Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC ========***======== BÀI TẬP NGHIÊN CỨU NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM Tên đề tài: TÌM HIỂU LỐI VIẾT CÂU CỦA HỌC SINH LỚP 4 ĐỀ XUẤT CÁCH CHỮA MỘT SỐ LỖI VIẾT CÂU Người hướng dẫn Dương Thu Hương Giảng viên khoa GD tiểu học Người thực hiện : Trần Thị Thanh Hòa Lớp :K Khoa : Giáo dục tiểu học Hà Nội năm 2008
  2. MỤC LỤC Phần mở đầu .............................................................................................. 1 I. Lý do chọn đề tài................................................................................. 4 II. Mục đích yêu cầu............................................................................... 5 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................... 6 IV. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................. 6 Phần Nội dung............................................Error! Bookmark not defined. Chương 1: Một số vấn đề về câu ............................................................ 7 I. Các định nghĩa về câu. ........................................................................ 7 II. Vấn đề phân loại câu dựa vào cấu tạo. ............................................... 9 III. vấn đề câu trong hoạt động giao tiếp................................................. 9 Chương II: Tìm hiểu lỗi viết câu của học sinh lớp 4. ............................ 13 A. Một số vấn đề về câu sai và nguyên tắc chữa câu sai. ...................... 13 I. Câu sai - câu mơ hồ....................................................................... 13 II. Nguyên tắc chữa câu sai............................................................... 14 III. Các bước phát hiện, phân tích và chữa sai câu. ........................... 15 B. Đề xuất một số dạng câu sai, giúp học sinh nhận biết và sửa câu sai.16 I. Lỗi trong câu ................................................................................. 16 1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp................................................................ 16 2. Lỗi về nghĩa.................................................................................. 21 3. Lỗi về dấu câu. ............................................................................. 25 II. Lỗi ngoài câu ................................................................................... 26 1. Lỗi câu lạc chủ đề......................................................................... 27 2
  3. 2. Lỗi câu mâu thuẫn với nhau về ý với câu hữu quan. ..................... 27 3. Lỗi dùng phương tiện liên kết sai.................................................. 28 4. Lỗi câu trùng lặp về ý (từ) với câu hữu quan. ............................... 28 Kết quả..................................................................................................... 29 Phiếu bài tập............................................................................................. 31 Đáp án...................................................................................................... 32 Kết luận.................................................................................................... 34 3
