Xem mẫu
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh
Lời nói đầu
Công ty hợp danh là một loại hình công ty phát triển cũng khá sớm trên thế
giới. Ở Việt Nam, công ty hợp danh được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong
luạt doanh nghiệp Việt Nam năm 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối
nhân chính thức, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các
nhà kinh doanh lựa chọn. Nhưng những qui định về công ty hợp danh tại luật doanh
nghiệp 1999 còn sơ sài và mang tính chung chung. Đến luật doanh nghiệp 2005 thì
công ty hợp danh đã được qui định cụ thể và rõ ràng, tạo điều kiện cho loại hfinh
kinh doanh này phát triển cũng như tạo thuận tiện cho các nhà đầu tư, nhà kinh doanh
trong việc áp dụng pháp luật khi lựa chọn hình thức công ty hợp danh để hoạt động
kinh doanh.
Vấn đề về chế độ chịu trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và các thành
viên của công ty hợp danh được Luật doanh nghiệp qui định khá rõ song chưa đầy đủ
và việc áp dụng vào thực tế gây nhiều khó khăn cho thành viên hợp danh. Chính vì
điều này mà hình thức công ty hợp danh ở nước ta không được phổ biến nhiều mặc
dù nó ra đời sớm so với các hình thức công ty khác.
Vì vậy, để tìm hiểu hơn nữa các qui định của luật doanh nghiệp về công ty
hợp danh và các thành viên hợp danh trong chế độ chịu trách nhiệm tài sản, em xin
mạnh dạn chọn đề tài về: “Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công
ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh. So sánh với pháp luật nước ngoài”.
Trong quá trình tìm hiểu, thu thập tài liệu chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhầm lẫn
và thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, em rất mong thày cô thông cảm và bổ sung cho
em để hoàn thành tốt bài làm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên
1
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh
Nguyễn thị Luật
Lịch sử hình thành công ty hợp danh trên thế giới
Như bất kì một hiện tượng kinh tế xã hội nào khác của công ty nói chung và
công ty hợp danh nói riêng ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội
nhất định. Khi xét xử lịch sử hình thành công ty hợp danh không chỉ xét xử sự xuất
hiện của nó với ý nghĩa là sự ghi nhận của pháp luật từng quốc gia, mà phải xem xét
nó với ý nghĩa là sự ghi nhận của pháp luật từng quốc gia, mà phải xem xét nó trong
tổng hòa với các mối quan hệ xã hội và trong mối liên hệ với các loại hình công ty
khác trong lịch sử.
Sự ra đời của công ty nói chung và công ty hợp danh nói riêng là một tất yếu,
thể hiện quy luật khách quan của nền kinh tế hài hòa. Nó không chỉ đáp ứng được
nhu cầu của các nhà đầu tư mà còn là mô hình phù hợp với sự mềm dẻo, năng động
của các hoạt đông kinh tế và tính khốc liệt của các hoạt động cạnh tranh. Công ty
hợp danh đã “ hạn chế” được nguy cơ rủi ro cao của chế độ trách nhiệm vô hạn mà
1 người phải tự ghánh chịu bằng cách phân tán, chia sẻ rủi ro cho nhiều người.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển công ty hợp danh có những đặc trưng
riêng. Có thể khẳng định rằng công ty hợp danh là sản phẩm do các thương gia tạo
lập, thực tiễn khách quan đã minh chứng rằng, sự ra đời của loại hình công ty này là
phù hợp, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhà nước đã qui định sự
tồn tại của công ty hợp danh bằng các qui chế pháp lý điều chỉnh riêng và ngày một
hoàn thiện.
Công ty hợp danh là một dạng của công ty đối nhân là một loại hình doanh
nghiệp phổ biến ra đời sớm so với các loại hình công ty khác ở các nước có loại hình
2
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh
kinh tế thị trường phát triển, nhưng đối với Việt Nam vấn đề này có thể đã tồn tại
trong thực tế nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với khoa học pháp lý.
