Xem mẫu

Tại Đại hội VI ­ Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực chất chính là quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác ­ Lê­nin phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại. Vậy, ngày nay, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó, em đã tìm hiểu về: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” NỘI DUNG I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất I.1 Khái niệm lực lượng sản xuất Bất kì một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thược về người lao động (như năng lực, kĩ năng, tri thức của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định( công cụ lao động. đối tượng lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…). toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vạt chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theoi nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Như vậy, lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. do đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao. Trong các yếu tố tạo thành của lực lượng sản xuất, “người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì suy cho cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tự liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. mặt khác, trong tư liệu sản xuất, nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất hiện thực nào diễn ra nếu thiếu một trong hai nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất. thể nhưng chỉ có lược lượng sản xuất chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được, mà còn cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy. I.2 Khái niệm quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất đó là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức – quản lí quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Quan hệ sản xuất do người tạo ra song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy tiện của nội lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng phải quan hệ với tự nhiên mà mà còn phải quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang bản chất xã hội C.Mác viết: "Người ta chỉ sản xuất bằng cách hợp tác với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải để lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất. Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với những mặt khác trong hệ thống sản xuất, xã hội con người sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình tổ chức phân công lao động phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình, con người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên. 1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất II. VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. II.1 Sự vận dụng sai lầm trước năm 1986 II.1.1 Lực lượng sản xuất: Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), đất nước thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Đại hội IV của Đảng (12­1976) tiếp tục đường lối coi cách mạng khoa học ­ kỹ thuật là then chốt để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Nam theo mô hình đã được xây dựng và củng cố ở miền Bắc, để nhanh chóng thống nhất về chế độ kinh tế. Trong hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, dù bị bao vây, cấm vận và chiến tranh biên giới với những tổn thất nặng nề, song lực lượng sản xuất vẫn phát triển đáng kể; “đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông…”. Xây dựng các công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, cầu lớn Thăng Long, Chương Dương, công trình thủy lợi Dầu Tiếng, Kẻ Gỗ, kênh Hồng Ngự thật sự có ý nghĩa lớn về kinh tế ­ xã hội. II.1.2 Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất trước đây chủ yếu là tự cấp, tự túc ít có sự trao đổi hang hóa giữa các vùng hay với các nước khác, nhất là khi chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn được ban hành. Điều này đã làm cho quan hệ sản xuất kém phát triển. Sau năm 1975, cả nước tiến tới thống nhất một phương thức sản xuất. Trong đó quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố với ba yếu tố cơ bản: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; chế độ quản lý kế hoạch hóa, tập trung, hành chính mà Nhà nước là chủ thể; chế độ phân phối theo lao động, có tính đến một phần về đóng góp tư liệu sản xuất (ruộng 5%). 2.1.3 Kết luận về sự vận dụng quy luật này Năm 1979, nước ta lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế nặng nề, đời sống nhân dân không phát triển. Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế ­ xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Quan hệ sản xuất đã làm cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển và cũng không thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội VI của Đảng (12­1986) cho rằng: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”(5). II.2 Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay II.2.1 Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay Sau hàng thập kỉ thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ tự động hóa, tin học hóa, tính chất xã hội hóa rất cao. Khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp chủ yếu. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo thêm động lực cho người lao động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn