Xem mẫu
- Vấn đề chi phí xã hội
The Problem of Social Cost
RONALD COASE
V. VẤN ĐỀ ĐƯỢC MINH HOẠ THEO CÁCH KHÁC
Ảnh hưởng bất lợi của những hoạt động buôn bán có thể giả đinh dưới nhiều dạng
khác nhau. Trường hợp lúc đầu ở Anh liên quan đến một toà nhà, chính tòa nhà
này làm cản trở luồng gió, gây trở ngại đến sự hoạt động của cối xay gió. Một
trường hợp gần đây là tòa nhà ở Florida, nó đổ bóng che hết nắng của một cái nhà
nhỏ ở dưới, bể bơi và khu tắm nắng của một khách sạn gần đó. Vấn đề gia súc đi
lạc và những thiệt hại mùa màng là đối tượng được xem xét kỹ trong hai phần đề
cập trước, mặc dù nó có vẻ một giống trường hợp đặc biệt, là thực tế nhưng một ví
dụ của vấn đề xuất hiện trong nhiều trường hợp khác nhau. Để làm rõ bản chất
luận cứ của tôi và chứng minh tính ứng dụng chung của nó, tôi đề nghị minh hoạ
vấn đề một lần nữa bằng cách tham khảo 4 trường hợp thực tế.
Đầu tiên chúng ta hãy xem xét lại trường hợp của Sturges v. Bridgman, trường
hợp mà tôi đã sử dụng để minh hoạ cho vấn đề chung này. Trong bài báo của tôi
về “Uỷ ban truyền thông liên bang". Trong trường hợp này, một người sản xuất
bánh kẹo (ở phố Wigmor) đã sử dụng hai cối giã và chày cho công việc kinh
doanh của anh ta (một cái sử dụng trong cùng một vị trí trong hơn 60 năm, và cái
kia hơn 26 năm). Một bác sĩ sau đó đến cư trú ở khu nhà lân cận (tại phố
Wimpole). Máy móc của người sản xuất bánh kẹo không gây ảnh hưởng đến ông
bác sĩ cho đến 8 năm sau kể từ khi ông bác sĩ đến sống ở khu bên cạnh, ông ta xây
một phòng tư vấn ở cuối vườn bên phải đối diện với bếp của người làm sản xuất
- bánh kẹo. Ông bác sĩ nhận thấy rằng tiếng ồn và rung do máy móc của người sản
xuất bánh kẹo khiến cho việc sử dụng phòng tư vấn mới xây của mình trở nên khó
khăn. “Cụ thể là...tiếng ồn khiến cho ông khó có thể nghe bệnh ở vùng ngực cho
bệnh nhân. Ông cũng nhận thấy không thể làm có hiệu quả bất kỳ một công việc
nào đòi hỏi phải suy nghĩ và tập trung.” Do đó người bác sĩ đã kiện nhằm bắt
người sản xuất bánh kẹo phải dừng việc sử dụng các máy móc gây tiếng ồn. Toà
án đã gặp một chút khó khăn khi cấp cho ông bác sĩ tờ huấn thị mà ông ta yêu cầu.
“Các trường hợp đặc biệt khó khăn có thể xuất hiện trong khi thực hiện chặt chẽ
nguyên tắc mà dựa vào đó ta có được phán quyết của tòa án, nhưng sự phủ nhận
nguyên tắc thậm chí sẽ dẫn đến những khó khăn riêng biệt hơn và cùng thời gian
đó sẽ tạo ra tác động bất lợi đối với việc mở rộng đất dùng cho mục đích cư trú.”
