Xem mẫu
- Vấn đề chi phí xã hội
The Problem of Social Cost
RONALD COASE
VII. PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI LUẬT PHÁP CỦA QUYỀN LỢI VÀ VẤN
ĐỀ KINH TẾ
Thảo luận ở phần V không chỉ phục vụ việc minh họa luận cứ mà nó còn cố gắng
gợi mở cách tiếp cận luật pháp về vấn đề ảnh hưởng bất lợi. Các trường hợp xem
xét đều ở Anh nhưng việc lựa chọn tương tự các trường hợp ở Mỹ có thể dễ dàng
được thực hiện và đặc điểm lý do cũng sẽ tương tự như vậy. Tất nhiên nếu giao
dịch thị trường không có chi phí thì toàn bộ những vấn đề này (những vấn đề về
tính cân bằng sẽ được tách riêng ra) sẽ là quyền lợi của các bên khác nhau, khi
quyền lợi này được xác định rõ ràng thì kết quả của các hành động luật pháp sẽ dễ
dự đoán. Nhưng như chúng ta đã biết tình huống khác nhau khi giao dịch thị
trường có chi phí cao và điều này khiến cho việc sắp xếp quyền lợi bởi luật pháp
trở nên khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, tòa án sẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động kinh tế. Do đó tòa án cần phải hiểu được kết quả kinh tế của
các quyết định và đưa kết quả kinh tế đó vào xem xét khi đưa ra quyết định. Tòa
án phải hiểu những ảnh hưởng kinh tế đó rõ đến mức nó không thể để tạo ra những
kết quả bất ổn cho bản thân vị trí luật pháp của mình. Thậm chí khi có thể thay đổi
sự phân định ranh giới luật pháp của quyền lợi thông qua giao dịch thị trường thì
rõ ràng việc giảm nhu cầu cho những giao dịch đó và do đó giảm việc sử dụng các
nguồn lực cho việc thực hiện chúng là điều rất được mong muốn.
- Một nghiên cứu kỹ về dự đoán trước quyết định của tòa án trong những trường
hợp như vậy rất được quan tâm nhưng tôi không có đủ khả năng để làm việc đó.
Tuy nhiên một nghiên cứu qua đã cho thấy rõ là tòa án thường nhận thức được các
hàm ý kinh tế và bản chất qua lại của vấn đề (điều mà nhiều nhà kinh tế không
nhận thức được). Hơn nữa, đôi lúc họ còn đưa các hàm ý kinh tế đó vào xem xét
cùng với các nhân tố khác khi đưa ra quyết định của mình. Về vấn đề này các tác
giả Mỹ đề cập đến vấn đề một cách rõ ràng hơn các tác giả Anh. Do vậy tôi xin
trích dẫn bài viết của Prosser về Các sai lầm cá nhân mà một người có thể sử dụng
tài sản của riêng anh ta hay... thực hiện công việc riêng của mình tại chi phí đền bù
một số thiệt hại gây ra cho những người hàng xóm sống xung quanh mình. Anh ta
có thể vận hành nhà máy với tiếng ồn và khói gây khó chịu cho người khác với
điều kiện là nó không được vượt quá giới hạn cho phép. Chỉ khi nào hành động
của anh ta là quá đáng, dưới ánh sáng của tính hữu dụng và tổn hại mà nó gây ra
(phần in nghiêng là phần được thêm vào), thì nó đã thực sự trở nên phiền
toái...Như đã đề cập tới trong một trường hợp cổ điển về việc làm nến ở một thị
trấn, “Le utility del chose excusera le noisomeness del stink."
Thế giới cần phải có các nhà máy, các lò luyện kim, nhà máy lọc dầu, máy móc
gây ra tiếng động và tiếng nổ, thậm chí có thể cần một số chi phí bỏ ra đền bù cho
những bất tiện mà nó gây ra cho những người sống ở vùng lân cận và nguyên đơn
cần phải chấp nhận những bất tiện vô lý đó vì lợi ích chung.
Các tác giả Anh chính thống không trình bày được một cách rõ ràng như vậy, họ
không nêu rõ được sự so sánh giữa tính hữu ích và thiệt hại gây ra chính là một
yếu tố trong việc quyết định liệu những ảnh hưởng bất lợi có thể xem là sự thiệt
hại hay không. Nhưng ta có thể tìm thấy các quan điểm tương tự như thế của các
tác giả Anh được thể hiện không rõ bằng. Không còn nghi ngờ gì nữa ảnh hưởng
bất lợi chắc chắn phải lớn trước khi tòa án phán xét nó là một phần phản ánh thực
tế phải hầu như luôn phải lấy một phần lợi ích để bù đắp thiệt hại. Và trong biên
- bản của các trường hợp riêng lẻ, rõ ràng là các thẩm phán hiểu rõ cái gì mất và cái
gì được khi họ đưa ra quyết định trao lệnh của toà án hay trao phán quyết có lợi
cho bên gây thiệt hại. Do đó, để khước từ việc ngăn chặn thiệt hại mà những tòa
nhà mới xây gây ra trong tương lại, thẩm phán tuyên bố:
Tôi biết không có nguyên tắc chung đối với thông luật, mà.... nói một tòa nhà có ý
định ngăn chặn tương lai của những cái khác là đã gây thiệt hại. Trong trường hợp
như thế, sẽ không có những thành phố lớn; và do đó tôi cần phải trao lệnh của tòa
cho tất cả các tòa nhà mới xây trong thành phố này.....
