Xem mẫu
- 1
MỤC LỤC
- 2
Từ viết tắt Ý nghĩa
ĐH Đại học
SV Sinh viên
TDMU Đại học Thủ Dầu một
CĐ Cao đẳng
PVS Phỏng vấn sâu
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
2
- 3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tên bảng biểu Trang
Bảng 1 Số lượng SV các Khoa theo giới tính thực hiện khảo sát 13
Bảng 2 Mức độ thường xuyên chọn sách của SV TDMU 24
Bảng 3 Các yếu tố SV TDMUquan tâm khi chọn đọc một quyển sách 25
Bảng 4 Mức độ thường xuyên áp dụng các phương pháp đọc của SV 28
TDMU
Bảng 5 Mức độ thường xuyên trong việc thực hiện các thao tác trong khi 30
đọc sách của SV TDMU
Bảng 6 Mức độ thường xuyên thực hiện các thao tác sau khi đã đọc sách 30
của SV TDMU
Bảng 7 Phương pháp đọc các thể loại sách khác nhau của SV TDMU 32
Bảng 8 – Mục đích trau dồi kiến thức sau khi đọc sách 33
Bảng 9 – Mục đích giải trí và giết thời gian khi đọc sách của SV TDMU 34
Bảng 10 – Ảnh hưởng của học lực đến thời gian đọc sách của SV TDMU 38
Bảng 11 – Ảnh hưởng của giới tính đến thời gian đọc sách của SV TDMU 39
Bảng 12 – Ảnh hưởng của năm học đến thời gian đọc sách của SV TDMU 40
Bảng 13 – Ảnh hưởng của ngành học đến thời gian đọc sách của SV TDMU 42
Bảng 14 – Ảnh hưởng của nơi đọc sách đến thời gian đọc sách của SV 44
TDMU
Bảng 15 – Ảnh hưởng của việc làm thêm đến thời gian đọc sách của SV 45
TDMU
Bảng 16– Ảnh hưởng của nguồn sách đến thời gian đọc sách của SV 46
TDMU
Bảng 17 Ảnh hưởng của đối tượng cùng đọc sách đến thời gian đọc sách 48
của SV TDMU
- 4
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình Trang
Hình 1. Các thể loại sách SV TDMU chọn đọc 23
Hình 2. Thời gian đọc sách trong một ngày của SV TDMU 24
Hình 3. Mức độ thường xuyên chọn không gian đọc sách của SV 26
TDMU
Hình 4. Mức độ thường xuyên của việc chọn thời gian đọc sách của 27
SV TDMU
Hình 5. Mức độ thường xuyên của việc xác định mục tiêu trước khi 27
đọc sách của SV TDMU
Hình 6. Mức độ thường xuyên trong việc lập kế hoạch trước khi đọc 28
sách của SV TDMU
Hình 7. Mức độ thường xuyên thực hiện thao tác tóm tắt nội dung 29
từng chương/đoạn của SV TDMU
Hình 8 Mục đích kích thích tinh thần khi đọc sách của SV TDMU 33
Hình 9 Mục đích củng cố vốn từ và cách hành văn khi đọc sách của 34
SV TDMU
Hình 10 Mục đích hoàn thành yêu cầu của giáo viên khi đọc sách của 35
SV TDMU
4
- 5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người phương Đông có câu “Thư trung hữu ngọc”, tức trong sách có ngọc
còn phương Tây có Decartes đã nói: “Đọc sách là được trò chuyện với những người
thành đạt nhất của các thế kỷ đã qua” bởi mỗi quyển sách trước khi ra đời đều
được tác giả hoặc nhóm tác giả đầu tư rất nhiều kiến thức, sự chia sẻ kinh
nghiệm, tâm tư, nguyện vọng, của mình vào đó. Vì thế mà đọc sách trở thành một
trong những kỹ năng tự học cơ bản nhất và có ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả học
tập của sinh viên và để có thể khai thác được hết những tinh hoa của một quyển
sách, đòi hỏi mỗi cá nhân trong quá trình đọc sách phải có những kỹ năng thích hợp.
Sách là kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại được lưu truyền qua hàng ngàn
năm. Đọc sách là cách tốt nhất để ta tiếp thu các nền văn hóa lớn trên thế giới, làm
giàu thêm vốn hiểu biết của mình. Ngoài việc đọc sách chuyên môn để củng cố
kiến thức, chúng ta cũng nên đọc những quyển sách về các lĩnh vực khác trong cuộc
sống để hiểu những gì đang diễn ra xung quanh mình, hoàn thiện bản thân, phát
triển tâm hồn để hướng tới những giá trị tốt đẹp. Một lợi ích khác của việc đọc
sách, đó làvốn từ và cách hành văn sẽ dần đi vào vốn kiến thức của bạn. Từ đó bạn
sẽ có thể nói lưu loát, diễn đạt ý một cách rõ ràng, mạch lạc hơn. Trong quá trình
đọc, sách sẽ giúp bạn nhận ra giá trị của những quy tắc ứng xử trong cuộc sống,
những chuẩn mực đạo đức làm người, có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống, biết
yêu thương, thấu hiểu đồng loại, biết chia sẻ những khó khăn với người khác, biết
lên án những thói hư tật xấu, những hành vi trái đạo đức. Từ đó hình thành cho ta
cách nghĩ tích cực hơn, luôn hướng tới những giá trị tốt đẹp, tới lợi ích của bản thân
trong mối quan hệ với lợi ích của những người xung quanh.