  4. Phần mở đầu I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Mục tiêu giáo dục của nhà trường Việt Nam. Là đào tạo những con người vừa có phẩm chất đạo đức tốt, vừa giỏi về chuyên môn. Chính vì vậy mà việc dạy và học là vấn đề vô cùng quan trọng của nền giáo dục nước ta. Trong các môn học, môn Tiếng Việt là một môn học bắt buộc chiếm dung lượng thời gian khá lớn trong chương trình dạy học ở nhà trường Phổ Thông. Bởi Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp chính thức của nước ta trong các lĩnh vực hoạt động giao tiếp về chính trị, kinh tế, khoa học... Trường Phổ thông là nơi đầu tiên đào tạo giáo dục những công dân của nước Việt Nam mới nên có vai trò to lớn trong việc giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc. Vì vậy, trong nhà trường Phổ thông, môn Tiếng Việt đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng trong việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cũng như năng lực tư duy cho học sinh. Người làm công tác giảng dạy bộ môn này có nhiệm vụ giúp học sinh dần có ý thức, có trình độ, có kỹ năng nói và viết đúng hướng, hướng tới nói và viết hay Tiếng Việt. 2. Trong ba cấp phổ thông, cấp tiểu học là cấp học mang tính chất nền tảng. Môn Tiếng Việt dạy ở cấp này nhằm mục tiêu bước đầu dạy cho học sinh những tri thức sơ giản cần thiết và trên cơ sở đó rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ: Nghe, nói, đọc, viết nhằm giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong giao tiếp và suy nghĩ. Dạy học Tiếng Việt còn nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và các năng lực hoạt động của học sinh, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và phần nào cuộc sống xung quanh. Từ đó, các em vận dụng kiến thức tạo lập văn bản. Để viết được một bài văn, học sinh phải sử dụng năng lực ngôn ngữ và năng lực tư duy của mình. Năng lực đó có thể hiện trước hết ở việc các em 4
  5. diễn đạt suy nghĩ của mình bằng các câu, hay liên kết các câu đó để bày tỏ những điều mà mình suy nghĩ. 3. Về sách giáo khoa, chúng tôi nhận thấy các cách hiểu về câu được đưa ra ở cấp lớp tiểu học tuy đã nói được một số điểm cơ bản của câu nhưng vẫn chưa làm cho học sinh hiểu được đầy đủ những tiêu chuẩn cần có của một câu. Hơn nữa, sách giáo khoa chỉ hướng tới việc rèn luyện kỹ năng viết câu cho học sinh tiểu học bằng một con đường là tạo những cái đúng mà chưa chú ý tới việc hướng dẫn các em phát hiện và sửa lỗi trong câu. Vì vậy, việc dạy câu cho học sinh tiểu học chưa đạt kết quả như mong muối. Số học sinh viết các câu sai còn rất nhiều. Từ thực tiễn của việc dạy và học Tiếng Việt ở bậc tiểu học, từ mục tiêu của việc dạy đối với cấp học này, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi đã có những suy nghĩ trăn trở làm sao để khắc phục tình trạng mắc lỗi câu trong bài làm của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, 3. Vì vậy tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Tìm hiểu lỗi viết câu của học sinh lớp 2, 3 - Đề xuất cách chữa một số lỗi viết câu”. Với đề tài này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình cùng giáo viên và học sinh khắc phục lỗi viết câu sai, từ đó giúp học sinh rèn được năng lực viết câu văn đúng và tiến tới viết hay. II. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU 1. Thực hiện đề tài này là một việc làm không đơn giản bởi thực tế viết câu của học sinh tiểu học là một hiện tượng vô cùng đa dạng. Việc thống kê, phân loại cho đầy đủ các dạng lỗi viết câu của học sinh, sau đó đề xuất cách chữa cho phù hợp cho mỗi loại lỗi là một việc đòi hỏi rất nhiều thhời gian và công sức. Do đó, mục đích nghiên cứu trước tiên của tôi chỉ là nêu lên một số ý kiến chủ quan của mình để bạn bè đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến từ đó hoàn thiện hơn về phương pháp giảng dạy cho bản thân. 5