Quyết định của toà án phán quyết người bác sĩ có quyền ngăn cản không cho
người sản xuất bánh kẹo sử dụng máy móc. Nhưng tất nhiên, có thể thay đổi sự
sắp đặt này, đối đầu với quyết đinh của luật pháp bằng cách hai bên tiến hành thoả
thuận. Người bác sĩ sẵn lòng từ bỏ quyền lợi của mình và cho phép máy móc tiếp
tục vận hành nếu người sản xuất bánh kẹo trả cho anh ta tổng số tiền lớn hơn số
thu nhập bị tổn thất mà anh ta phải chịu để chuyển đến một chỗ khác đắt đỏ và
kém thuận lợi hơn hay giảm bớt hoạt động ở chỗ này hay, như khả năng được gợi
ý, xây tường ngăn cách làm giảm tiếng ồn và rung. Người sản xuất bánh kẹo sẽ
sẵn lòng làm việc này nếu số tiền anh ta phải trả cho người bác sĩ ít hơn so với sự
sụt giảm trong thu nhập anh ta phải chịu khi anh ta phải thay đổi phương thức sản
xuất ở khu vực này, từ bỏ sự hoạt động của anh ta hay chuyển việc buôn bán bánh
đến một số khu vực khác. Giải pháp của vấn đề phụ thuộc vào tính cần thiết liệu
tiếp tục sử dụng máy móc làm tăng thêm thu nhập của người sản xuất bánh kẹo
hay việc sử dụng máy móc đó làm thu nhập của người bác sĩ giảm đi. Nhưng bây
giờ, hãy xem xét trường hợp nếu người sản xuất bánh kẹo chiếm ưu thế trong tình
huống này. Người sản xuất bánh kẹo sẽ có quyền tiếp tục hoạt động với tiếng ồn
và rung của máy móc mà không phải trả bất cứ thứ gì cho người bác sĩ. Tình
- huống bây giờ đã đảo ngược lại là: người bác sĩ phải trả cho người làm bánh để
thuyết phục ông ta ngừng sử dụng máy móc. Nếu thu nhập của người bác sĩ giảm
nhiều hơn khi tiếp tục sử dụng máy móc so với số thu nhập tăng thêm của người
sản xuất bánh kẹo thì rõ ràng là người bác sĩ và người sản xuất bánh kẹo có thể
thoả thuận, người bác sĩ sẽ trả tiền cho người sản xuất bánh kẹo để anh ta ngừng
sử dụng máy móc. Có thể nói rằng, các tình huống mà người sản xuất bánh kẹo
không nhận được tiền để tiếp tục sử dụng máy móc và bồi thường thiệt hại gây ra
cho người bác sĩ (nếu bác sĩ có quyền ngăn cản việc sử dụng máy móc của người
sản xuất bánh kẹo) sẽ là tình huống được người bác sĩ quan tâm nhằm chi trả cho
người sản xuất bánh kẹo để thuyết phục ông ta ngừng sử dụng máy móc (nếu
người làm bánh có quyền vận hành máy móc). Các điều kiện cơ bản hoàn toàn
giống nhau trong trường hợp này bởi chúng có trong ví dụ về gia súc phá hoại mùa
màng. Với giao dịch thị trường không có chi phí, quyết định của toà án liên quan
đến trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại sẽ không ảnh hưởng đến sự phân phối tài
nguyên. Tất nhiên chính quan điểm của thẩm phán ảnh hưởng đến hoạt động của
hệ thống kinh tế theo một định hướng mong muốn. Bất kỳ quyết định nào khác sẽ
“tạo ra tác động bất lợi đối với việc mở rộng đất dùng cho mục đích cư trú”, luận
cứ được minh họa bằng cách phân tích ví dụ về một lò rèn hoạt động trên vùng
đồng hoang cằn cỗi mà sau này vùng đất đó được mở mang thành khu dân cư.
Quan điểm của thẩm phán cho rằng họ sẽ giải quyết vấn đề đất được sử dụng như
thế nào, nó sẽ chỉ đúng trong trường hợp chi phí thực hiện các giao dịch thị trường
cần thiết vượt quá lợi ích có thể đạt được bằng cách sắp xếp lại quyền lợi. Chỉ khi
giá trị của các điều kiện thuận lợi thêm vào đối với việc cư ngụ thu được lớn hơn
giá trị của những cái bánh hay đồ sắt mất đi thì việc bảo vệ các khu vực (phố
Wimpole Street hay vùng đồng hoang) sử dụng cho mục đích định cư hay sự dụng
chuyên nghiệp (bằng cách trao cho những người sử dụng phi công nghiệp quyền
ngăn chặn tiếng ồn, rung, khói, ... theo lệnh của toàn án) mới là điều được mong
muốn. Nhưng các thẩm phán cỏ vẻ như không nhận thức được điều này.
- Lý do mà tòa án đưa ra để quyết định quyền luật pháp thường xa lạ với nhà kinh tế
vì nhiều nhân tố mà căn cứ vào đó tòa án đưa ra phán quyết không liên quan gì
đến nhà kinh tế cả. Chính vì điều này mà các tình huống giống nhau theo quan
điểm của nhà kinh tế sẽ được xử lý khác với tòa án. Vấn đề kinh tế trong tất cả các
trường hợp ảnh hưởng có hại là làm sao để tối đa hóa giá trị sản xuất. Trong
trường hợp của Bass v. Gregory, không khí sạch được đưa đến một cái giếng
nhằm tạo điều kiện cho việc sản xuất bia nhưng khí độc hại thoát ra từ giếng làm
cho cuộc sống của những nhà tiếp giáp kém thoải mái. Vấn đề kinh tế được lựa
chọn ở đây là: chi phí sản xuất bia thấp và sự dễ chịu của các ngôi nhà xung quanh
giảm đi hay chi phí sản xuất bia cao và tăng sự dễ chịu. Để trả lời câu hỏi, “Học
thuyết được mất – lost grant” có vẻ phù hợp với sắc thái quan sát của thẩm phán.
Nhưng cần phải ghi nhớ rằng câu hỏi mà tòa án phải giải quyết ngay lập tức không
phải là câu hỏi ai phải làm gì mà là ai là người có quyền làm gì. Việc sửa đổi sự
phân định pháp luật ban đầu bởi các giao dịch thị trường luôn có thể xảy ra. Và tất
nhiên, những giao dịch thị trường như thế là không mất phí, sự sắp xếp lại quyền
đó luôn diễn ra nếu nó khiến cho giá trị sản xuất tăng lên.
VI. TÍNH TOÁN CHI PHÍ GIAO DỊCH THỊ TRƯỜNG
Luận điểm được bắt đầu từ điểm giả định ( trình bày cụ thể trong phần III, IV và
ẩn ý trong phần V) rằng không có chi phí liên quan trong khi thực hiện các giao
dịch thị trường. Tất nhiên đó là một giả định rất phi thực tế. Để thực hiện giao dịch
thị trường thì việc khám phá ai là người muốn giao dịch, thông báo với mọi người
về người muốn thực hiện giao dịch và các điều kiện giao dịch, thực hiện thương
lượng để dẫn tới thỏa thuận, soạn thảo hợp đồng, tiến hành kiểm tra cần thiết để
chắc chắn rằng các điều kiện của hợp đồng được tôn trọng ... là rất cần thiết. Các
hoạt động đó thường tốn rất nhiều chi phí, chi phí thích hợp ở bất kỳ tỷ lệ nào để
ngăn chặn nhiều giao dịch được thực hiện trên thế giới ở đó hệ thống giá cả vận
hành không có chi phí. Trong các phần đầu, khi giải quyết vấn đề sắp xếp lại
- quyền luật pháp thông qua thị trường, tôi đã lập luận rằng sự sắp xếp lại đó được
thực hiện bất kỳ khi nào thông qua thị trường nếu nó có thể dẫn đến sự gia tăng
trong giá trị sản xuất. Nhưng đó là giả định trong thị trường phi chi phí. Một khi
chi phí của việc thực hiện giao dịch thị trường được đưa vào xem xét thì rõ ràng
rằng sự sắp xếp quyền lợi như thế sẽ chỉ xảy ra khi sự gia tăng trong giá trị sản
xuất do có sự sắp xếp lại đó lớn hơn chi phí có liên quan để tạo ra nó. Trong
trường hợp khi giá trị sản xuất ít hơn thì việc trao lệnh của tòa án (hay nhận thức
rằng lệnh đó sẽ được trao) hay trách nhiệm phải chi trả thiệt hại có thể dẫn đến
hoạt động bị gián đoạn (hay có thể làm cản trở sự bắt đầu của hoạt động) mà điều
này sẽ xảy ra nếu giao dịch thị trường là phi chi phí. Trong những điều kiện này,
phân định ban đầu của quyền luật pháp có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
hệ thống kinh tế. Sự sắp xếp quyền có thể mang lại giá trị sản xuất lớn hơn bất kỳ
cái gì khác. Nhưng trừ khi sự sắp xếp quyền này được thiết lập bởi hệ thống luật
pháp, chi phí để đạt được kết quả tương tự bằng cách thay đổi và kết hợp quyền
thông qua thị trường có thể lớn đến mức nó là sự sắp xếp quyền lợi tối ưu, và giá
trị sản xuất lớn hơn mà nó mang lại có thể sẽ không bao giờ đạt được. Đoạn thể
hiện những xem xét kinh tế trong quá trình phân định ranh giới quyền lợi luật pháp
sẽ được thảo luận ở phần sau. Trong phần này, tôi sẽ lấy phân định ranh giới ban
đầu của quyền lợi và chi phí thực hiện giao dịch thị trường như đã định để phân
tích.