Vấn đề mà chúng ta gặp phải khi giải quyết các hoạt động có ảnh hưởng bất lợi
không đơn giản chỉ là việc hạn chế trách nhiệm đối với họ. Cái được quyết định là
liệu lợi ích thu được từ việc ngăn cản cái có hại có lớn hơn thiệt hại đâu đó phải
chịu như kết quả của việc ngăn chặn hành động gây hại. Trong thế giới mà chi phí
sắp xếp lại quyền lợi được thiết lập bởi hệ thống luật pháp thì trên thực tế toà án
trong trường hợp có liên quan tới thiệt hại, ra quyết định dựa trên vấn đề kinh tế và
quyết định nguồn lực được sử dụng như thế nào. Người ta lập luận rằng tòa án có
ý thức về vấn đề này và họ thường đưa ra sự so sánh về cái được lợi và cái mất đi
khi ngăn cản các hoạt động có tác động tiêu cực, mặc dù tất cả các so sánh không
phải lúc nào cũng đúng. Nhưng sự phân định ranh giới quyền lợi cũng là kết quả
của các sắc lệnh tuân thủ theo đúng luật. Ở đây chúng ta cũng tìm thấy bằng chứng
cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về bản chất qua lại của vấn đề. Khi một sắc lệnh tuân
thủ luật pháp được thêm vào danh sách thiệt hại thì hành động cũng được đưa vào
nhằm hợp pháp hoá những cái khác mà chúng có thể được coi là thiệt hại theo
thông luật. Loại tình huống mà các nhà kinh tế có khuynh hướng coi là hành động
đòi hỏi có sự điều chỉnh của chính phủ trên thực tế thường là kết quả hoạt động
của chính phủ. Hành động đó không phải là khôn ngoan. Nhưng có một mối nguy
hiểm thực sự khi chính phủ can thiệp quá sâu vào hệ thống kinh tế, khi đó có thể
- dẫn đến sự bảo vệ cho những người phải chịu trách nhiệm đối với ảnh hưởng có
hại, để cho ảnh hưởng có hại đi quá xa.
VIII. CÁCH GIẢI QUYẾT CỦA PIGOU TRONG “KINH TẾ HỌC PHÚC
LỢI”
Nguồn gốc của phân tích kinh tế hiện đại về vấn đề chi phí xã hội được thảo luận
trong bài viết này là “Kinh tế học phúc lợi” của Pigou và cụ thể là đoạn của phần
II, đoạn này giải quyết sự khác nhau giữa sản phẩm ròng tư nhân và xã hội, nó xảy
ra vì một người A, trong quá trình cung cấp một số dich vụ, mà dịch vụ này đã
được thanh toán, cho người thứ hai B đã ngẫu nhiên đưa ra một số dịch vụ hoặc
tạo ra những bất tiện cho người khác (không phải các sản phẩm giống với dịch vụ
ban đầu), hay tạo ra một loại sản phẩm mà bên hưởng lợi không phải là bên thanh
toán tiền hay phải trả tiền bồi thường cho bên bị hại. Pigou nói rằng mục đích của
ông trong Phần II: Kinh tế học Phúc lợi là:
xác định xem sự tự do của tính tư lợi, hoạt động theo hệ thống luật pháp hiện
hành, có xu hướng phân bổ nguồn lực của đất nước theo cách thuận lợi nhất cho
việc sản xuất một lượng lớn cổ tức quốc gia đến chừng nào, và đến chừng nào thì
sự tự do của tính tư lợi là khả thi đối với hoạt động của nhà nước nhằm cải thiện
xu hướng “tự nhiên”.
Đánh giá từ phần đầu của bài trình bày này, mục đích của Pigou là phát hiện xem
liệu có bất kỳ sự cải thiện nào trong sự sắp xếp hiện tại quyết định đến việc sử
dụng nguồn lực hay không. Từ đó Pigpu kết luận rằng có thể thực hiện việc cải
thiện, có người có thể hi vọng ông sẽ tiếp tục việc đó bằng cách nói rằng ông dự
định sẽ sắp đặt những thay đổi đòi hỏi chúng xảy ra. Nhưng thay vào đó Pigou
thêm cụm từ làm tương phản giữa xu hướng “tự nhiên” và “hành động của nhà
nước” mà cụm từ này trong chừng mực ý nghĩa nào đó làm cân bằng giữa sắp xếp
hiện tại với xu hướng tự nhiên và nó hàm ý rằng cái được đòi hỏi để tạo nên những
- cải thiện đó chính là hành động của chính phủ (nếu khả thi). Đây ít hay nhiều
chính là quan điểm của Pigou và chính là bằng chứng từ phần 2 của Chương I.