  6. 2. Từ việc chỉ ra những dạng câu sai và cách sửa chữa phổ biến đối với từng loại lỗi, đề tài sẽ góp phần nhỏ bé giúp cho giáo viên trong quá trình giảng dạy và chấm chữa bài, có cách nhìn khoa học về các lỗi và gợi ý cho học sinh chữa lỗi dễ dàng hơn, từ đó rèn luyện năng lực cho các em viết câu đúng, tiến tới câu hay. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 1. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Kim Liên - quận Đống Đa - Thành phố Hà Nội. 2. Phạm vi nghiên cứu. Chương trình sách giáo khoa lớp 4 mới môn Tiếng Việt. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành các phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. Để nhận biết, phân loại được các câu sai trong những bài làm của học sinh, tôi nghĩ phải dựa trên cơ sở lý thuyết. Vì thế tôi đã phải tìm tòi, tham khảo rất nhiều tài liệu về câu và các loại lỗi câu. Từ các nghiên cứu về câu của các tác giả để định ra căn cứ xác định câu sai , câu đúng và lấy câu đúng để làm đích chữa câu sai. 2. Phương pháp khảo sát thực tế. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình tìm hiểu các câu sai trong bài làm của học sinh tiểu học. Tôi đã tiến hành khảo sát từng bài của học sinh, từ đó tìm ra các câu sai để phân loại. Đồng thời cũng tham khảo ý kiến trực tiếp của một số đồng nghiệp có kinh nghiệm về vấn đề lỗi của câu - cách chữa. 3. Phương pháp thực nghiệm. 6
  7. Phương pháp này để kiểm tra khả năng thực thi của các biện pháp trên. Cụ thể là phát bài kiểm tra cho học sinh làm trước và sau khi giảng lý thuyết. Sau khi đánh giá, cho điểm thống kê lại tôi sẽ có đầy đủ cứ liệu để nhận xét về hiệu quả của biện pháp sửa lỗi theo đề xuất trên. Phần nội dung CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÂU I. CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ CÂU. Từ trước đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về câu. Điều đó cho chúng ta thấy, câu là một trong những đối tượng được ngữ pháp học đặc biệt quan tâm. Trong số những định nghĩa đã được công bố, có thể kể đến những cách định nghĩa cơ bản sau: 1. Định nghĩa học phái ngữ pháp Alexandra (khoảng thế kỷ 2 - 3 trước Công nguyên): Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn (Dẫn theo Diệp Quang Ban - Ngữ pháp Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục 1998). Định nghĩa này đơn giản, dễ hiểu và khá hoàn chỉnh. Nó đã gián tiếp nêu lên các yếu tố cần thiết cho việc xác định câu. Đó là mặt hình thức cấu tạo, mặt nội dung và chức năng của câu. 2. Định nghĩa của L.B Lumphin (Nhà ngôn ngữ học Mỹ) cho rằng: Mỗi câu là một hình thái ngôn ngữ độc lập, không bị bao hàm vào bất cứ một hình thái ngôn ngữ phức tạp hơn bởi một kiến trúc ngữ pháp này hay một kiến trúc ngữ pháp nọ. Ở đây tác giả không hề chú ý về nội dung và chức năng của câu mà chỉ chú ý tới dấu hiệu hình thức. Tác giả chỉ xét câu riêng lẻ, độc lập mà không hề đặt câu trong văn bản, 7
  8. 3. Định nghĩa của V.V. Vinogradov - 1954: Câu là đơn vị hoàn chỉnh của lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật của ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng nhất để tạo câu biểu hiện và truyền đạt tư tưởng. Trong câu không chỉ có sự truyền đạt về hiện thực mà còn có cả mối quan hệ của người nói với hiện thực. 4. Định nghĩa của Diệp Quang Ban - Ngữ pháp Tiếng Việt tập II - Nhà xuất bản Giáo dục 1997: Câu là đơn vị nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp độc lập và có ngữ điệu kết thúc, mang ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thấy rõ sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện truyền đạt tư tưởng tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất của ngôn ngữ. Định nghĩa này đã bao hàm đầy đủ cả dấu hiệu hình thức, đặc điểm nội dung và đặc điểm chức năng của câu. Với định nghĩa này, chúng ta thấy câu có thể xem xét qua hai mặt: Một mặt câu do các đơn vị và các kết cấu ngữ pháp tạo thành thuộc hệ thống kết cấu của ngôn ngữ. Mặt khác, câu thực hiện chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. 