Rõ ràng rằng một hình thức thay thế trong tổ chức kinh tế có thể mang lại kết quả
tương tự tại chi phí ít hơn so với chi phí thực hiện bằng cách sử dụng thị trường,
nó sẽ làm cho giá trị của sản xuất tăng lên. Như tôi đã giải thích nhiều năm trước
đây, công ty thể hiện sự thay thế đó để tổ chức sản xuất thông qua giao dịch thị
trường. Trong phạm vi cá nhân công ty, thỏa thuận giữa các nhân tố hợ tác khác
nhau của sản xuất được loại bỏ và đối với giao dịch thị trường thì nó được thay thế
bằng một quyết định hành chính. Sau đó sự sắp xếp lại được sản xuất được thực
hiện mà không cần đến thỏa thuận giữa các chủ sở hữu của những nhân tố sản
- xuất. Một chủ đất, sở hữu một mảnh đất rộng có thể dành mảnh đấ của mình cho
những mục đích sử dụng khác nhau, tất nhiên anh ta có xem xét đến ảnh hưởng
những tác động qua lại của các hoạt động khác nhau lên thu nhập ròng của mảnh
đất và do đó sẽ dẫn đến những thỏa thuận không cần thiết giữa những người thực
hiện các hoạt động khác nhau đó. Những người chủ của một toà nhà lớn hay của
một vài bất động sản liền kề nhau ở một khu vực nhất định có thể hành động theo
cách tương tự như vậy. Trên thực tế, nếu sử dụng thuật ngữ trước đây của chúng ta
thì công ty sẽ không có được quyền luật pháp của tất cả các bên và việc sắp xếp lại
các hoạt động sẽ không tuân theo sự sắp xếp lại quyền lợi theo hợp đồng, nhưng
như kết quả của quyết định hành chính thì vấn đề là quyền lợi sẽ được sử dụng
như thế nào?
Tất nhiên, nó không tuân theo chi phí hành chính của việc tổ chức giao dịch thông
qua công ty, chi phí này rõ ràng là ít hơn chi phí giao dịch thị trường thay thế.
Nhưng khi việc soạn thảo hợp dồng là đăc biệt khó và cố gắng để thể hiện điều mà
các bên đồng ý hay không đồng ý (Ví dụ: số lượng, loại mùi hay tiếng ồn mà họ
có thể hay không tạo ra) sẽ đòi hỏi một số lượng tài liệu dài, lớn và nếu có thể có
được những tài liệu đó thì lại cần phải soạn thảo một hợp đồng dài hạn. Chẳng có
gì là ngạc nhiên nếu sự xuất hiện một công ty hay việc mở rộng hoạt động của một
công ty đã được thành lập không phải là giải pháp được sử dụng trong nhiều
trường hợp để giải quyết các vấn đề về ảnh hưởng bất lợi. Giải pháp này sẽ được
sử dụng bất kỳ khi nào chi phí hành chính của công ty ít hơn chi phí giao dịch thị
trường mà nó thay thế và lợi ích thu được từ việc sắp xếp lại hoạt động lớn hơn chi
phí của công ty bỏ ra để tổ chức chúng. Tôi không cần phải nghiên cứu quá chi tíêt
đặc điểm của giải pháp này vì tôi vừa mới giải thích những vấn đề liên quan ở bài
báo trước của mình.
