Xem mẫu
- Phần I: MỞ ĐẦU/ DẪN BÀI:
Để một nền kinh tế phát triển bền vững thì nhân tố con người luôn đóng
vai trò quyết định. Vì vậy, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên
thế giới coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Ví vậy có thể coi giáo dục
là một lĩnh vực rất quan trọng để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật
cho người lao động, nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công nghiệp hóa
– hiện đại hoá đất nước, tuy nhiên thời gian gần đây vấn đề đang
“nóng” là vì những thông tin học sinh bỏ học. Tình trạng học sinh bỏ
học hàng loạt đang gia tăng ở các địa phương, nhất là các vùng nông thôn
khiến những ai có tâm huyết với giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn
trở. Vấn đề này nếu không được quan tâm đúng mực sẽ đưa để những
hậu quả xấu cho bản thân học sinh bỏ học, gia đình của các em và cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội. xuất phát từ thực tiễn trên, nhóm
chúng mình đã đi đến quyết định: tìm hiểu vấn đề học sinh bỏ học ở
vùng nông thôn hiện nay.
Phần II: NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG:
Giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo
và cung ứng nguồn nhân lực có kiến thức, có tay nghề và trình độ
kỹ thuật cao. Trọng trách đó không đơn thuần chỉ từ giáo dục Đại
học Cao đẳng, mà nó là của cả ngành giáo dục, trong đó không thể
thiếu là Giáo dục các cấp tiểu học, THCS và THPT.
- Nếu để ý, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy: trong các kỳ thi tuyển
sinh gần đây, nhiều thủ khoa của các trường Đại học, rất nhiều em
đạt thành tích tốt trong học tập đều xuất thân từ nông thôn. Tuy
nhiên đó chỉ là “ba phần nổi”, còn “bảy phần chìm của trẻ em nông
thôn là bỏ học, lao động sớm… Có em đã sớm phải gánh vác công
việc trong gia đình, có em thì phải nghỉ học sớm.
Thực tế cho thấy, việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ
lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình
học sinh mà cả với nhà trường và xã hội.
Việc hạn chế số học sinh bỏ học đã là một chỉ tiêu quan trọng của
việc thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường, thực tế cho
thấy, tình trạng học sinh bỏ học tại nông thôn có chiều hướng giảm
hơn so với trước. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh nông thôn bỏ học vẫn
còn cao hơn so với thành thị. Bởi vậy, đó là một mối lo ngại chung
đặc biệt là đối với vùng nông thôn.
Cụ thể để rõ hơn, chúng ta cùng quan sát biểu đồ sau:
- Qua biểu đồ trên cho thấy, tỷ lệ học sinh bỏ học ở 3 cấp bậc: cấp tiểu
học, cấp THCS và THPT vẫn còn diễn ra qua các năm. Tuy nhiên, tỷ lệ
học sinh bỏ học ở cấp tiểu học có giảm hơn trước, bỏ học chủ yếu tập
trung ở cấp THCS VÀ THPT, cụ thể ở bậc tiểu học chiếm 0.04% tương
đương với hơn 38.000 học sinh bỏ học năm 2001, bắt đầu từ năm 2003
đến năm 2006 thì không còn học sinh bậc tiểu học nào bỏ học. Trong khi
đó, bậc THPT là bậc có số học sinh bỏ học cao nhất so với bậc tiểu học
và THCS, cao nhất vào năm 2001 là 2,15% đến năm 2006 có giảm nhưng
vẫn còn đến 1.13% học sinh bỏ học. Qua đó ta thấy được, tỷ lệ học sinh
bỏ học ở nông thôn vẫn còn, đặc biệt ở bậc THCS và THPT vẫn còn
chiếm tỷ lệ cao, mặc dù có giảm qua các năm. Bởi vậy, đây là một vấn
đề đáng lo ngại và cần được chú trọng nhiều hơn nữa ở nông thôn Việt
Nam.
2.2. NGUYÊN NHÂN:
*Nguyên nhân chủ quan :
Do một số học sinh còn ham chơi ,không xác định rõ hướng mình
học để làm gì , khi mà cuộc sống “Cơm áo , gạo tiền” cứ ngày ngày
đeo bám các em , nên phải mưu sinh sớm để giúp đỡ gia đình , và
đáp ứng những sở thích mà mình không có khi ở trên ghế nhà
trường . Vì vậy bỏ học như một nạn dịch từ em này “ lây” qua em
khác một cách có chủ định
*Nguyên nhân khách quan:
Đa số học sinh bỏ học là do hoàn cảnh kinh tế khó khăn vì ở vùng
nông thôn chiếm khá đông nên gia đình thường đông con các em
- phải ở nhà phụ giúp cha mẹ kiếm sống phụ giúp gia đình. Có những
gia đình rất nghèo mặc dù đã được địa phương quan tâm giúp đỡ
nhưng cũng không thể cho con đi học được, các em phải lo kiếm
tiền để phụ giúp thêm cho cha mẹ.
Bên cạnh đó có gia đình nghèo cố gắng lo cho con đi học nhưng con
không chịu đi vì thích làm ra tiền để có tiền tiêu xài và phụ giúp gia đình.
Học không “vô” nghỉ học: Ngoài nguyên nhân trên thì một số học
sinh lại nghỉ học giữa chừng không phải vì nghèo mà vì chong đèn
thâu đêm vẫn không thuộc được bài, học được một lúc là đau đầu
mệt mỏi cộng với chương trình giảng dạy nặng về kiến thức,thời
gian giang dạy trên lớp ngắn làm cho số học sinh yếu, kém không
theo kịp nội dung giảng dạy trên lớp . Hệ quả là học sinh sao lãng
việc học và bỏ học.
Do cha, mẹ đi làm ăn xa hoặc mâu thuẫn không ai quan tâm: Đây
cũng là một nguyên nhân cơ bản để học sinh bỏ học nhiều,vì người
dân sống chủ yếu bằng nghề làm nông nhưng ngoài trồng lúa thì
các công việc khác thường k ổn định, họ có thể đi làm ăn xa như lên
ở cho các gia đình thành thị hay lên các vùng khác để thực hiện hoạt
động sản xuất kiếm thêm thu nhập nên một vài tháng mới về,các
em ở nhà với ông, bà, người thân . Ngoài ra, một số gia đình cha, mẹ
luôn mâu thuẫn cãi cọ nhau trước mặt con cái hoặc cờ bạc rượu
chè, nên các em chán nản không muốn đi học vì không có người
quan tâm.
Một nguyên nhân nữa là công tác chủ nhiệm của một số giáo viên
còn yếu, chưa nhiệt tình .Giáo viên chủ nhiệm chưa quan tâm tìm
- hiểu hoàn cảnh cuộc sống các học sinh của mình. Bên cạnh đó còn
một số giáo viên còn ít hiểu về tâm lý học sinh cho nên chưa tạo
được môi trường thân thiện trong giao tiếp ứng xử.
Việc học sinh bỏ học do học lực yếu kém không thể không nói đến
trách nhiệm của nhà trường: Do áp lực của thành tích và thiếu sự
quan tâm của nhà trường đối với các học sinh yếu kém. Các nhà
trường chỉ lo đầu tư vào phong trào “mũi nhọn” như lập ra các lớp
chuyên chọn, lo bồi dưỡng học sinh giỏi, luyện thi đại học, mà bỏ
qua hoặc xem nhẹ việc phụ đạo, kèm cặp những học sinh yếu. Học
sinh giỏi được lập một lớp riêng được các giáo viên giỏi giảng dạy,
còn học sinh yếu thì thiệt thòi vì nhà trường ít quan tâm, một số
giáo viên cũng giảng dạy thiếu nhiệt tình, không có bạn để hỏi han,
giúp đỡ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho những
học sinh yếu kém chán học dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học
ngày càng nhiều.
Cơ sở, vật chất trong nhà trường ở vùng nông thôn còn hạn chế
không đáp ứng đủ cho nhu cầu học tập của học sinh.
Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực học đường cũng đang là một vấn
đề nhức nhối dẫn đến việc học sinh bỏ học. Hiện tượng đánh hội
đồng hay nhiều học sinh còn bị thầy giáo quấy nhiễu bùng phát rất
nhiều lên trường học hiện nay. Sau một vấn đề mâu thuẫn đó, các
em là nạn nhân hầu như k thể tiếp tục đến trường vì tổn thương, lo
sợ.
2.3. GIẢI PHÁP:
- GIẢI PHÁP NGẮN HẠN:
Thứ nhất, cần có các chính sách ưu tiên, hỗ trợ học sinh nghèo, có
những giải pháp vận động nguồn tài chính cho học sinh nghèo, thực
hành tiết kiệm để dành tiền cho học sinh nghèo, đẩy mạnh phong
trào từ thiện trong các nhà trường. Ví dụ: học sinh nghèo chỉ được
giảm ½ học phí, các khoản đóng góp khác thì bình đẳng như những
học sinh khác
Thứ hai, nhà trường cần phối hợp với cơ quan công an xã, phường,
các tổ chức đoàn thể: Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Ban điều hành
tổ dân phố đến từng gia đình học sinh bỏ học hoặc có ý định bỏ
học khuyến khích, động viên bản thân các em và gia đình để các em
có thể quay lại trường học. Được sự quan tâm của nhà trường, tổ
dân phố hay các cơ quan công an, tổ chức đoàn thể cũng như gia
đình các em sẽ có những quyết định đúng đắn nhsất để có một
tương lai tốt đẹp, đồng thời các em cũng thấy được tác hại của
việc bỏ học ảnh hưởng như thế nào đến tương lai sau này của
mình. Từ đó các em có cách nhìn, cách nghĩ mới và quyết định trở
lại trường học.
Thứ ba, để hạn chế học sinh bỏ học, cần có những giải pháp từ
các cấp ban ngành, trong đó ngành giáo dục đào tạo đóng vai trò
quan trọng. Giải pháp căn bản để chống bỏ học đối với học sinh
phổ thông là phân luồng học sinh sau trung học cơ sở. Khuyến khích
một bộ phận học sinh gồm những em không đủ điều kiện học hết
THPT sẽ sang học nghề để sau 3 4 năm các em vừa có bằng tốt
- nghiệp tương đương với bằng tốt nghiệp THPT vừa có tay nghề
bậc 3/7.
Thứ tư, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải lên danh sách những học
sinh có nguy cơ bỏ học (có hoàn cảnh gia đình khó khăn, học kém)
phân nhóm để có biện pháp phù hợp giúp đỡ các em. Đối với những
học sinh có nguy cơ bỏ học, giáo viên phải siêng tới thăm gia đình
các em, trò chuyện với các bậc phụ huynh để hiểu được những suy
nghĩ của học sinh, để kịp thời có biện pháp giải quyết. Đối với
những học sinh học kém, học sinh ở lại lớp giáo viên cần tìm hiểu
nguyên nhân. Nếu do hổng kiến thức của lớp dưới thì tổ chức bồi
dưỡng, phụ đạo để các em theo kịp bạn bè. Với những học sinh có
điều kiện kinh tế khó khăn đề xuất các chính sách hỗ trợ như miễn
giảm học phí, tạo điều kiện để các em tiếp tục việc học.
Thứ năm, cần có chế tài với những trường hợp buộc học sinh bỏ
học. Nhiều gia đình không thực sự khó khăn nhưng bắt buộc con em
mình nghỉ học để lao động. Nhà trường nên phối hợp với chính
quyền địa phương kiên trì tuyên truyền, lay chuyển nhận thức của
phụ huynh học sinh học chính là con đường thoát khỏi đói nghèo
một cách vững chắc nhất. Ở nước ngoài nếu cha mẹ không tạo
điều kiện cho con đến trường sẽ bị pháp luật chế tài. Đối với nước
ta việc này chưa được thực hiện nghiêm túc nên tình trạng học sinh
bỏ học vẫn ở mức báo động.
GIẢI PHÁP DÀI HẠN:
Thứ nhất, việc học sinh bỏ học do học lực yếu kém không thể
không nói đến trách nhiệm của nhà trường. Để khắc phục và
- hạn chế tình hình này, các nhà trường nên đẩy mạnh cuộc vận
động “hai không” nhằm phát hiện ra những học sinh có học
lực yếu kém qua các kỳ thi, bài kiểm tra. Từ đó có những biện
pháp bồi dưỡng, phụ đạo thêm để các em có một khối kiến thức
vững chắc để có thể học tốt hơn ở các lớp trên. (Nhà trường cần
quan tâm hơn đến học sinh đặc biệt đối với học sinh yếu
kém)
Thứ hai, thay đổi phương pháp giảng dạy và học tập ở các
trường nói chung và trường THCS nói riêng đồng thời cần
nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Tìm
kiếm nguồn hỗ trợ để nâng cao các cơ sở, vật chất trong nhà
trường nhằm giúp học sinh học tập tốt hơn.
Hiện nay một số đội ngũ giáo viên có trình độ sư phạm yếu, trong quá
trình giảng dạy gây cho học sinh có cảm giác nhàm chán. Chính vì vậy,
các trường nên quan tâm đến trình độ sư phạm của đội ngũ giáo viên để
biết cách bồi dưỡng, đào tạo thêm về chuyên môn cho họ như cách giảng
bài, cách truyền đạt kiến thức ngắn gọn, dễ hiểu và gây đựợc hứng thú
học tập cho học sinh, giúp các em biết tư duy sáng tạo và độc lập trong
suy nghĩ. Chúng tôi tin rằng với những thay đổi trong phương pháp truyền
đạt kiến thức theo hướng tích cực sẽ giúp các em cảm thấy thú vị, yêu
thích việc học tập hơn và nhận thấy rất nhiều điều bổ ích trong việc học.