Pigou bắt đầu bằng cách đề cập đến các nhà kinh tế học cổ điển theo chủ nghĩa lạc
quan, những người lập luận rằng có thể tối đa hóa giá trị của sản xuất nếu chính
phủ kiềm chế không can thiệp vào hệ thống kinh tế và các sự sắp xếp về kinh tế
xoay chuyển bất ngờ “một cách tự nhiên”. Pigou tiếp tục nói rằng nếu tính tư lợi
thúc đẩy phúc lợi kinh tế thì chính là bởi vì các cơ quan của con người được lập ra
để làm như vậy. (Đây là phần lập luận của Pigou mà phần này đã được ông phát
triênr với sự trợ giúp từ việc trích dẫn tác phẩm của Carman, tôi thấy về cơ bản là
đúng). Pigou kết luận rằng:
Kết luận sẽ có lợi hơn cho ngành đường sắt nếu họ không cho chạy lượt tàu thứ
hai là đúng. Còn kết luận ngành đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với
thiệt hại mà họ gây ra là sai. Bây giờ chúng ta thử thay đổi giả định có liên quan
đến quy tắc về trách nhiệm pháp lý. Giả sử rằng ngành đường sắt phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại do tia lửa từ đầu máy gây ra, và một người nông dân có đất
trồng tiếp giáp với đường xe lửa là người phải chịu thiệt hại; nếu cây trồng của
anh ta bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa thì anh ta sẽ nhận được đền bù
từ ngành đường sắt theo giá thị trường, nếu cây trồng của anh ta không bị thiệt hại
thì anh ta cũng thu được tiền từ việc bán sản phẩm của mình theo giá thị trường.
Do đó anh ta không quan tâm đến việc liệu cây trồng của anh ta có bị thiệt hại
không. Vấn đề sẽ rất khác nếu như ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với
thiệt hại. Bất kỳ cây trồng nào bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa sẽ làm
giảm thu nhập của người nông dân. Người nông dân do đó sẽ không canh tác trên
mảnh đất mà cây trồng có nguy cơ bị thiệt hại lớn hơn lợi nhuận ròng từ mảnh đất
(lý do đã được trình bày chi tiết ở phần III). Sự thay đổi từ chỗ ngành đường sắt
không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại sang việc họ phải chịu trách nhiệm
dẫn tới sự ra tăng trong số lượng canh tác trên mảnh đất tiếp giáp với đường sắt.
- Tất nhiên nó cũng làm tăng số lượng cây trồng bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi
xe lửa.
Bây giờ chúng ta hãy quay lại ví dụ số học. Giả sử rằng với sự thay đổi quy tắc về
trách nhiệm pháp lý, số lượng cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa
tăng gấp đôi. Với một chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá 120 đô la sẽ
bị phá hỏng mỗi năm và với hai chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá
240 đô la sẽ bị phá hỏng mỗi năm. Như chúng ta đã thấy ở phần trước, ngành
đường sắt sẽ không có lợi khi cho chạy chuyến tàu thứ hai nếu họ phải trả 60 đô la
một năm tiền đền bù thiệt hại. Với mức đền bù thiệt hại là 120 đô la một năm, tiền
lỗ từ việc chạy thêm chuyến tàu thứ hai sẽ cao hợn 60 đô la. Bây giờ hãy xem xét
chuyến tàu thứ nhất. Giá trị dịch vụ vận chuyển cung cấp cho chuyến tàu thứ nhất
là 150 đô la. Chi phí chạy tàu là 50 đô la. Số tiền ngành đường sắt phải đền bù cho
thiệt hại là 120 đô la. Nếu tính như thế ngành đường sắt sẽ không thu được chút
lợi từ việc chạy bất kỳ chuyến tàu nào. Từ những con số đưa ra trong ví dụ chúng
ta có thể kết luận: Nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt
hại do cháy, họ sẽ chạy hai chuyến tàu một ngày, còn nếu họ phải chịu trách
nhiệm thì họ sẽ chấm dứt hoạt động. Có phải điều đó có nghĩa là việc không còn
xe lửa nữa sẽ tốt hơn? Câu hỏi này có thể được trả lời bằng cách xem xét điều gì
sẽ xảy ra với giá trị tổng sản lượng nếu quyết định miễn chịu trách nhiệm thiệt hại
do hỏa hoạn đối với ngành đường sắt được đưa ra, nếu thế ngành đường sắt có thể
hoạt động (hai chuyến một ngày).
Hoạt động của ngành đường sắt sẽ khiến dịch vụ vận chuyển trị giá 250 đô la hoạt
động. Điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng các nhân tố sản xuất sẽ làm giảm giá
trị sản xuất ở đâu đó xuống còn 100 đô la. Hơn nữa, nó cũng có nghĩa giá trị cây
trồng bị phá hủy là 120 đô la. Việc ngành đường sắt hoạt động trở lại cũng dẫn
đến việc từ bỏ canh tác ở một số vùng đất. Vì như chúng ta đã biết, nếu những
vùng đất đó được canh tác thì giá trị cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn sẽ là 120 đô
- la vì không chắc chắn là toàn bộ số cây trồng trên mảnh đất đó sẽ bị phả hỏng, có
vẻ hợp lý hơn nếu ta giả sử rằng giá trị sản lượng cây trồng trên mảnh đất sẽ cao
hơn thể. Giả sử sẽ là 160 đô la. Nhưng việc từ bỏ canh tác sẽ giải phóng các nhân
tố sản xuất được sử dụng ở đâu đó. Tất cả chúng ta đều biết rằng số lượng giá trị
sản xuất ở đâu đó sẽ tăng ít hơn 160 đô la. Giả sử là 150 đô la. Vậy thì lợi nhuận
thu được từ hoạt động của ngành đường sắt sẽ là 250 đô la (giá trị của dịch vụ vận
chuyển) trừ đi 100 đô la (chi phí cho các nhân tố sản xuất) trừ đi 120 đô la (giá trị
cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn) trừ đi 160 đô la (việc sụt giảm trong giá trị sản
xuất cây trồng do từ bỏ canh tác) cộng với 150 đô la (giá trị sản xuất ở đâu đó của
việc giải phóng các nhân tố sản xuất). Nói chung hoạt động của ngành đường sắt
sẽ làm tăng giá trị tổng sản phẩm lên 20 đô la. Căn cứ vào những con số trên, rõ
ràng rằng sẽ là có lợi hơn nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm cho
thiệt hại mà nó gây ra, và do đó giúp nó hoạt động có lãi. Tất nhiên, bằng việc thay
đổi các con số, cũng có thể chỉ ra rằng còn có các trường hợp khác mà ngành
đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà nó gây ra. Nhưng
đối với tôi như thế là đủ để chỉ ra rằng, từ quan điểm kinh tế, một tình huống mà
"không bồi thường thiệt hại gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy gây ra" không
nhất thiết là cần thiết. Và việc liệu có cần thiết hay không phụ thuộc vào từng
huống cụ thể.
Có phải phân tích Pigovian đưa ra câu trả lời sai không?
Lý do mà Pigou có thể đã không chú ý đến là phân tích của ông giải quyết một câu
hỏi hoàn toàn khác. Phân tích để giải quyết câu hỏi đó là đúng. Nhưng đối với
Pigou thì việc đưa ra kết luận cụ thể như vậy là không hợp lý. Câu hỏi đặt ra với
vấn đề không phải là có cần thiết phải cho chạy thêm một chuyến tàu nữa, tăng
vận tốc tàu hiện có hay cho lắp đặt thiết bị chống lửa hay không, mà câu hỏi đặt ra
với vấn đề là liệu có cần thiết phải có một hệ thống mà ngành đường sắt phải đền
bù cho những người chịu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa hay ngành
- đường sắt không phải đền bù thiệt hại. Khi một nhà kinh tế so sánh các phương án
sắp xếp xã hội, trình tự thích hợp là so sánh tổng sản phẩm xã hội sinh ra bởi các
sự sắp xếp khác nhau đó. So sánh sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội không ở
đây cũng không ở kia. Một ví dụ đơn giản sẽ giúp minh họa cho điều này. Bạn hãy
hình dung một thành phố với các cột đèn giao thông. Một người lái xe mô tô đi
đến ngã tư đường và dừng lại vì gặp đèn đỏ. Phía phố bên kia không có một chiếc
ô tô nào đi đến ngã tư. Nếu người lái xe mô tô phớt lờ tín hiệu đèn đỏ, không có
tai nạn nào xảy ra cả và tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng lên bởi vì người lái xe mô tô
sẽ đến địa chỉ cần phải đến sớm hơn. Tại sao anh ta lại không làm như vậy? Lý do
bởi vì nếu anh ta phớt lờ tín hiệu đèn đỏ thì anh ta sẽ bị phạt. Sản phẩm cá nhân từ
việc băng qua đường là ít hơn sản phẩm xã hội. Liệu từ đó chúng ta có thể kết luận
rằng tổng sản phẩm xã hội sẽ lớn hơn nếu không có hình phạt nào được đưa ra đối
với những người không chấp hành tín hiệu giao thông? Phân tích Pigovian cho
chúng ta thấy rằng có thể nhận thức một thế giới tốt hơn thế giới mà chúng ta đang
sống. Nhưng vấn đề là phải đưa ra các sắp xếp thực tế mà các sắp xếp này sẽ sửa
chữa sai sót trong một phần của hệ thống mà không gây thêm ảnh hưởng xấu đến
các phần khác.
Tôi đã nghiên cứu chi tiết một ví dụ về sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và sản
phẩm xã hội, và tôi không muốn nghiên cứu chi tiết thêm nữa hệ thống phân tích
của Pigou. Nhưng phần thảo luận chính của vấn đề chi phí xã hội được xem xét
trong bài viết này nằm ở Chương 9 phần II, phần này xem xét sự khác biệt loại thứ
hai của Pigou và việc xem xem Pigou đã phát triển luận điểm của mình như thế
nào là điều rất đáng được quan tâm. Sự mô tả của riêng Pigou về sự khác biệt của
loại thứ hai này được trích dẫn ở ngay phía trên của phần này. Pigou phân biệt
giữa trường hợp một người cung cấp dịch vụ mà anh ta chẳng nhận được đồng nào
và một người gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền cho bên bị hại. Tất
nhiên chúng ta cần phải tập trung vào trường hợp thứ hai. Do vậy, khá ngạc nhiên
khi thấy rằng, Giáo sư Francesco Forte đã chỉ ra cho tôi, vấn đề của ống khói - "ví
- dụ về nhà kho" hay "ví dụ về lớp học" của trường hợp thứ hai- được Pigou sử
dụng làm ví dụ cho trường hợp thứ nhất (dịch vụ được cung cấp miễn phí) và
chúng không được đề cập, cho dù là chút ít, có liên quan đến trường hợp thứ hai.
Pigou chỉ ra rằng chủ nhà máy dùng các nguồn lực để ngăn ngừa việc ống khói
không xả khói đã tạo ta một dịch vụ mà chủ nhà máy chẳng nhận được đồng nào.
Ẩn ý ở đây, sẽ được Pigou làm rõ sau ở trong Chương này, là chủ nhà máy có ống
khói xả khói cần được nhận được tiền khuyến khích để thuyết phục ông ta lắp đặt
thiết bị chống khói. Hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đều gợi ý rằng chủ nhà
máy có ống khói xả khói phải bị đánh thuế. Thật đáng tiếc rằng các nhà kinh tế
(trừ Giáo sư Forte) đều không nhận thấy rằng đặc điểm này đã được Pigou nghiên
cứu vì ông nhận thức rõ rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng một trong hai
cách đều có thể dẫn đến một sự thừa nhận rõ ràng về tính qua lại của nó.