Ngoài ra, việc đọc sách còn giúp kích thích các dây thần kinh não bộ, giúp cho
não bộ của bạn luôn khỏe mạnh và tránh lão hóa, làm chậm lại tiến độ của bệnh
Alzheimer và mất trí nhớ. Đồng thời khi đọc sách chúng ta phải suy nghĩ, ghi nhớ
làm tăng khả năng liên kết của các noron thần kinh. Việc này được lặp lại nhiều
lần sẽ khiến chúng ta trở nên thông minh hơn, cải thiện khả năng tập trung và tăng
- 6
cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo. Đây cũng là một trong những lợi ích cơ
bản và quan trọng nhất mà đọc sách đem lại cho người đọc.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc đọc sách của sinh viên vẫn còn nhiều mặt hạn
chế mặc dù đây là thế hệ tri thức, là lực lượng nồng cốt trong việc học tập, nghiên
cứu, tự nâng cao nhận thức và phát triển bản thân, góp phần xây dựng đất nước.
Trong một cuộc điều tra về tình hình đọc sách của người dân thuộc các vùng, miền
khác nhau trong cả nước của TS Vũ Dương Thúy Ngà (Vũ Dương Thúy Ngà, 2012)
đã chỉ ra rằng chỉ có 56,8% người lớn và 59% học sinh sinh viên chọn cách dùng
thời gian rảnh rỗi của mình vào việc đọc sách trong khi các hoạt động khác lần lượt
chiếm 60 và 68%. Những con số này cho thấy đọc sách đã trở thành một phần
không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của đa số thành phần trong xã hội, từ
người lớn cho đến học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, nhận thức của mỗi người về việc
đọc sách nhằm phục vụ nhu cầu giải trí, nâng cao khả năng nhận thức và tư duy
phản biện của từng cá nhân và của toàn xã hội là khác nhau.
Bên cạnh đó, sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một là một trong những đối tượng
có vai trò chính là học tập, nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm cho quá trình trở thành
người công dân có ích và một trong những hoạt động cơ bản, cần thiết đó là hoạt
động đọc sách.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài “Thực trạng đọc
sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một” nhằm khảo sát, đánh giá một
cách bao quát nhất, chung nhất về việc đọc sách của sinh viên và những yếu tố ảnh
hưởng đến việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, từ đó đề ra
những kiến nghị cho cá nhân và nhà trường nhằm nâng cao kỹ năng đọc sách, khả
năng tự học cho sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Trong giới hạn về thời gian và nhân lực, nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm, tiến
hành phân tích, kế thừa các kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm từ 6 đề tài nghiên
cứu trước đó, bổ sung cho đề tài “Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại
học Thủ Dầu Một” một số kiến thức, kỹ năng và gợi ý cho đề tài của chúng tôi.
6
- 7
Đầu tiên phải nói đến cuộc điều tra mang quy mô cả nước với số lượng
1350 phiếu (516 phiếu gửi cho học sinh sinh viên, 337 phiếu cho các bậc phụ huynh
và 497 phiếu cho người lớn) ở 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội,
Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Nghệ An, Quảng
Nam, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước, tác giả Vũ Dương Thúy Ngà (Vũ Dương
Thúy Ngà, 2012) đã đưa ra số liệu chứng minh rằng người dân Việt Nam quan tâm
đến việc đọc với con số 59% HSSV được hỏi dung thời gian rảnh để đọc sách và
người lớn là 56,8%. Bên cạnh đó, có sự khác biệt giữa nhu cầu đọc của HSSV và
người lớn do sự khác biệt về độ tuổi, địa vị, thân phận, động lực đọc sách. HSSV
chọn sách với nhu cầu bổ túc kiến thức học tập với 22% trong khi người lớn có nhu
cầu giải trí cao nên tỷ lệ chọn sách văn hóa nghệ thuật chiếm đến 22%. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng chỉ ra những cản trở việc đọc sách của sinh viên, trong đó nổi
bật lên tỷ lệ 43% thư viện mở trùng giờ với thời gian đến lớp của HSSV và 30% ý
kiến cho rằng vốn sách của thư viện còn nghèo. Những số liệu khảo sát trên cho
thấy nhu cầu đọc sách báo luôn có trong mỗi người nhưng lực lượng HSSV chú
trọng vào các sách liên quan đến học tập để mở rộng kiến thức và hình thành nhân
cách, tuy nhiên do thư viện cơ sở còn nghèo về chủng loại sách và nghiệp vụ của
nhân viên vẫn chưa đáp ứng mong đợi của bạn đọc. Từ đó chú trọng đến 3 giải
pháp nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo và người dân về văn hóa đọc, giáo
dục thói quen và kỹ năng đọc sách cho HSSV trong nhà trường và tăng cường cơ sở
vật chất – kỹ thuật và nâng cao chất lượng hoạt động thư viện.