5. Định nghĩa của Nguyễn Tài Cẩn - Ngữ pháp Tiếng Việt - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1975: Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mang một thông báo tương đối hoàn chỉnh. Định nghĩa này có ưu điểm ngắn gọn, lại nêu được đầy đủ những quan điểm cơ bản của câu: Nhỏ nhất và mang một thông báo tương đối hoàn chỉnh. 6. Dịnh nghĩa về câu (Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 chương trình 165 tuần): Câu do từ hoặc ngữ tạo thành và diễn đạt được một ý trọn vẹn. Định nghĩa này đơn giản dễ hiểu đối với học sinh nhưng theo tôi định nghĩa này lại chưa nêu được đầy đủ các đặc điểm của câu. Bởi vì nhiều câu cạnh nhau thể hiện cùng một chủ đề hay một tiểu chủ đề (văn bản hay đoạn văn) cũng diễn đạt một ý trọn vẹn. Theo tôi bên cạnh đặc 8
  9. điểm nội dung là “Diễn đạt một ý trọn vẹn”, ta còn phải chỉ ra đặc điểm về dung lượng là “nhỏ nhất” thì học sinh mới hiểu một cách đầy đủ các đặc điểm của câu. II. VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI CÂU DỰA VÀO CẤU TẠO. Việc phân loại theo cấu tạo ngữ pháp có thể dựa trên các cấu trúc cơ bản khác nhau. - Lấy cấu trúc nghĩa - ngữ pháp (cấu trúc vị từ - tham thể) làm cấu trúc cơ sở. - Lấy cấu trúc thông báo (cấu trúc chủ đề - thuyết) làm cấu trúc cơ sở. - Lấy cấu trúc chủ - vị làm cơ sở phân loại. Việc phân loại theo cấu tạo ở mỗi cấp học phổ thông có sự khác nhau nhất định về tiêu chí phân loại. Trong chương trình tiểu học, tiêu chí để phân loại câu theo cấu trúc tạo là cụm chủ vị nòng cốt (cụm C - V không bị bao hàm). Dựa vào tiêu chí này, Sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học chia câu thành hai loại cơ bản: Câu đơn (một kết cấu C - V) và câu ghép (hai kết cấu C - V trở lên). Kết quả phân loại câu theo cấu tạo ở cấp tiểu học thể trình bày bằng sơ đồ (xem sơ đồ trang bên). III. VẤN ĐỀ CÂU TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP. - Trong hệ thống ngôn ngữ, câu tồn tại như những mô hình khái quát trong đầu óc của người bản ngữ. Nhưng để thực hiện được chức năng là công cụ của tư duy và là phương tiện giao tiếp thì các mô hình câu phải được hiện thực hóa một cách cụ thể trong lời nói. Hơn nữa câu chưa phải là đơn vị tột cùng mà trên câu lại có cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn, bời vậy chúng ta thấy: - Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, không mấy khi người ta chỉ dùng một câu và cũng không dùng các câu riêng lẻ bên cạnh nhau (câu 9
  10. không liên kết) mà trong đại đa số các trường hợp phải dùng một tập hợp nhiều câu có liên kết với nhau để diễn đạt một ý tưởng nào đó. - Câu chỉ thực sự có đời sống, có hoạt động khi nằm trong lời nói, trong những sản phẩm ngôn ngữ hình thành giao tiếp. Có những câu để rời thì được coi là một câu đúng nhưng đưa vào văn bản cụ thể lại không chấp nhận được, ngược lại có những câu đứng riêng lẻ có thể bị coi là câu sai hoặc không hiểu được nhưng chúng lại tồn tại một cách vững vàng bên cạnh những câu khác trong một văn bản cụ thể. 10