Khi thảo luận trường hợp thứ hai (gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền
cho bên bị hại), Pigou nói rằng họ đã phải nhận dịch vụ "khi người chủ của một
công trường nằm trong khu dân cư hay một thành phố xây dựng một nhà máy và
do đó đã phá hỏng phần lớn sự dễ chịu của các khu vực xung quanh; hay, ở một
mức độ thấp hơn, cách mà anh ta sử dụng công trường của mình đã che mất ánh
sáng của nhà đối diện, hay việc anh ta đầu tư nguồn lực xây dựng tòa nhà ở một
khu trung tâm đông đúc đã làm thu hẹp khoảng không và chỗ để vui chơi của
những người lân cận, nó có xu hướng làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hiệu quả
của những gia đình sống ở đó." Tất nhiên Pigou đã đúng khi miêu tả những hành
động đó là những hành động "không bị mất tiền khi gây ảnh hưởng xấu". Nhưng
ông đã sai khi miêu tả những hành động đó là hành động "chống lại xã hội".
Chúng có thể là hành động chống lại xã hội nhưng cũng có thể không. Việc cần
thiết là phải xem xét nặng nhẹ kết quả của ảnh hưởng xấu đối với cái tốt. Chẳng có
cái gì là "chống lại xã hội" hơn việc phản đối bất kỳ hành động nào gây hại đến
bất cứ ai.
- Nghiên cứu của Pigou về các vấn đề được xem xét trong bài viết này quả thật là
rất khó nắm bắt được ý nghĩa và việc thảo luận các quan điểm của ông tạo nên các
khó khăn khó có thể vượt qua nhằm làm sáng tỏ nó. Kết quả là không ai có thể
chắc chắn rằng mình đã hiểu điều mà Pigou muốn nói. Tuy nhiên, chúng ta cũng
không thể không đưa ra kết luận, dù cho có thể là lạ đối với một nhà kinh tế tầm
cỡ Pigou, rằng nguồn gốc của sự tối nghĩa trong quan điểm của Pigou là do ông
không hiểu kỹ luận điểm của mình.
IX. TRUYỀN THỐNG QUAN ĐIỂM CỦA PIGOU -- HỌC THUYẾT
TRUYỀN MIỆNG CỦA PIGOU
Thật lạ là học thuyết sai lầm được Pigou phát triển lại có ảnh hưởng đến như vậy,
mặc dù một phần của thành công đó có lẽ là do sự thiếu rõ ràng trong cách trình
bày của nó. Khi nó không rõ ràng thì cái sự không rõ ràng đó không bao giờ là sai
cả. Lạ kỳ là, nguồn gốc của sự khó hiểu tối nghĩa lại không ngăn cản sự xuất hiện
của các định nghĩa khá rõ ràng về học thuyết được truyền miệng. Cái gì khiến các
nhà kinh tế nghĩ rằng họ học được từ Pigou và họ sẽ nói với sinh viên của mình cái
gì, cái mà tôi gọi là truyền thống Pigou, đã khá rõ ràng. Tôi có ý định chỉ ra sự
không đầy đủ của truyền thống Pigou bằng cách chứng minh rằng cả phân tích và
kết luận về cách giải quyết mà học thuyết của Pigou ủng hộ đều không đúng.
Tôi không có ý định chứng minh quan điểm của mình là đúng như đối với các ý
kiến phổ biến trong nhiều tài liệu tham khảo cho bài viết này. Tôi làm việc này
một phần vì cách giải quyết trong bài viết quá chắp vá rời rạc, ít có liên quan hơn
so với tài liệu tham khảo của Pigou và một số dẫn giải, đến mức việc nghiên cứu
chi tiết là không thích hợp. Nhưng lý do chính đối với việc thiếu tài liệu tham khảo
là học thuyết, dù có dựa vào luận điểm của Pigou, là sản phẩm của sự truyền
miệng. Chắc chắn là các nhà kinh tế mà tôi đã trao đổi những vấn đề này đều nhất
trí với ý kiến là việc xem xét giải quyết thiếu xót phù hợp với chủ đề này trong bài
- viết là có ý nghĩa. Tất nhiên, cũng có một số nhà kinh tế không có cùng quan điểm
như thế nhưng đó chỉ là thiểu số.