Ngô Hà Thủy Ngân cũng nghiên cứu về thực trạng đọc sách của sinh viên
Trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII) trong nghiên cứu “ Văn hóa đọc của sinh
viên trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII) trước ngưỡng cửa công nghệ thông
tin”. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ có 18,2% sinh viên sử dụng thiết bị công nghệ để
tìm kiếm sách báo trong khi dùng cho nhu cầu giải trí và nhu cầu khác chiếm đến
hơn 4/5 số lượng sinh viên được khảo sát. Dù bị văn hóa nghe nhìn lấn ác nhưng
văn hóa đọc vẫn hiện hữu và chiếm tỉ lệ hơn 80% (81,8%). Sự yêu thích đọc sách
điều tra được khá tương xứng với mức độ quan tâm của các bạn tới việc đọc sách,
cụ thể là có 6/6 sinh viên (chiếm tỉ lệ 100%) sinh viên thích đọc sách và quan tâm
đến sách và 100% sinh viên không thích sách thì it quan tâm đến sách. Điểm mới của
- 8
nghiên cứu này là đề cập đến thời gian đọc sách. Có đến 59,9% sinh viên được hỏi
trả lời rằng mỗi ngành dành từ 02 giờ cho việc đọc sách và vì thời gian ít như vậy
nên phương thức mà các bạn ưu tiên hàng đầu là chọn đọc theo nhu cầu tìm kiếm
thông tin nhằm phục vụ đầu tiên cho mục đích học tập (63,6%), sau đó mới là đến
sở thích của bản thân (20,5%). Nghiên cứu cũng đi sâu vào tìm hiểu những nguyên
nhân làm cho sinh viên không quan tâm đến việc đọc sách bao gồm: 34,1% SV chưa
hiểu rõ về tầm quan trọng của việc đọc sách, 29,5% sinh viên chỉ muốn nắm được
các kiến thức đã được học trong trường và ¼ số sinh viên được hỏi đã trả lời rằng
mình lười đọc sách. Bên cạnh thực trạng đọc sách của sinh viên, tác giả cũng tìm
hiểu các kỹ năng đọc của sinh viên. Có 27 sinh viên (chiếm 61,4%) số sinh viên
được khảo sát cho rằng “Nắm bắt nội dung vấn đề đã đọc và vận dụng vào cuộc
sống”. Bên cạnh những con số tích cực ấy vẫn còn những hạn chế làm cản trở văn
hóa đọc: điều kiện cơ sở vật chính, tài chính còn hạn chế, Thư viện trường chưa
đáp ứng nhu cầu về sách cho sinh viên (93,2%), cơ bão về văn hóa mạng, sự hạn
chế về thời gian và cách giáo dục từ trường Phổ thông chưa tạo được thói quen đọc
sách. (Ngô Hà Thủy Ngân, 2011)
Bên cạnh những nghiên cứu chỉ ra thực trạng đọc sách của sinh viên, Cao
Xuân Liễu đã đi tìm hiểu về các kỹ năng đọc sách của sinh viên trong nghiên cứu
“Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học” khi khảo sát
120 sinh viên năm 2 chuyên ngành Tâm lý học của Học viện Quản lí Giáo dục. Về
thực trạng đọc sách, thời gian sinh viên đọc sách nhiều nhất là sau khi nghe giáo
viên giảng bài xong, chiếm 53,3%. Khi nghiên cứu về các hành động trong khi đọc
sách chuyên ngành, tác giả thu được kết quả là có đến hơn 2/5 số sinh viên được
khảo sát cho rằng mình chỉ ghi nhớ trong đầu và 18,3% sinh viên không ghi lại mà
chỉ đánh dấu trên tài liệu trong khi các hoạt động quan trọng như “ghi lại và có đưa
ra ý kiến so sánh, đối chiếu với bài giảng của giảng viên”, “lập đề cương sau khi
đọc” và “ghi lại ý chính” chỉ chiếm lần lượt 2,5; 3,3 và 6,8%. Từ thực trạng trên, tác
giả tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng đọc sách chuyên
ngành cho sinh viên khoa Giáo dục của Học viện. Kết quả kiểm chứng cho thấy
rằng sau khi được phổ biến các tri thức liên quan đến sách, kỹ năng đọc sách và
thường xuyên luyện tập thì các kỹ năng như Kỹ năng xác định nội dung chính, Kỹ
8
- 9
năng bổ sung, mở rộng phân tích sự kiện, hiện tượng, nội dung tài liệu và Kỹ năng
mô hình hóa, sơ đồ hóa nội dung tài liệu mang lại hiệu quả cao, cải thiện số lượng
và cả chất lượng khi đọc sách của sinh viên chuyên ngành Tâm lý học (Cao Xuân
Liễu, 2012)
Tác giả Đỗ Thị Thu Trang trong nghiên cứu về thực trạng kỹ năng đọc sách
của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội đã khảo sát 465 sinh viên bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu cho thấy số sinh
viên nắm vững kỹ năng lập kế hoạch đọc sách một cách khoa học và thường xuyên
tiến hành lập kế hoạch trong quá trình học tập của mình chiếm tỷ lệ rất ít (7,4%).
Sau bước lập kế hoạch, việc thực hiện kế hoạch đọc sách của sinh viên chỉ đạt
mức trung bình, chưa nắm vững và thực hiện các nội dung của các cách đọc một
cách đầy đủ và thường xuyên. Cụ thể là ở kỹ năng đọc biết, chỉ có 6,3% sinh viên
được hỏi đọc “Đoạn mở đầu và kết luận của chương, sau đó đọc nhanh toàn bộ
chương cần đọc biết” và 25,8% sinh viên được hỏi có “Ghi chép theo hướng tự trả
lời câu hỏi: nội dung quan trọng nhất của từng chương đã đọc là gì”. Sang kỹ năng
đọc hiểu, có đến 74% sinh viên thường xuyên tiến hành đọc biết trước để xác định
chương mục nào của tài liệu cần đọc hiểu và một tỉ lệ lớn sinh viên chỉ thỉnh
thoảng hoặc không bao giờ ghi chép những ý mà mình cho là quan trọng và cố gắng
diễn đạt ý đó bằng mô hình, sơ đồ (63,2%). Về kỹ năng đọc hiểu sâu, chỉ duy nhất
có một nội dung được nhiều SV (61,8%) thường xuyên thực hiện đó là “Thực hiện
đọc biết và đọc hiểu trước khi đọc hiểu sâu để xác định chương mục nào của tài
liệu cần đọc hiểu sâu”. Nhưng trong quá trình đọc hiểu sâu có đông đảo sinh viên
không tự tìm ví dụ mình họa cho những nội dung đang đọc, 81% SV không thực
hiện thao tác trả lời câu hỏi “Các khái niệm và lý thuyết đang đọc có liên quan như
thế nào đến khái niệm và lý thuyết đã biết”. Công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Thu
Trang đã phần nào cho thấy rằng khi đọc sách SV không thường xuyên thực hiện
nhiều nội dung của kỹ năng đọc hiểu sâu, chưa nắm vững các cách thức đọc biết,
đọc hiểu và đọc hiểu sâu dù sinh viên là đối tượng thường xuyên phải thực hiện
hoạt động học tập và nghiên cứu (Đỗ Thị Thu Trang, 2007)
Cùng quan điểm với tác giả Thu Trang, công trình nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Vĩnh Lợi cũng tìm hiểu về thực trạng sử dụng các kỹ năng khác vào việc
- 10
đọc sách của sinh viên đại học năm thứ nhất ở trường Đại học Trà Vinh bằng
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 376 sinh viên và phương pháp nghiên cứu tài
liệu thứ cấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ lớn sinh viên thể hiện kinh
nghiệm đọc tốt: có đến hơn 90% sinh viên được khảo sát nhận thấy tầm quan trọng
(gồm 55% thấy được tầm quan trọng mang tính tương đối và 39% nhận thấy tầm
quan trọng rất cao) của việc bố trí, hệ thống, tóm lược của sách; chỉ có 3% sinh
viên không tập trung khi đọc sách trong khi đó tỉ lệ tập trung ở mức tương đối cao
lại chiếm 70% và rất cao chiếm 27%; có 65% sinh viên khi được hỏi trả lời rằng có
tự đặt câu hỏi và tự trả lời khi đọc sách và 327 sinh viên (chiếm 87%) trả lời rằng
có đánh dấu vấn đề quan tâm khi đọc sách. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở
những số liệu có vấn đề chứ chưa tìm hiểu nguyên nhân hay hướng khắc phục, làm
cho đề tài vẫn chưa mang tính ứng dụng cao (Nguyễn Vĩnh Lợi, 2011).
Cùng hướng nghiên cứu với Nguyễn Vĩnh Lợi, “Thực trạng kỹ năng đọc
sách của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang” của Phạm Đình Gấm và
Vũ Đình Mạnh cũng đề cập đến nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc đọc
sách cũng như thực trạng sử dụng thời gian đọc sách của 190 sinh viên năm nhất và
năm ba Khoa THCS và Khoa Mần non của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sinh viên nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc
đọc sách đối với quá trình học tập và phát triển bản thân là khá đầy đủ, cụ thể là
điểm trung bình cho việc đọc sách giúp “hình thành năn lực tự học đạt điểm trung
bình 5,18. Tuy nhiên, cũng theo nghiên cứu này, sinh viên cho rằng việc đọc sách để
mở rộng tri thức, tầm hiểu biết là chiếm kết quả thấp nhất (3,49) so với các ý kiến
“đọc để giết thời gian”, “đọc để vui chơi giải trí”. Và chính vì nhận thức chưa phù
hợp nên mức độ sinh viên chủ động đọc sách vẫn chưa nhiều. Có đến 34% các bạn
sinh viên được khảo sát cho rằng “chỉ đọc sách khi thi, kiểm tra”. Nghiên cứu này đã
khẳng định nhìn chung sinh viên đã nắm được các kỹ năng đọc cơ bản, nhưng ở
mức độ còn thấp, mặt khác giáo viên đã quan tâm đến việc đọc giáo trình, tài liệu
cho sinh viên nhưng chưa quan tâm hướng dẫn cách đọc cho các em. (Phạm Thị
Gấm, Vũ Đình Mạnh, 2009)
Sau quá trình nghiên cứu các tài liệu thứ cấp, chúng tôi nhận thấy mình có
thể kế thừa các nội dung từ những nghiên cứu trước bao gồm các yếu tố: Thực
10
- 11
trạng về việc đọc sách của sinh viên bao gồm: thời gian đọc sách, các tiêu chí chọn
mua một quyển sách, các thể loại sách mà HSSV thường đọc. Bên cạnh đó, tôi
muốn đi trả lời các câu hỏi có hay không sự khác biệt về độ tuổi, giới tính, học lực,
điều kiện sống với nhận thức về vai trò của việc đọc sách của sinh viên trường
Đại học Thủ Dầu Một. Và trong giới hạn tìm kiếm, tôi vẫn chưa tìm thấy nghiên
cứu nào sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tìm hiểu về nhận thức của
sinh viên về vai trò của việc đọc sách đối với hoạt động học tập và đó cũng là một
hướng mới mà chúng tôi sẽ dùng để thu thập thông tin cho đề tài của mình.
3. Mục tiêu đề tài
3.1. Mục tiêu chung
Đối với đề tài này, nhóm nghiên cứu muốn Tìm hiểu thực trạng đọc sách của
SV TDMU về vai trò của việc đọc sách, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để
nâng cao nhận thức, cải thiện việc đọc sách của sinh viên TDMU nói riêng và sinh
viên các trường ĐH, CĐ nói chung.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu thứ nhất: Tìm hiểu thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại
học Thủ Dầu Một hiện nay.
Mục tiêu thứ hai: Tìm hiểu các yếu tố chi phối việc đọc sách của sinh viên
trường Đại học Thủ Dầu Một.
Mục tiêu thứ ba: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu
Một về vai trò của việc đọc sách.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Đề tài tìm hiểu về thực trạng đọc sách, nhận thức của sinh viên và các yếu
tố chi phối việc đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một thông qua
bảng hỏi để thu thập, sau đó xử lý và phân tích các thông tin định lượng, các dữ liệu
thống kê có sẵn bằng phần mềm SPSS.
Do số lượng sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một rất lớn, khó có thể thực
hiện khảo sát trên tổng số sinh viên, vì vậy nhóm nghiên cứu chỉ khảo sát trên một
số lượng sinh viên nhất định, phù hợp với kinh phí, thời gian và nhân lực của nhóm.
- 12
Phương pháp chọn nhóm nghiên cứu sử dụng là phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
có điều kiện với điều kiện là sinh viên có đọc sách, số lượng sinh viên được khảo
sát là 300 sinh viên với số lượng và giới tính được phân bố như bảng 1.
Giới tính
Nam Nữ
Row N Row N
Khoa Count % Count %
Công nghệ thông
13 72,2% 5 27,8%
tin
Công tác xã hội 3 25,0% 9 75,0%
Luật 10 47,6% 11 52,4%
Ngôn ngữ Trung
3 33,3% 6 66,7%
Quốc
Ngữ văn 2 14,3% 12 85,7%
Kinh tế 6 30,0% 14 70,0%
Kiến trúc đô thị 5 50,0% 5 50,0%
Tài nguyên môi
10 55,6% 8 44,4%
trường
Khoa học Tự nhiên 4 20,0% 16 80,0%
Xây dựng 18 94,7% 1 5,3%
Sử 5 35,7% 9 64,3%
Sư phạm 5 17,2% 24 82,8%
Ngoại ngữ 7 50,0% 7 50,0%
Điện Điện tử 11 84,6% 2 15,4%
Bảng 1. Số lượng sinh viên các Khoa theo giới tính thực hiện khảo sát
(Nguồn: Phạm Thụy Thùy Trâm, 2016)
4.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Bên cạnh phương pháp nghiên cứu định lượng, đề tài cũng sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính, cụ thể là phương pháp phỏng vấn sâu để phân tích
những yếu tố tác động đến nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách
cũng như tìm hiểu về nhận thức của sinh viên về vai trò của việc đọc sách.
Cách thức thu thập thông tin: Phỏng vấn ngẫu nhiên đến khi thông tin “Nhận thức
về vai trò của việc đọc sách” bảo hòa thì dừng lại.
12
- 13
Số lượng mẫu thực hiện khảo sát: 6 sinh viên thuộc các Khoa Công tác xã
hội, Sư phạm và Xây dựng.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1 Phạm vi thời gian: 6 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 03/2016)
6.2 Phạm vi không gian: Trường Đại học Thủ Dầu Một.
7. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
7.1 Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng đọc sách của SV TDMU hiện nay như thế nào?
Nhận thức của SV TDMU về vai trò của việc đọc sách như thế nào?
Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
Các yếu tố khách quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU không?
7.2 Giả thuyết nghiên cứu
SV TDMU không dùng nhiều thời gian vào việc đọc sách.
SV TDMU hiện nay có nhận thức chưa đúng về vai trò của việc đọc sách.
Các yếu tố chủ quan có chi phối việc đọc sách của SV TDMU.
Các yếu tố khách quan cũng có khả năng chi phối việc đọc sách của SV
TDMU.
8. Khung phân tích
- 14
Chú thích: :Hướng nghiên cứu
14
- 15
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Hệ thống khái niệm và cơ sở lý thuyết của đề tài
1. Hệ thống khái niệm chính có liên quan đến đề tài
1.1. Khái niệm “Sinh viên”
Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” (Huyền Linh, 2014) định nghĩa, sinh
viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng. Ở đó họ được truyền đạt
kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ
được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình
học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và
trung học.