Từ đó, sẽ khắc phục được tình trạng học sinh chán học dẫn đến bỏ học.
- Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền
các cấp trong việc đưa trẻ đến trường, ngăn chặn tình trạng bỏ
học. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức
trách nhiệm của từng người dân và của cộng đồng dân cư trong quá
trình triển khai thực hiện công tác phổ cập giáo dục, góp phần hạn
chế tình trạng bỏ học của học sinh.
Có chính sách hỗ trợ đặc biệt, đủ mạnh cho các địa phương khó khăn.
Các địa phương cần ưu tiên dành kinh phí của mình và các nguồn tài chính
vận động được của quỹ khuyến học, các công ty đóng trên địa bàn để cấp
học bổng, xe đạp cho các học sinh thuộc diện xoá đói giảm nghèo hoặc
các học sinh có điều kiện khó khăn tiếp tục có điều kiện học tập ở các
trường THCS và THPT.
2.4. HẬU QUẢ
Bỏ học sẽ gây nên những hậu quả khôn lường, đối với cá nhân học sinh
sau đó đến gia đình và xã hội:
Trước hết, đối với cá nhân học sinh: khiến cho tương lai mờ mịt
không có định hướng cho tương lai phía trước, khi trưởng thành sẽ
khó có nghề nghiệp ổn định, từ đó làm gánh nặng cho xã hội. Nếu
chỉ là những con người thừa của xã hội, không có chỗ đứng. Nếu
không chịu học tập thì không nhận ra giá trị của cuộc sống, lỡ mất
tuổi trẻ. Trình độ nhận thức, tiếp thu và vận dụng những kiến thức
khoa học kĩ thuật trong thực tiễn hạn chế, khó nâng cao trình độ:
+ Khó xin việc làm tốt, lương cao
+ Phải làm công việc nặng nhọc, không ổn định, ít kỹ thuật, thu
nhập thấp.
- + Lấy chồng/vợ sớm.
+ Khả năng giao tiếp hạn chế, thiếu văn hóa,…
+ Dễ đi vào con đường ăn chơi, đua đòi.
+ Dễ mắc vào các tệ nạn xã hội: Dễ trở thành nạn nhân của bọn
buôn bán người, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, giết người
hoặc nhiều tệ nạn khác...
+ Là gánh nặng cho gia đình và xã hội: Gia đình mất đi niềm tin vào
con cái. Như chúng ta đã biết, học sinh là thế hệ trẻ, chủ nhân
tương lai của đất nước nếu lười học cứ tiếp diễn thì đội ngũ này
không có chất lượng thì không đảm bảo phát triển đất nước bền
vững đồng thời nguồn nhân lực cũng kém chất lượng.
III. KẾT LUẬN
“Tình trạng bỏ học của học sinh hiện nay” là một vấn đề cấp thiết
và đang trở thành điểm “nóng” đối với toàn xã hội. Từ trước đến
nay giáo dục được Đảng và Nhà nước ta đặt lên mục tiêu hàng đầu
bởi vì một đất nước có trình độ dân trí cao thì nền kinh tế mới phát
triển. Đối với đất nước ta hiện nay nền kinh tế đang phát triển theo
xu hướng “công nghiệp hoá hiện đại hoá” nên nó đòi hỏi người
lao động phải có trình độ và tay nghề cao. Đó chính là mục tiêu của
nền kinh tế nước ta trong giai đoạn mới, liệu với tình trạng học
sinh bỏ học nhiều thì chúng ta có thể đạt được mục tiêu của ngành
giáo dục đề ra đó là: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài” trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế hiện nay không?
Việc học sinh bỏ học với nhiều nguyên nhân khác nhau buộc các
cấp, các ngành có liên quan phải phân tích những nguyên nhân cơ
- bản để có thể tìm ra biện pháp khắc phục và giải quyết tình trạng
bỏ học của học sinh. Bên cạnh đó tình trạng học sinh bỏ học như
hiện nay đã gây ra những hậu quả vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của xã hội nói chung và của từng địa phương nói riêng. Điều
đó đã ảnh hưởng sâu sắc về mặt nhân tố con người, khi con người
không có điều kiện phát triển, không có kiến thức thì sẽ dẫn tới
tình trạng chậm phát triển về mọi mặt của xã hội. Trước những
hậu quả to lớn như vậy, bản thân tôi luôn mong muốn các cấp,
chính quyền đưa ra được những giải pháp tích cực nhằm ngăn chặn
tình trạng học sinh bỏ học để có thể đào tạo sớm được hoàn thành,
xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt như kinh tế, văn hoá, ngoại
giao….
nguon tai.lieu . vn