Cách tiếp cận vấn đề đang được thảo luận là thông qua việc nghiên cứu giá trị của
sản xuất vật chất. Sản phẩm tư nhân là giá trị của sản phẩm thêm vào, kết quả của
một hoạt động kinh tế đặc biệt. Sản phẩm xã hội bằng sản phẩm tư nhân trừ đi sự
sụt giảm trong giá trị sản xuất ở đâu đó mà ở đó doanh nghiệp không phải trả tiền
đền bù cho thiệt hại mà nó gây ra. Do đó, nếu 10 đơn vị của một yếu tố (và không
có các yếu tố khác) được doanh nghiệp sử dụng để tạo ra một sản phẩm nhất định
có giá trị 105 đô la, và chủ của nhân tố đó không nhận được tiền đền bù cho nhân
tố bị sử dụng, mà anh ta không có khả năng ngăn cản không cho sử dụng; thì 10
đơn vị của nhân tố đó sẽ mang lại sản phẩm theo phương án sử dụng tốt nhất trị
giá 100 đô la; và sản phẩm xã hội là 105 đô la trừ đi 100 hay 5 đô la. Nếu bây giờ
doanh nghiệp trả cho một đơn vị của yếu tố sản xuất và giá của nó bằng với giá trị
sản phẩm cận biên của nó, thì sản phẩm xã hội sẽ tăng lên đến 15 đô la. Nếu doanh
nghiệp phải trả cho 2 đơn vị của yếu tố sản xuất thì sản phẩm xã hội sẽ tăng lên 25
đô la, cứ như thế cho đến khi nó đạt tới 105 đô la khi doanh nghiệp phải trả cho tất
cả các đơn vị của yếu tố sản xuất. Có thể dễ dàng nhận thấy lý do tại sao các nhà
kinh tế lại sẵn sàng chấp nhận điều đó hơn là thủ tục kỳ quặc (odd procedure).
Phân tích tập trung vào quyết định của cá nhân các doanh nghiệp và vì không được
phép sử dụng nguồn lực nhất định trong chi phí cho nên số doanh thu bị giảm bằng
đúng số đó. Nhưng tất nhiên điều đó có nghĩa là giá trị sản phẩm xã hội không
mang bất kỳ ý nghĩa xã hội nào. Tôi thích sử dụng khái niệm chi phí cơ hội và tiếp
cận vấn đề này bằng cách so sánh giá trị sản phẩm được sinh ra bởi các yếu tố sản
xuất trong việc sử dụng hay sắp xếp khác nhau. Lợi thế chính của một hệ thống giá
cả là nó dẫn đến việc sử dụng các nhân tố tại những nơi giá trị sản phẩm sinh ra là
lớn nhất và chi phí để tạo ra sản phẩm là nhỏ nhất so với các hệ thống khác (Tôi
không tính đến một hệ thống giá cũng xem xét vấn đề phân phối lại thu nhập).
Nhưng nếu các nhân tố tự nhiên thuận lợi đổ về các nơi, ở đó giá trị sẩn phẩm sinh
- ra là lớn nhất mà không cần đến việc sử dụng hệ thống giá và kết quả là không có
bất cứ sự bồi thường nào thì tôi sẽ coi đó là một sự đáng ngạc nhiên hơn là lý do
để mất tinh thần.
Việc xác định sản phẩm xã hội là việc làm lạ lùng nhưng nó không có nghĩa rằng
các kết luận về chính sách rút ra từ phân tích này nhất định sai. Tuy nhiên, đều có
giới hạn nguy hiểm trong một cách tiếp cận mà nó làm trệch hướng sự chú ý của ta
ra khỏi các vấn đề cơ bản và cũng có thể có chút ít nghi ngờ về trách nhiệm đối
với một số sai lầm trong học thuyết hiện hành. Niềm tin rằng các doanh nghiệp
gây ảnh hưởng có hại phải bị bắt bồi thường cho những người bị thiệt hại là điều
cần thiết (vấn đề này đã được thảo luận rất kỹ trong phần VIII cùng với ví dụ về
tia lửa do xe hỏa gây ra của Pigou) không còn nghi ngờ gì nữa chính là kết quả của
việc không so sánh tổng sản phẩm có thể đạt được với các phương án sắp xếp xã
hội.
Sai lầm tương tự cũng được tìm thấy trong đề xuất giải quyết vấn đề về ảnh hưởng
bất lợi bằng cách sử dụng thuế hoặc tiền thưởng. Pigou đã khá nhấn mạnh vào
cách giải quyết này mặc dù, như thường lệ, ông không có đủ chi tiết và khả năng
để chứng minh cho sự ủng hộ của mình. Các nhà kinh tế học hiện đại có xu hướng
nghĩ theo cách duy nhất về mặt thuế và theo cách rất chính xác. Thuế nên được
đánh bằng với thiệt hại mà doanh nghiệp gây ra và do đó nó nên thay đổi tùy theo
số lượng của ảnh hưởng bất lợi. Vì nó không đưa ra đề xuất về quá trình chi trả
thuế cho những người chịu ảnh hưởng, nên giải pháp này không giống với giải
pháp bắt doanh nghiệp trả tiền bồi thường cho những thiệt hại mà nó gây ra, tuy
nhiên các nhà kinh tế nói chung không chú ý đến điều này và có xu hướng xem xét
hai giải pháp này như nhau.Giả sử rằng một nhà máy thải khói được thành lập
trong một quận trước đây không có ô nhiễm do khói, và nó gây thiệt hại trị giá 100
đô la một năm. Giả sử rằng ở đây áp dụng biện pháp đánh thuế và chủ của nhà
máy phải nộp 100 đô la thuế một năm chừng nào mà nhà máy còn thải khỏi. Giả
- sử thêm rằng một thiết bị chống khói trị giá 90 đô la một năm sẵn có trên thị
trường. Trong trường hợp này việc lắp đặt thiết bị chống khói là việc nên làm.