1.2. Khái niệm “Sách”
Các nhà thư viện học ghi nhận rằng: “Sách là tri thức có nội dung nhất quán,
liên tục được ghi chép lại chủ yếu bằng chữ viết và hình vẽ, trên vật liệu cơ bản là
giấy có số lượng trang in theo quy định” (Dương Quỳnh Tương, 2012).
1.3. Khái niệm “Đọc sách”
Có khá nhiều tác giả định nghĩa về hành động đọc sách, tuy nhiên, trong khả
năng tìm kiếm tài liệu, nhóm nghiên cứu sử dung định nghĩa của tác giả Dương
Quỳnh Tương (Dương Quỳnh Tương, 2012): “Đọc sách là hành động dồn tâm trí
vào những trang sách, trang tài liệu nhằm nắm bắt nội dung, ý nghĩa của nó và rút ra
những vấn đề cốt lõi, quan trọng ở những tài liệu có độ tin cậy cao để nghiên cứu,
học tập và ứng dụng; đồng thời phản biện những tài liệu có nội dung sai lệch,
thiếu chân thực, thiếu khách quan và đưa ra những ý kiến xác đáng của mình về vấn
đề đó”.
Cũng có nhiều tác giả với các trường phái khác nhau bàn về các cách đọc
sách khác nhau, tuy nhiên, trong giới hạn tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi chọn lọc 3
phương pháp đọc cơ bản:
- 16
Đọc toàn văn: là cách thức đọc phổ biến hiện nay. Khi đọc, người đọc đọc
từng câu từng chữ và suy ngẫm một cách kỹ càng nhất có thể nhằm hiểu được toàn
bộ nội dung mà tác giả muốn diễn đạt.
Đọc lướt: đọc nhanh từng đoạn của một văn bản nhằm nắm bố cục, những
ý cốt lỗi nhất của văn bản đó.
Đọc từ khóa: Là cách đọc đòi hỏi các kỹ năng đi kèm như là kỹ năng quan
sát, phân tích,… nhằm tìm ra nội dung cốt lỗi nhất, các vấn đề được đề cập đến
một cách nhanh nhất.
1.4. Khái niệm “Nhận thức”
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt của tác giả Trần Minh Hoàng,
“nhận thức là nhận ra và hiểu được nghĩa lý của sự việc” (Trần Minh Hoàng, 2005)
Trong bối cảnh của đề tài nghiên cứu này, nhận thức có nghĩa là sinh viên
nhận ra, hiểu được hết tầm quan trọng của việc đọc sách trong đời sống hằng ngày
và trong hoạt động học tập.
1.5. Khái niệm “Vai trò”
Theo định nghĩa của Trần Minh Hoàng (Trần Minh Hoàng, 2005), vai trò là
tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó”.
1.6 Khái niệm: “Vai trò của việc đọc sách”
Đã có rất nhiều những nghiên cứu nói về vai trò của việc đọc sách đối với
mỗi cá nhân, tuy nhiên trong giới hạn của chúng tôi, chúng tôi tìm hiểu vai trò của
việc đọc sách thông qua một tài liệu trên báo Vietnamnet (Waka.vn, 2015).
(1) Kích thích tinh thần
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đọc sách giúp kích thích tinh thần. Sự kích
thích tinh thần giúp làm chậm lại tiến độ (hoặc thậm chí có thể ngăn chặn) căn
bệnh Alzheimer và mất trí nhớ, giữ cho bộ não của bạn hoạt động và tham gia ngăn
không cho bị mất năng lượng.
Giống như bất kỳ các cơ quan khác trong cơ thể, não đòi hỏi phải được tập
thể dục để luôn mạnh khoẻ.
(2) Giảm căng thẳng
Bất kể bạn gặp bao nhiêu căng thẳng trong công việc, các mối quan hệ cá
nhân, hay vô vàn các vấn đề khác phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày, tất cả
sẽ biến mất khi bạn tập trung vào một câu chuyện thú vị. Một cuốn sách hay có thể
đưa bạn tới một thế giới khác, một bài báo hấp dẫn sẽ giúp ổn định bạn trong thời
điểm hiện tại, khiến tình trạng căng thẳng dần dần tan biến và cho phép bạn thư
giãn.
16
- 17
(3) Kiến thức
Tất cả những gì bạn đọc sẽ lấp đầy tâm trí bạn với những thông tin mới mẻ,
thú vị. Bạn không thể biết được lúc nào đó bạn sẽ cần đến những mảng kiến thức
này. Càng hiểu biết, bạn càng được trang bị tốt để vượt qua bất cứ thử thách nào
trong cuộc sống.
Đã bao giờ bạn rơi vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực chưa? Hãy nhớ rằng bạn có thể
mất tất cả công việc, tài sản, tiền bạc, thậm chí cả sức khỏe – nhưng tri thức thì
không bao giờ bạn đánh mất.
(4) Mở rộng vốn từ
Lợi ích này đi cùng lợi ích thứ 3: Bạn càng đọc nhiều, bạn càng có được
thêm nhiều từ vựng, chúng sẽ trở thành vốn từ hàng ngày của bạn. Nói lưu loát và
thu hút là lợi thế trong bất cứ ngành nghề nào. Việc đọc hỗ trợ nhiều cho sự nghiệp
của bạn. Những người có khả năng đọc tốt, nói tốt và hiểu biết rộng có xu hướng
thăng chức nhanh hơn (và thường xuyên hơn) những người có vốn từ hạn hẹp và ít
hiểu biết về văn học, khoa học hay các sự kiện trên thế giới.