B. Nội dung
I. Khái niệm và đặc điểm về công ty hợp danh
Trên thế giới công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc
trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên ( đều là cá nhân và là
thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại ( theo nghĩa rộng) dưới một
hãng chung ( hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản
nợ của công ty. Thì theo pháp luật Việt Nam đã định nghĩa công ty hợp danh dưới
dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó, theo đó đã gộp chung hai loại hình công ty
hợp danh như trên thế giới phân loại là: công ty hợp danh thông thường và công ty
hợp danh hữu hạn, thành một tên gọi duy nhất là “ công ty hợp danh”. Việc luật
doanh nghiệp 2005 định nghĩa công ty hợp danh là doanh nghiệp “ phải có ít nhất hai
thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên
chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể có
thành viên góp vốn” (điều 130 luật doanh nghiệp 2005). Tức là gộp chung hai hình
thức công ty hợp danh dưới một tên chung và một quy chế pháp luật chung.
Có thể thấy khái niệm công ti hợp danh theo luật doanh nghiệp của Việt Nam
có nội hàm của khái niệm công ti đối nhân theo pháp luật các nước. Với qui định về
công ti hợp danh, luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ti đối nhân ở
Việt Nam.
Đặc điểm pháp lý cơ bản của công ty hợp danh:
Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ti cùng nhau kinh
doanh dưới một tên chung ( gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp
danh, có thể có thành viêm góp vốn.
3
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh
Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình
về các nghĩa vụ của công ti.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khỏan nợ của công ti trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ti.
Công ti hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh.
Trong quá trình hoạt độnh công ti hợp danh không được phát hành bất kì loại
chứng khoán nào.
II.Trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh
Là một loại hình công ty đối nhân, do vậy công ty hợp danh có đầy đủ đặc tính
của loại hình công ty này. Ngoài một đặc điểm quan trọng là sự liên kết dựa trên cơ
sở độ tin cậy về nhân thân của các cá nhân tham gia và sự góp vốn chỉ là thứ yếu thì
chính đặc điểm không có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân của
các thành viên đã xác lập trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh là vô hạn
đối với các khoản nợ của công ty.
Luật doanh nghiệp 2005 đã công nhận công ty hợp danh là loại hình doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân. Đây là một điểm mới so với luật doanh nghiệp 1999,
giúp cho công ty hợp danh có địa vị và tư cách pháp lý nhất định khi tham gia vào môi
trường kinh doanh và bình đẳng với các loại hình doang nghiệp khác. Luật doanh
nghiệp năm 2005 tại khoản 1 điều 132 có qui định về việc chuyển quyền sở hữu tài
sản góp vốn của thành viên thành tài sản của công ty để khẳng định tính độc lập về
tài sản của công ty hợp danh với các thành viên tạo ra nó. Tuy nhiên, luật doanh
nghiệp lại đồng thời qui định chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp
danh đối với các nghĩa vụ của công ty. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Cụ thể
4
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh
hơn, đối với những khoản nợ của công ty, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách
nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để
trang trải số nợ của công ty. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho công
ty hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.( tr49. Một số vấn đề pháp
lý về công ty hợp danh theo qui định của pháp luật VN hiện hành Nguyễn Thái
Trường)
Luật doanh nghiệp Việt Nam chia chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên
thành hai loại đó là chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp
danh và chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Theo đó, thành viên
hợp danh trong công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công
ty, còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn cam kết góp
vào công ty.
Có thể thấy rằng, trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh có tính ràng
buộc chặt chẽ trong mọi quan hệ. Bên thứ ba khi giao dịch với công ty không những
được đảm bảo bằng tài sản riêng của công ty mà mà còn được đảm bảo bằng tài sản
riêng của mỗi thành viên. Mặt khác, khi các thành viên hợp danh đều phải chịu trách
nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty thì đương nhiên họ có quyền bình đẳng
trong việc điều hành công ty và quyền đại diện công ty. Do vậy, sự liên kết trong
công ty hợp danh phải dựa trên sự tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia,
sự góp vốn chỉ là yếu tố thứ yếu. Chính nhu cầu xác lập chế độ chịu trách nhiệm vô
hạn cho các thành viên hợp danh của công ty hợp danh và tính chất của sự liên kết
giữa các thành viên này đã không cho phép thực hiện nguyên tắc tách bạch tài sản
giữa công ty và các thành viên hợp danh của công ty.
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn