hàng, tăng 38,27% so với năm
2009.
Người Mỹ rất ưa chuộng các loại hàng TCMN, nhưng do giá nhân công tại
nước này cao nên hầu hết các hàng hoá tiêu dùng là hàng nhập khẩu, hoặc gia
công ở nước ngoài theo mẫu mã thiết kế và đầu tư của các công ty Mỹ, sau đó
nhập khẩu trở lại Hoa Kỳ. Các mặt hàng TCMN của Việt Nam như gốm ngoài
vườn và gốm trang trí trong nhà, mây tre, thêu... là những mặt hàng mà thị
trường Hoa Kỳ có nhu cầu lớn và Việt Nam có khả năng cạnh tranh tốt. Tương
tự như vậy, ngành hàng trang trí nội thất của Hoa Kỳ cũng hứa hẹn là một thị
- 13 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
trường đầy tiềm năng với Việt Nam. Với dân số 300 triệu người, Mỹ trở thành
một trong những thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới.
c) Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn của hàng TCMN Việt Nam, luôn
chiếm từ 10-29% tổng kim ngạch xuất khẩu TCMN của nước ta từ năm 1997
đến nay. Việc xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam đi Nhật Bản tuy biến
động thất thường nhưng nhìn chung có chiều hướng phát triển khá tốt.
Trong số các mặt hàng TCMN của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản thì
gốm sứ, đồ gỗ nội thất và mây tre đan là các mặt hàng chính. Kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng này chiếm từ 50-85% tổng kim ngạch xuất khẩu TCMN
hàng năm của Việt Nam vào Nhật.
Nhu cầu của người Nhật về TCMN rất đa dạng, thay đổi nhanh theo mùa.
Vòng đời của một sản phẩm rất ngắn nên đòi hỏi các nước xuất khẩu phải rất
nhanh nhạy mới có thể đáp ứng những yêu cầu đó.
Tuy nhiên, hàng TCMN của Việt Nam có khả năng cạnh tranh về giá do
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu
sẵn có trong nước, cơ sở sản xuất được bố trí gần nguồn nguyên liệu. Nhu cầu
nhập khẩu nguyên liệu phụ cho sản xuất khá nhỏ. Nguồn lao động cho sản
xuất mặt hàng này khá dồi dào, và chi phí lao động thấp. Vốn đầu tư cho sản
xuất kinh doanh nhìn chung không lớn.
Những vấn đề lớn đang đặt ra trong xuất khẩu hàng TCMN sang Nhật
Bản: Trong những năm vừa qua, xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam vào Nhật
Bản đã phát triển mạnh mẽ góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu chung
sang thị trường này. Tuy nhiên, vẫn chưa đạt được chỉ tiêu đề ra cho việc xuất
khẩu hàng TCMN vào thị trường Nhật Bản. Tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản nói chung còn nhỏ bé so với tiềm năng
thực tế.
Nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản về hàng TCMN của các nước
châu Á ngày một tăng, trong đó có TCMN của Việt Nam do đáp ứng được một
số yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản. Luật lệ, thủ tục nhập khẩu của
Nhật Bản rất rườm rà phức tạp và ngày càng cao, do đó các doanh nghiệp cần
- 14 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
phải có chiến lược nhằm đáp ứng những yêu cầu này. Hiện nay phần lớn các
doanh nghiệp vẫn làm việc theo kiểu phi vụ hợp đồng theo chuyến hàng nên
tính ổn định trong xuất khẩu thấp. Khả năng cạnh tranh của hàng TCMN của
Việt Nam còn thấp hơn các nước trong khu vực như Trung Quốc, Philippin, Đài
Loan… do chất lượng hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường còn yếu.
- 15 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ HIỆN NAY
2.1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
2.1.1. Nguồn nguyên liệu
Mặt hàng TCMN sử dụng nguồn nguyên liệu chính là nguyên liệu trong
nước, đa phần được lấy từ thiên nhiên và khá sẵn có. Đó là các nguyên liệu
như: mây, tre, nứa, lá, giang, bông, gỗ, đay, cói, dừa, vỏ ốc, vỏ trứng... Đây là
một trong những thuận lợi lớn vì những nguyên liệu này thường sẵn có trong tự
nhiên hoặc có thể trồng khá dễ dàng ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, do sự
khai thác bừa bãi, không có kế hoạch nên các nguồn nguyên liệu này cũng đã
dần dần bị giảm cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê của Hiệp hội
Làng nghề Việt Nam, hiện nay TCMN phải nhập khẩu khoảng 50% nguyên
liệu sản xuất. Nguyên nhân chính là do thiếu đầu tư, quy hoạch vùng nguyên
liệu cùng với tình trạng khai thác bừa bãi của người dân nên dẫn đ ến cạn kiệt
nguồn nguyên liệu.
Khi bước sang cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã gặp phải không
ít khó khăn khi vẫn áp dụng lối làm ăn cũ theo kiểu “có gì bán nấy”. Giờ đây,
trước nhu cầu vô cùng đa dạng của thị trường thế giới, doanh nghiệp không chỉ
sản xuất những mặt hàng chỉ sử dụng những nguồn nguyên liệu trong nước mà
còn phải nhập về một số nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ cho xuất
khẩu. Điều này cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi nguồn
nguyên liệu phải phụ thuộc vào nước ngoài.
2.1.2. Nguồn vốn
Nhìn chung, các cơ sở sản xuất hàng TCMN đa số là quy mô vừa, nh ỏ và
thiếu vốn. Những mặt hàng khác nhau sẽ yêu cầu đòi hỏi vốn đầu tư khác
nhau. Những mặt hàng cần nhiều vốn chủ yếu là gốm sứ, sơn mài, mĩ nghệ vì
phải đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để làm ra các sản phẩm
- 16 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
thô, sản phẩm sơ chế. Các khâu sản xuất còn thủ công, nhiều khi tạo ra sản
phẩm thô, mộc nên chất lượng sẽ không đảm bảo khi sản xuất đại trà. Nếu
như muốn sản xuất với quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao vào các khâu sản
xuất sơ chế, mở rộng nhà xưởng, tuyển thêm nhân công thì nguồn vốn cho đầu
tư sản xuất là vô cùng cấp thiết.
Mặc dù có nhiều thuận lợi về cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp ở các
khu vực nông thôn và cho người nghèo, nhưng nguồn tài chính lại không dành
cho cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất và xuất khẩu lớn về hàng thủ công
mỹ nghệ, do đó dẫn đến hạn chế các nguồn tài chính của họ. Các nhà xuất
khẩu hàng thủ công thường thiếu vốn do việc làm thủ tục vay vốn ngắn hạn
mất quá nhiều thời gian trong khi số tiền vay được lại ít hơn nhiều so với nhu
cầu, hơn nữa, doanh nghiệp rất khó đáp ứng được những điều kiện bảo đảm
thế chấp. Do đó, việc xây dựng các kế hoạch tài chính phù hợp cho các nhà sản
xuất và xuất khẩu hàng thủ công là rất cần thiết.
2.1.3. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng của sản phẩm thủ công phụ thuộc vào chất lượng của nguyên
liệu thô, kỹ thuật sản xuất cũng như nỗ lực trong công tác quản lý và cải tiến.
Chất lượng không đảm bảo là do trang thiết bị không phù hợp, đặc biệt là ở các
khâu xử lý và hoàn thiện và cũng do chưa có được các tiêu chí về chất lượng và
các cơ quan quy định việc thực hiện các hoạt động kiểm tra. Theo một ngữ
cảnh khác thì “sản phẩm dành cho thị trường cao cấp là thực sự không phổ biến
ở Việt Nam”. Các nhân tố chủ yếu mang lại thành công khi đó chính là nâng cao
chất lượng và sự tiêu chuẩn hoá.
Nhìn chung, khách hàng của Việt Nam (các nhà nhập khẩu quốc tế) cho
rằng có sự tương quan tốt giữa giá cả/chất lượng của sản phẩm ở cấp trung
bình và cấp thấp của Việt Nam. Những sự phàn nàn xoay quanh vấn đ ề chất
lượng kém, sản phẩm mới ở mức tầm tầm, cả các nhà nhập khẩu và xuất khẩu
đều không đề cập đến những vấn đề lớn hơn.
2.1.4. Nhu cầu thị trường
Trong những năm qua, ngành xuất khẩu hàng TCMN đã tạo được nhiều thị
trường lớn như EU, Nhật Bản, Đài Loan, Bắc Mỹ. Ngoài ra, Nga, Đông Âu…
- 17 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
cũng được coi là những thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam. Hàng TCMN
của Việt Nam đến nay đã có mặt tại hơn 50 nước và lãnh thổ ở khắp các châu
lục của thế giới . Thị trường xuất khẩu loại hàng này trong mấy chục năm qua
có những giai đoạn thăng trầm, nhưng nhìn chung những năm gần đây có chiều
hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng thị tr ường
theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thị trường với các nước trên
thế giới .Tuy nhiên, trong xuất khẩu những loại hàng hoá này, chúng ta phải
đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng và kinh nghiệm
như Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Thái Lan.
Mặc dù thị trường rộng như vậy nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được
nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn. Cái khó là phải làm sao
tiếp cận với thị trường mới và tranh thủ mọi cơ hội để khai thác sâu thêm các
thị trường có nhu cầu lớn và thường xuyên.