Đọc sách cũng giúp ích nhiều cho việc học ngôn ngữ mới. Khi một người nói
ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ được tiếp xúc với những từ được dùng trong
từng ngữ cảnh, khả năng nói cũng như viết của người đó sẽ thông thạo hơn.
(5) Cải thiện trí nhớ
Khi bạn đọc sách, bạn phải ghi nhớ các nhân vật, thông tin về họ, hoài bão,
lịch sử, sắc tháy hay các tình tiết hình thành nên lối sống qua mỗi câu chuyện. Có
thể là hơi nhiều nhưng não là một thứ tuyệt vời, chúng có thể nhớ tất cả những
điều này dễ dàng. Rất kì diệu, mỗi ký ức mới sẽ khiến não tạo ra nếp nhăn não
mới và củng cố nếp nhăn cũ, hỗ trợ việc nhớ lại và cân bằng cảm xúc. Thật thú vị
phải không?
(6) Khả năng phân tích của tư duy mạnh mẽ hơn
Bạn đã từng đọc một tiểu thuyết kỳ bí và tự giải quyết được bí ẩn trước khi
đọc xong chưa? Nếu có, bạn đã có thể áp dụng tư duy phê bình và phân tích vào
công việc bằng cách ghi lại tất cả những chi tiết được cung cấp và xâu chuỗi chúng
giống như “truyện trinh thám”.
Khả năng phân tích các chi tiết cũng sẽ có ích khi nhận xét về tình tiết
truyện, đánh giá xem phần đó được viết tốt hay chưa, tiến triển của nhân vật có
hợp lý không, cốt truyện có mạch lạc không.
Nếu bạn thảo luận về một cuốn sách với người khác, bạn cũng có thể nêu rõ
ràng ý kiến của mình, vì bạn đã dành thời gian thực sự để xem xét tất cả các khía
cạnh liên quan.
(7) Tăng khả năng tập trung, chú ý
Trong thời đại phát cuồng vì internet, sự tập trung của chúng ta bị phân tán ra
nhiều hướng cùng lúc khi chúng ta xử lí nhiều việc hàng ngày.
Chỉ trong 5 phút, một người trung bình sẽ chia thời gian của họ giữa làm
việc, kiểm tra email, chat, để mắt đến facebook, theo dõi điện thoại và trò chuyện
- 18
với đồng nghiệp. Những hành vi này làm tăng mức độ stress và giảm năng suất làm
việc.
Khi bạn đọc sách, tất cả sự chú ý được tập trung vào câu chuyện, phần còn
lại của thế giới cứ thế trôi đi, và bạn có thể hòa mình vào từng chi tiết bạn đang
cảm thụ.
Cố gắng đọc 15 đến 20 phút trước khi làm việc (ví dụ như buổi sáng trên
phương tiện công cộng khi đi làm), và bạn sẽ bất ngờ về khả năng tập trung khi
bắt tay vào công việc.
(8) Kỹ năng viết tốt hơn
Lợi ích này đi cùng với lợi ích mở rộng vốn từ vựng: việc quan sát nhịp điệu,
trạng thái, cách viết của tác giả sẽ ảnh hưởng tới lối viết của bạn. Cũng giống như
cách các nhạc sĩ ảnh hưởng lần nhau, các họa sĩ dùng những kỹ thuật do chính các
bậc thầy đi trước tạo ra, các nhà văn cũng học cách viết khi đọc tác phẩm của
người khác.
(9) Sự thanh tịnh trong tâm hồn
Ngoài việc thư giãn với một cuốn sách hay, đề tài mà bạn đọc có thể mang
lại sự bình yên, thanh tịnh trong tâm hồn bạn.
Đọc một tác phẩm về mặt tâm linh có thể làm giảm bớt huyết áp và mang
lại cảm giác êm đềm, trong khi đọc cuốn sách về kỹ năng rèn luyện bản thân sẽ
giúp ích cho những người bị rối loạn cảm xúc và bệnh tâm thần nhẹ.
(10) Giải trí miễn phí
Rất nhiều người thích mua sách để được chú thích và đánh dấu mép trang,
tham khảo sau này. Tuy nhiên những cuốn sách hay thường khá đắt. Để giải trí với
ngân sách thấp, bạn có thể đến các thư viện địa phương.
Ngoài ra, có nhiều thư viện điện tử mà bạn có thể mua hoặc thậm chí đọc
đến hàng nghìn cuốn miễn phí như trên thư viện sách waka.vn. Thư viện sách điện
tử Waka có đến 4.000 cuốn thuộc 20 thể loại và cho phép đọc miễn phí, ngay cả
chế độ offline (không có internet hay 3G)
Như vậy, từ các định nghĩa trên, ta nhận thấy vai trò của sinh viên là học tập,
tích luỹ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, tạo tiền đề cho quá trình phát triển bản
thân. Và quá trình học tập đó không thể không nhắc đến sự hiện diện của việc đọc
sách như là một phần không thể thiếu đối với mỗi cá nhân. Tuy nhiên, sinh viên có
thực hiện đúng vai trò của mình chưa, cụ thể là việc đọc sách của sinh viên hiện
nay như thế nào, đó là thắc mắc mà chúng tôi sẽ giải đáp sau khi thực hiện nghiên
cứu này.
18
- 19
2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
2.1 Quan điểm lý thuyết hành động xã hội của Max Weber
Quan điểm lý thuyết này được đề cập trong giáo trình nhập môn Xã hội học
(Trần Thị Kim Xuyến, Nguyễn Thị Hồng Xoan, 2005) với các nội dung cơ bản như
sau:
Vào thế kỷ XX, Max Weber đưa ra lý thuyết hành động. Ông cho rằng một lý
thuyết tập trung vào cá nhân thì không thể bỏ qua các yếu tố chủ quan của cá nhân:
tình cảm, suy nghĩ, tư tưởng.
Muốn nghiên cứu con người thì phải đặt mình vào hoàn cảnh của từng đối
tượng và thâm nhập vào thế giới nội tâm: tình cảm, tư duy. Người ta không chỉ
hành động khi có lợi mà còn vì cái mà người ta coi là có ý nghĩa (có giá trị). Vì vậy,
M.Weber đưa ra một hệ thống mang tính chất khuôn mẫu bao gồm 4 kiểu hành
động đẻ các nhà nghiên cứu có thể dựa trên đó phân tích trong bối cảnh thực.
Trước hết là hành động do cảm xúc (vì tình cảm), ông cho rằng phần lớn
hành động của con người thực hiện là do cảm xúc. Tính tự phát của hành động theo
tình cảm mang tính riêng biệt vì cũng một con người, cũng một hoàn cảnh có thể
hành động khác nhau tùy theo cảm xúc. Loại hành động này khó kiểm soát được và
nó khó nghiên cứu nhất.
Hành động mang tính truyền thống tức là khi con người hành động theo một
thói quen, xuất phát từ những gì được xã hội hóa ngay từ thưở còn thơ. Tức là việc
con người có xu hướng tuân theo giá trị chuẩn mực của cộng đồng, lặp đi lặp lại
thành thói quen hàng ngày. Các truyền thống khác nhau trong các nền văn hóa khác
nhau.
Hành động hợp lý về giá trị là hành động có tính định hướng giá trị (ngược
với hành động truyền thống). Hành động theo truyền thống không phải suy nghĩ
nhiều còn hành động theo giá trị còn phải tìm hiểu xem nó có giá trị hay không.
Chẳng hạn khi ta hành động, người ta thường xét xem hành động đó có phù
hợp với địa vị xã hội của mình hay không. Những giá trị cũng được thể hiện qua các
chuẩn mực khác nhau. Ví dụ, sự chung thủy ở chế độ đa thê khác sự chung thủy ở
chế độ một vợ, một chồng.
- 20
Ở loại hành động hợp mục đích, người hành động phải suy nghĩ và quyết
định xem mình chọn mục đích nào và dùng phương tiện nào để đạt được mục đích.
Loại hành động này chỉ có đến xã hội hiện đại mới được thực hiện đầy đủ. Ví dụ,
trong chủ nghĩa tư bản hành động hợp mục đích là hành động chiếm ưu thế.
Khi phân tích bốn loại hành động này, ông cho rằng trong cuộc sống chúng
không thể tách rời nhau một cách rạch ròi được. Nó đan xen với nhau, khi muốn
hiểu con người thì phải hình dung ra bốn loại hành động xã hội đó trong trường hợp
cụ thể. Phải xác định được giới hạn quan hệ giữa các hành động ấy trong từng nền
văn hóa.
Cách tiếp cận dựa trên lý thuyết hành động xã hội của Max Weber định
hướng nghiên cứu mục tiêu đọc sách của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một.
2.2 Quan điểm lý thuyết lựa chọn hợp lý của A. Marshall
Lý thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý) được tác
giả Lê Ngọc Hùng (Lê Ngọc Hùng, 2009) trong xã hội học có nguồn gốc từ triết
học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ 18,19. Một số nhà triết học đã từng cho
rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài lòng, sự thỏa mãn và lãng
tránh nỗi khổ đau.
Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính
toán để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những
điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm
các nguồn lực. Cách hiểu này lúc đầu mang nặng ý nghĩa kinh tế học vì nhấn mạnh
yếu tố lợi ích vật chất nhưng sau này được các nhà xã hội học mở rộng phạm vi
của mục tiêu bao gồm các yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần.
Alfred Marschal, nhà kinh tế chính trị người Anh cho rằng cá nhân bị nhu cầu
tâm lý bên trong thúc đẩy phải hành động, nhưng cái định hướng và dẫn dắt hành
động lại là lợi íchcủa sự vật bên ngoài cá nhân. Các cá nhân chỉ tham gia vào quan
hệ trao đổi những hàng hóa nào có lợi ích đối với họ. Tác giả xem con người là chủ
thể ra quyết định một cách hợp lý trong điều kiện khan hiếm nguồn lực trên cơ sở
xem xét, đánh giá lợi ích kinh tế của từng cách lựa chọn.
20
nguon tai.lieu . vn