  11. CHÚNG TA CÓ THỂ TÓM LƯỢC SỰ PHÂN LOẠI CỦA CÂU THEO ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO NHƯ SAU: Câu Câu đơn Dựa vào số lượng nòng Câu ghép cốt Dựa vào việc có đầy đủ Dựa vào sự có hay Dựa vào quan hệ giữa hai bộ phận chính hay không có từ chỉ quan hệ các không, hoặc dựa vào nòng cốt câu việc có xác định được Câu ghép có Câu ghép Câu ghép Câu ghép đẳng từ chỉ quan hệ không có từ chính phụ lập ỉ ệ Câu Câu Câu Câu Câu Có Chỉ Chỉ Có Chỉ ý Chỉ ghép ghép nguyê điều đơn đơn đơn qua nhượn mục có từ có dấu n kiện bình rút đặc n hệ câu g bộ đích gọn chỉ cặp nhân kết thườ biệt từ ng quan từ chỉ kết quả hệ quan quả 11
  12. - Mối quan hệ giữa câu và cấu tạo ngôn gnữ lớn hơn câu đòi hỏi việc nghiên cứu ngữ pháp phải chú ý tới các lĩnh vực trên câu. Như vậy xem xét câu chúng ta cần phải xem xét nó trong hoạt động và trong mối quan hệ với những đơn vị ngôn ngữ lớn hơn chứ không chỉ nghiên cứu cấu trong thế cô lập. Bởi vì câu đi vào trong lời nói tuy vẫn giữ được bản chất của câu nhưng nó còn mang một số đặc trưng về cả ý và lời mà chúng ta chỉ thấy khi đặt nó trong mối quan hệ câu khác trong văn bản. Ý của câu Mỗi câu là một đơn vị nhỏ để diễn đạt một ý trong lời nói, đồng thời nó cũng phải truyền đạt một ý nhất định trong hệ thống nói chugn của chỉnh thể lời nói. Nói một cách cụ thể: Muốn xây dựng ý của một câu ta cần đặt nó vào một chỉnh thể chung và xem xét trong mối quan hệ với các câu khác. Trong khi nói và viết, ngoài việc dùng câu để thông báo một hiện thực khách quan người ta còn lồng vào trong câu sự đánh giá, thái độ, tình cảm. Cho nên trong một câu cụ thể phải thống nhất, phản ánh khuynh hướng của toàn bộ lời nói, toàn bộ văn cảnh, ý gắn liền với lời, muốn nêu được ý phải chọn lời thích hợp. Lời của câu. Chọn lời tức là chọn mô hình cần thiết để làm sao ý nào lời đó. Lời còn phụ thuộc vào vai trò, vị trí câu cần trong văn bản. Mỗi câu là một kết cấu hoàn chỉnh, mỗi câu có một vai trò nhất định trong việc thể hiện tính hoàn chỉnh của nó. 12
  13. CHƯƠNG II: TÌM HIỂU LỖI VIẾT CÂU CỦA HỌC SINH LỚP 4. A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÂU SAI VÀ NGUYÊN TẮC CHỮA CÂU SAI. I. Câu sai - câu mơ hồ Để phát hiện các lỗi câu, trước hết chúng ta phải hiểu câu sai là như thế nào, câu mơ hồ là như thế nào? 1. Câu sai: Là những câu dùng không đúng với những chuẩn mực đã quy ước về câu. Sự quy ước này có thể được chế định hóa như các quy định về chính tả, nhưng cũng có thể chỉ là sự ngầm quy ước của xã hội. Ví dụ: Ở một góc sân trường, cây bằng lăng. Câu trên là câu sai vì thiếu bộ phận vị ngữ trong nòng cốt câu. Câu đó thiếu một phần thông báo: Người ta không hiểu “Cây bằng lăng” như thế nào.... Câu sai có thể là: - Câu sai cấu tạo, tức là cấu tạo không đúng chuẩn (thừa, thiếu thành phần....). - Câu sai ý nghĩa (không lôgic, không có tin mới....) - Câu không có sự tương hợp giữa ý thức và hình thức. - Câu không phù hợp với các câu khác trong văn bản. 2. Câu mơ hồ. Trong khi giao tiếp, một yêu cầu rất quan trọng là nói và viết phải rõ ràng, chính xác. Nếu không chú ý sẽ tạo nên câu sai, câu tối nghĩa, câu mâu thuẫn hoặc những câu hiểu thế nào cũng được. Loại câu này được gọi là câu mơ hồ. Câu mơ hồ là một câu trong khi có một biểu hiện duy nhất ở cấp độ ngôn ngữ này lại có ít nhất hai cách biểu hiện ở cấp độ ngôn ngữ khác. 13