Nhưng công ty không phải là câu trả lời có thể duy nhất cho vấn đề này. Chi phí
hành chính cho việc tổ chức giao dịch trong công ty cũng có thể cao và đặc biệt
- cao như vậy khi các hoạt động khác nhau được đưa ra kiểm soát trong một tổ chức
đơn lẻ. Trong trường hợp chuẩn về thiệt hại do khói gây ra, khói có thể làm ảnh
hưởng đến rất nhiều người và liên quan đến rất nhiều hoạt động khác nhau, do đó
chi phí hành chính có thể cao đến nỗi bất kỳ cố gắng nhằm giải quyết vấn đề trong
phạm vi một công ty đơn lẻ là điều không thể. Một giải pháp lựa chọn khác là quy
định trực tiếp của chính phủ. Thay vì thiết lập một hệ thống luật pháp về quyền lợi
mà nó có thể bị các giao dịch trên thị trường sửa đổi, chính phủ có thể áp dụng các
quy định quy định cái mà người dân được phép và không được phép làm và những
quy định này phải được chấp hành. Do đó chính phủ (bằng đạo luật hay có thể
thông qua một cơ quan hành chính) để giải quyết vấn đề về tác hại của khói có thể
ban hành sắc lệnh về phương thức sản xuất nhất định nào đó được sử dụng hay
không được sử dụng (ví dụ lắp đặt các thiết bị chống khói hay không cho phép đốt
than hay dầu) hoặc có thể hạn chế một số loại hình kinh doanh nào đó ở một số
vùng nhất định (các quy định vùng).
Chính phủ, trên khía cạnh nào đó, là một siêu công ty (một loại công ty rất đặc
biệt) bởi nó có khả năng gây ảnh hưởng đến việc sử dụng các nhân tố sản xuất
bằng các quyết định hành chính. Nhưng một công ty bình thường là đối tượng
cheeks in các hoạt động của nó do có sự cạnh tranh của các công ty khác, mà các
công ty này có thể thực hiện các hoạt động tương tự với chi phí thấp hơn và cũng
bởi vì luôn luôn có sự thay đổi trong giao dịch thị trường đối lập với tổ chức trong
phạm vi công ty nếu chi phí hành chính trở nên quá cao. Chính phủ có thể, nếu nó
muốn, ngăn cản hoàn toàn thị trường điều mà một công ty không thể làm được.
Công ty phải thực hiện thoả thuận thị trường với chủ sở hữu các nhân tố sản xuất
mà nó sử dụng. Vì chính phủ có thể cưỡng bách hay tịch thu tài sản nên nó có thể
quy định các nhân tố sản xuất nào được sử dụng theo những cách riêng biệt nào.
Các công cụ quyền lực như vậy giúp tránh được nhiều vấn đề rắc rối (cho những
người làm hoạt động tổ chức). Hơn nữa, chính phủ có thể tùy ý sử dụng lực lượng
- cảnh sát và các cơ quan thực thi pháp luật khác để đảm bảo các quy định được
thực thi nghiêm túc.
Rõ ràng quyền lực của chính phủ có thể khiến nó có khả năng làm việc gì đó với
chi phí thấp hơn một tổ chức tư nhân (hay với bất kỳ chi phí nào không cần quyền
lực đặc biệt của chính phủ). Nhưng bộ máy hành chính của chính phủ bản thân nó
không phải là không có chi phí. Trên thực tế, vào một thời điểm đặc biệt nào đó bộ
máy hành chính của chính phủ có thể trở nên đặc biệt tốn phí. Hơn nữa, không có
lý do gì để cho rằng quy định khoanh vùng và hạn chế, được ban hành bởi sai lầm
của chính quyền là đối tượng của các sức ép chính trị, hoạt động mà không có bất
kỳ sự kiểm tra cạnh tranh nào, sẽ luôn là những quy định cần thiết, có tác dụng
làm tăng hiệu quả vận hành của nền kinh tế. Hơn nữa, những quy định chung như
vậy phải áp dụng cho các trường hợp rất đa dạng, nhiều trường hợp có hiệu lực
nhưng trong nhiều trường hợp thì rõ ràng là không thích hợp. Từ những xem xét
này có thể thấy những quy định trực tiếp của chính phủ sẽ không nhất thiết tạo ra
các kết quả tốt hơn việc để vấn đề cho thị trường hay công ty tự giải quyết. Nhưng
tương tự như vậy không thể phủ nhận, trong một số trường hợp , quy định hành
chính của chính phủ có mang lại sự cải thiện hiệu quả kinh tế. Đó chính là trường
hợp đặc biệt khi, ví dụ như trường hợp tác hại của khói, có một số lượng lớn người
liên quan và do đó chi phí giải quyết vấn đề thông qua thị trường hay công ty có
thể sẽ rất cao.
Tất nhiên vẫn có một sự lựa chọn khác cho vấn đề này, đó là chẳng làm gì để giải
quyết vấn đề cả. Giả sử rằng chi phí liên quan để giải quyết vấn đề, bằng những
quy định đưa ra bởi bộ máy hành chính của chính phủ, thường là rất cao (đặc biệt
nếu chi phí đó bao gồm tất cả các kết quả của từng việc mà chính phủ phải can
thiệp vào), không còn nghi ngờ gì nữa trường hợp mà lợi ích thu được từ quy định
hành động khiến cho các tác động bất lợi tăng sẽ tốn phí ít hơn phí phải bỏ ra khi
có sự can thiệp của quy định của chính phủ.
- Thảo luận về vấn đề ảnh hưởng bất lợi trong phần này (khi chi phí giao dịch thị
trường được đưa vào tính toán) là rất không thích hợp. Nhưng ít nhất nó cũng làm
sáng tỏ vấn đề về một sự lựa chọn sắp xếp xã hội hợp lý nhằm giải quyết những
ảnh hưởng bất lợi. Tất cả các giải pháp đều cần có chi phí và không có một lý do
nào để cho rằng quy định của chính phủ được xem là cách giải quyết vấn đề đơn
giản vì thị trường hay công ty không thể giải quyết tốt vấn đề. Trên thực tế, ta chỉ
có thể có quan điểm về chính sách làm hài lòng mọi người khi bình tĩnh nghiên
cứu xem thị trường, công ty và chính phủ sẽ giải quyết vấn đề ảnh hưởng bất lợi
này như thế nào. Các nhà kinh tế cần nghiên cứu công việc của người môi giới khi
liên kết các bên lại với nhau, kết quả của các hiệp định giới hạn, vấn đề của công
ty phát triển kinh doanh bất động sản quy mô lớn, hoạt động của chính phủ về chia
vùng và quy định về các hoạt động khác. Tôi tin tưởng rằng các nhà kinh tế và
những người hoạch định chính sách nói chung đều có xu hướng đánh giá quá cao
những lợi ích thu được từ các quy định của chính phủ. Nhưng sự tin tưởng này,
thậm chí nếu có được chứng minh, cũng chỉ nhằm gợi ý rằng quy định của chính
phủ nên được giảm bớt. Nó không nói với chúng ta nơi nào đường giới hạn được
vẽ nên nhưng dường như với tôi điều này đến từ nghiên cứu cụ thể về những kết
quả thực sự của việc giải quyết vấn đề theo hướng khác. Nhưng thật không may
mắn nếu nghiên cứu này của tôi được thực hiện với sự hỗ trợ của phân tích kinh tế
sai lầm. Mục đích của bài viết này là để chỉ ra cách tiếp cận kinh tế nên làm đối
với vấn đề này.
nguon tai.lieu . vn