2.1.5. Đối thủ cạnh tranh
Hiện tại hàng TCMN của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng
TCMN của Trung Quốc, Thái Lan, Singapore … Tuy nhiên, theo đánh giá của
nhiều chuyên gia thì hàng TCMN của Việt Nam có nhiều lợi thế hơn nhờ độ
tinh xảo và khéo léo thể hiện trên từng đường nét sản phẩm. Hơn nữa nhiều
mặt hàng của ta vượt trội về chất lượng cũng như mẫu mã. Song đ ể nâng cao
sức cạnh tranh cần có những sản phẩm đặc trưng, đa dạng hơn về mẫu mã,
kiểu dáng. Bên cạnh việc phát huy những lợi thế của những sản phẩm làm
bằng tay có độ tinh xảo cao, cần đầu tư các phương tiện thiết bị máy móc và
công nghệ hiện đại để tạo nên những sản phẩm có chất lượng đồng đều và ổn
định. Một kinh nghiệm từ các nhà sản xuất Trung Quốc là để đưa ra đ ược
nhiều sản phẩm của mình vào thị trường Nhật Bản là họ đã mời các chuyên gia
Nhật sang tư vấn và tham gia điều hành sản xuất để sản phẩm làm ra phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng Nhật Bản.
2.1.6. Các chính sách của Nhà nước
Trong thời gian qua, Chính phủ, các Bộ, Ngành và địa phương đã triển khai
một số chương trình như sau:
- 18 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
- Đầu tư cơ sở hạ tầng làng nghề: Theo Bộ Kế hoạch và đ ầu tư, t ừ năm
2002 đến năm 2007 đã đầu tư 440 tỷ đồng cho 42 tỉnh; hỗ trợ cho 200 dự án với
tổng mức đầu tư khoảng 2.200 tỷ đồng. Trong đó, thực hiện đến tháng 7/2007
là 218,5 tỉ đồng (Ngân sách Nhà nước: 126,8 tỉ đồng; huy động đóng góp: 92 tỉ
đồng). Các dự án đầu tư bước đầu mang lại hiệu quả nhất định trong việc tập
trung cải thiện cơ sở hạ tầng làng nghề, làng nghề truyền thống để triển khai
thực hiện xử lý tốt hơn về vấn đề môi trường, đảm bảo phát triển sản xuất
theo hướng hiệu quả và bền vững.
- Phát triển làng nghề gắn với du lịch: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch lấy
chiến lược phát triển du lịch ở làng nghề đặt vào vị trí hàng đầu trong phát triển
ngành du lịch. Đồng thời chính quyền các địa phương cũng đã đưa ra đ ược các
biện pháp tương ứng để phát triển ngành du lịch ở làng nghề thủ công, thu hút
được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
- Đối với đào tạo nghề truyền thống: Tính đến tháng 7/2007, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội đã bố trí 26,5 tỉ đồng để đào tạo 37.467 người và phần
lớn được bố trí sắp xếp. Về chính sách hỗ trợ dạy nghề, năm 2006 đã dạy
nghề cho khoảng 1,34 triệu người. Kinh phí thực hiện năm 2006 là 141,5 tỷ
đồng, trong đó ngân sách Trung ương là 92 tỷ đồng; ngân sách địa phương là
49,57 tỷ đồng.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) là cơ quan thực hiện
chức năng quản lý nhà nước lĩnh vực ngành nghề nông thôn trong đó có ngành
TCMN. Với chức năng, nhiệm vụ được giao Bộ NN&PTNT đã xây dựng Đề án
Phát triển ngành nghề nông thôn đến 2010, đang tiến hành xây dựng quy hoạch
phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2015 và năm 2020; Chương trình Bảo
tồn và Phát triển làng nghề giai đoạn 2008 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020; quy
hoạch phát triển các nghề gắn với vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, hàng năm Bộ
NN&PTNT phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan tổ chức Hội
chợ triển lãm làng nghề Việt Nam, Hội thi sản phẩm thủ công nhằm tôn vinh
các nghệ nhân, thợ thủ công, hàng thủ công mỹ nghệ và hỗ trợ các cơ sở sản
xuất, kinh doanh quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề với doanh nghiệp,
khách trong và ngoài nước. Từ khi thực hiện chủ trương, chính sách về phát
- 19 -
- Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam hiện
nay
triển ngành nghề, làng nghề Việt Nam nói chung và làng nghề TCMN nói riêng
đã từng bước ổn định và phát triển.
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ HIỆN NAY
Bảng 2: PHÂN TÍCH SWOT ĐỐI VỚI MẶT HÀNG TCMN VIỆT NAM
Điểm mạnh Điểm yếu
- 20 -
nguon tai.lieu . vn