Thiệt hại trị giá 100 đô la sẽ được tránh với chi phí là 90 đô la và do đó người chủ
nhà máy được lợi 10 đô la một năm. Nhưng luận điểm nêu trên chưa chắc đã được
anh ta chọn lựa. Giả sử rằng những người chịu thiệt hai do khói có thể tránh nó
bằng cách di dời đến nơi khác hoặc bằng các biện pháp phòng ngừa khác mà các
biện pháp này có thể tốn của họ một số tiền tương đương với sự mất đi trong thu
nhập là 40 đô la mỗi năm. Nếu như thế thì ta sẽ thu được giá trị sản xuất trị giá 50
đô la nếu nhà máy tiếp tục thải khói và những người sống trong quận đó chuyển
đến nơi khác hoặc có các biện pháp điều chỉnh thích hợp để tránh tác hại của khói.
Nếu chủ nhà máy thực hiện nộp thuế tương ứng với những thiệt hại họ gây ra, thì
rõ ràng cần phải lập một hệ thống thuế kép và những người dân sống trong quận
đó phải chi trả số tiền bằng với chi phí phát sinh mà chủ nhà máy phải gánh chịu
(hay người tiêu dùng sản phẩm) nhằm tránh thiệt hại. Trong những điều kiện như
vậy, người dân sẽ không sống ở khu vực đó nữa hoặc họ cũng sẽ không áp dụng
bất cứ một biện pháp nào nhằm phòng tránh thiệt hại khi chi phí của việc này thấp
hơn chi phí mà người sản xuất phải chịu nhằm là giảm nhẹ thiệt hại (tất nhiên mục
tiêu của người sản xuất là không phải chi trả quá nhiều để làm giảm thiệt hại như
giảm số thuế phải nộp). Một hệ thống thuế bị hạn chế trong phạm vi thuế đánh vào
người sản xuất cho những thiệt hại họ gây ra sẽ có xu hướng dẫn tới việc phải
gánh chịu chi phí cao không chính đáng nhằm ngăn ngừa thiệt hại. Tất nhiên điều
này có thể tránh được nếu ta có thể chỉ dựa trên thuế, không dựa vào thiệt hại gây
ra mà dựa vào sự sụt giảm trong giá trị sản xuất (theo nghĩa đúng đắn nhất của nó)
do khói thải.. Nhưng để làm được như vậy đòi hỏi một hiểu biết chi tiết về sở thích
của từng cá nhân và tôi không thể hình dung nổi các dữ liệu cần thiết cho một hệ
thống thuế như thế sẽ được thu thập như thế nào. Thật vậy, đề xuất cách giải quyết
vấn đề ô nhiễm do khói và các vấn đề tương tự như vậy bằng cách sử dụng thuế
làm xuất hiện đầy rẫy những khó khăn như: vấn đề tính toán, sự khác nhau giữa
thiệt hại trung bình và thiệt hại biên, mối tương quan giữa thiệt hại phải chịu với
- sở hữu khác nhau... Nhưng việc nghiên cứu các vấn đề đó ở đây là không cần
thiết. Như thế là đủ cho mục đích chỉ ra việc đánh thuế sẽ không nhất thiết mang
lại các điều kiện tối ưu của tôi, thậm chí dù cho thuế có được điều chỉnh chính xác
đúng bằng với mức thiệt hại mà mỗi một luồng khói thêm gây ra cho tài sản của
những người sống ở vùng lân cận. Việc gia tăng số người dân hay gia tăng số sơ
sở hoạt động kinh doanh ở vùng lân cận với nhà máy thải khói sẽ làm tăng số
lượng thiệt hại do một số lượng khói nhất định thải ra. Do đó số thuế đánh vào nhà
máy sẽ tăng cùng với sự gia tăng số lượng người ở khu vực xung quanh. Điều này
sẽ làm giảm giá trị sản xuất của các yếu tố được nhà máy sử dụng, hoặc là vì sự
sụt giảm trong sản xuất do thuế do các yếu tố được sử dụng ở đâu đó theo cách ít
giá trị hơn, hoặc là vì các yếu tố được chuyển sang để sản xuất các phương tiện
nhằm làm giảm số lượng khói thải ra. Nhưng những người dân quyết định sống ở
khu vực xung quanh nhà máy không tính đến việc sụt giảm trong giá trị sản xuất
do sự có mặt của họ. Việc không tính đến chi phí đánh vào người khác này có thể
so sánh với hành động không xem xét đến việc khói thải ra sẽ gây tác động có hại
của người chủ nhà máy. Nếu không có thuế, có thể sẽ có rất nhiều khói được thải
ra và có ít người sống ở khu vực xung quanh nhà máy, nếu có thuế thì có thể số
lượng khói thải ra sẽ ít hơn và nhiều người sẽ sống ở khu vực xung quanh nhà
máy. Không có bất kỳ lý do nào để giả định rằng một trong những kết quả trên
nhất thiết là thích hợp.Tôi thấy không cần thiết phải dành nhiều giấy vở để thảo
luận về các lỗi tương tự có liên quan đến đề xuất rằng nhà máy thải khói cần, sử
dụng các quy định vùng, di chuyển ra khỏi vùng mà khói nhà máy gây ảnh hưởng
có hại. Khi thay đổi địa điểm thì kết quả là sẽ có sự sụt giảm trong sản xuất, rõ
ràng cần phải xem xét và tính toán nặng nhẹ cái hại khi nhà máy không di chuyển
vẫn ở trong vùng đó. Mục đích của quy định như vậy không phải để loại bỏ ô
nhiễm do khói thải mà là bảo đảm lượng thích hợp nhất ô nhiễm do khói, đó chính
là số lượng sẽ làm tối đa hóa giá trị sản xuất.
X. THAY ĐỔI CÁCH TIẾP CẬN
- Tôi tin tưởng rằng việc các nhà kinh tế không đi đến được các kết luận đúng về
cách thức giải quyết những ảnh hưởng bất lợi không phải đơn giản gán cho một
vài sơ suất khi phân tích mà điều này bắt nguồn từ những sai lầm cơ bản trong
cách tiếp cận hiện tại đối với vấn đề kinh tế học phúc lợi. Điều cần thiết ở đây là
phải thay đổi cách tiếp cận.
Phân tích trên phương diện sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội
tập trung sự chú ý vào các thiếu sót trong hệ thống và hướng tới việc nuôi dưỡng
niềm tin vào bất kỳ biện pháp nào có thể loại bỏ những thiếu sót đó. Nó làm trệch
hướng sự chú ý ra khỏi các sự thay đổi khác trong hệ thống mà rõ ràng là các thay
đổi này có liên quan đến các biện pháp đúng đắn. Trong các phần trước của bài
viết này, chúng ta đã thấy nhiều ví dụ về việc này. Nhưng không nhất thiết phải
tiếp cận vấn đề theo cách này. Các nhà kinh tế nghiên cứu các vấn đề của công ty
thường có thói quen sử dụng cách tiếp cận chi phí cơ hội và so sánh số thu nhận
được từ việc kết hợp các yếu tố nhất định với các sắp xếp kinh doanh khác. Việc
sử dụng cách tiếp cận tương tự khi giải quyết các câu hỏi về chính sách kinh tế và
so sánh tổng sản phẩm sinh ra bởi các phương án sắp xếp xã hội là cần thiết. Trong
bài viết này, phân tích được hạn chế, thông thường trong phần này của kinh tế học,
trong so sánh giá trị sản xuất, được thị trường lượng hóa. Tất nhiên, sự lựa chọn
giữa các cách sắp xếp xã hội khác nhau đối với giải pháp cho các vấn đề kinh tế
cần phải được thực hiện trên khía cạnh rộng hơn thế này và toàn bộ ảnh hưởng của
sự sắp xếp này lên tất cả các khía cạnh của cuộc sống cũng cần được xem xét. Như
Frank H. Knight thường nhấn mạnh, các vấn đề về kinh tế học phúc lợi cuối cùng
phải được hòa tan trong nghiên cứu về mỹ học và đạo đức.
Đặc điểm thứ hai của cách giải quyết thông thường về vấn đề được thảo luận trong
bài viết này là quá trình phân tích trong phạm vi so sánh giữa trạng thái tự do kinh
doanh và cái gọi là thế giới lý tưởng. Tiếp cận này rõ ràng dẫn đến sự lỏng lẻo
trong suy nghĩ vì bản chất của các phương án được so sánh không bao giờ rõ ràng
- cả. Trong trạng thái tự do kinh doanh, có một hệ thống tiền tệ, luật pháp hay chính
trị hay không ,và nếu có thì chúng là gì? Trong một thế giới lý tưởng, liệu có một
hệ thống tiền tệ, luật pháp, chính trị hay không? Và nếu có thì chúng sẽ là gì? Câu
trả lời cho tất cả những câu hỏi trên bị che phủ trong bí mật và mọi người có thể tự
do rút ra bất cứ kết luận nào mà mình muốn. Thực sự có rất ít phân tích được yêu
cầu chỉ ra một thế giới lý tưởng sẽ tốt hơn trạng thái tự do kinh doanh, trừ khi sự
xác định trạng thái tự do kinh doanh và thế giới lý tưởng xảy ra đồng thời. Nhưng
toàn bộ thảo luận này hoàn toàn không liên quan đến các câu hỏi về chính sách
kinh tế bởi rõ ràng là những gì chúng ta nghĩ về thế giới lý tưởng thì chúng ta đều
chưa phát hiện ra bằng cách nào để có được thế giới lý tưởng đó xuất phát từ nơi
chúng ta đang sống. Một cách tiếp cận tốt hơn dường như bắt đầu phân tích của
chúng ta bằng một tình huống gần giống với những gì thực sự tồn tại, để xem xét
ảnh hưởng của một thay đổi chính sách được đề xuất và cố gắng quyết định tình
huống mới sẽ xảy ra như thế nào, về tổng thể, thì nó sẽ tốt hơn hay tồi hơn tình
huống ban đầu. Tiếp cận theo hướng này thì các kết luận về chính sách sẽ có một
số liên quan với tình huống thực tế.
Lý do cuối cùng đối với việc không phát triển được một học thuyết đầy đủ nhằm
giải quyết các vấn đề về ảnh hưởng bất lợi bắt nguồn từ khái niệm sai lầm về một
yếu tố sản xuất. Yếu tố sản xuất đó thường được coi là là một thực thể vật chất mà
nhà doanh nghiệp có được và sử dụng (một mẫu đất, một tấn phân bón) thay vì
coi nó là quyền thực hiện hành động (vật chất) nhất định nào đó. Chúng ta có thể
gọi đó là người sở hữu đất và sử dụng nó như một yếu tố sản xuất nhưng cái mà
người chủ đất thực sự sở hữu là quyền thực hiện danh sách giới hạn các hoạt động.
Quyền của chủ đất không có giới hạn. Điều này thậm chí không phải lúc nào anh
ta cũng có thể di dời mảnh đất của mình đến chỗ khác, lấy ví dụ bằng cách khai
thác nó. Và mặc dù anh ta có thể đuổi một số người sử dụng đất
nguon tai.lieu . vn