  14. Ví dụ: Tôi thích phỏng vấn Với câu trên, người đọc (người nghe) sẽ hiểu theo hai cách. - Người nói thích được người khác phỏng vấn mình. - Người nói muốn mình là chủ thể để đi phỏng vấn người khác. Điều này làm cho người nghe cảm thấy rất mơ hồ, khó xác định định nghĩa một cách chính xác. II. Nguyên tắc chữa câu sai. Khi chữa câu sai cho học sinh thì phải đảm bảo những yêu cầu sau: 1. Câu mới phải đúng về cấu tạo ngữ pháp, hợp lý về logic và chưa thông tin mới. Ví dụ: Mua một con gà về để nuôi Câu trên là câu sai vì thiếu chủ ngữ. Cách chữa: Thêm chủ ngữ cho câu: Mẹ mua một con gà để nuôi. Ví dụ 2: Những cành cây khẳng khiu và hiên ngang chống trả từng đợt gió lạnh thấu xương. Câu trên sai do sử dụng quan hệ từ sai “và” dẫn tới sai nghĩa. Cách chữa tốt nhất là thay quan hệ từ “vẫn” cho phù hợp: Những cành cây khẳng khiu vẫn hiên ngang chống trả từng đợt gió lạnh thấu xương. 2. Đảm bảo mối quan hệ giữa các câu trong văn bản. Câu là một đơn vị thông báo nhỏ nhất của ngôn ngữ cho nên nó còn bị chi phối bởi hai quan hệ: Quan hệ hướng nội, quan hệ hướng ngoại. Tức là một mặt câu mới chữa phải đảm bảo các yêu cầu mà một câu đúng cần có (như đã nêu ở phần 1). Mặt khác, nó phải liên kết với các câu hữu quan để thể hiện một chủ đề chung. 14
  15. Trong bài văn tả con gà trống, một học sinh lớp tôi đã viết câu như sau: “Em mong muốn con gà mái sẽ là người bạn yêu quý của mọi người vì gà đã làm được rất nhiều điều có ích giúp cho mọi người”. Cách chữa: Câu trên cần chữa “gà mái” thành “gà trống” để phù hợp logic và liên kết chặt chẽ với các câu khác trong việc thể hiện chủ đề tả con gà trống. 3. Khi chữa cố gắng giữ nguyên ý của người viết. Để hiểu được ý định của người viết cần phân tích câu sai trong quá trình tạo câu. Trước tiên chúng ta phải chỉ ra sơ đồ cấu trúc của câu sai. Sau đó, chúng ta tìm các sơ đồ cấu trúc để diễn đạt lại nội dung, ý định của người viết. Đối chiếu sơ đồ cấu trúc câu sai với các sơ đồ cấu trúc sẽ chỉ ra chỗ lệch chuẩn của câu sai và từ đó chỉ ra cách sửa phù hợp. Câu mới chữa có cấu trúc và ý nghĩa gần với câu cũ là tốt nhất. Ví dụ: Trong nhà em nuôi con gà trống lông tơ rất đẹp. Câu trên có mô hình: TN, (TN) - VN Cách chữa: Biến trạng ngữ thành vị ngữ bằng cách bỏ “trong”. Nhà em nuôi một con gà trống lông tơ rất đẹp. Câu mới chữa vẫn giữ nguyên ý của người viết và có cách cấu tạo gần với câu cũ. III. Các bước phát hiện, phân tích và chữa sai câu. Bước 1: Phát hiện và nhận diện lỗi. + Xác định chức năng của câu trong mối quan hệ với văn bản, ngữ cảnh và xét câu trong trạng thái độc lập. + Tìm các sơ đồ cấu trúc tương ứng để diễn đạt ý định của người viết. + Đối chiếu câu sai để phát hiện được loại sai. 15
  16. Bước 2: Phân tích nguyên nhân của câu sai. + Phân tích các biểu hiện của câu sai để từ đó phát hiện lỗi sai. + Phân tích nguyên nhân dẫn đến trường hợp sai. Bước 3: Sửa câu sai và thay câu sai bằng câu đúng. + Đối chiếu với yêu cầu đã xác định ở bước 1 để xây dựng câu đúng. + Lựa chọn câu đúng để thay thế kiểm tra lại. B. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ DẠNG CÂU SAI, GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT VÀ SỬA CÂU SAI. Trong đề tài này, tôi chỉ phân tích một số lỗi có tần số xuất hiện cao trong bài làm của học sinh và bước đầu đề xuất cách chữa các loại lỗi đó. I. Lỗi trong câu Lỗi trong câu là các lỗi xét theo quan hệ hướng nội bao gồm các lỗi về cấu tạo ngữ pháp, lỗi về nghĩa, lỗi về dấu câu. 1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu là những lỗi về cấu trúc câu như thiếu hoặc thừa thành phần câu, không phân biệt các thành phần câu hoặc sắp xếp sai trật tự các thành phần câu. 1.1. Câu thiếu thành phần. Lỗi này là loại câu thiếu một trong hai thành phần chính hoặc thiếu cả hai thành phần chính. a. Câu thiếu chủ ngữ. Câu thiếu chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi học sinh nhiều khi nhầm đối tượng chỉ mới trong tư duy chưa được hiện thực hóa ở câu với chủ ngữ. Trong tư duy đối tượng cần nói đến hiện rất rõ các em chỉ quan tâm đến việc diễn tả những hoạt động, tính chất, trạng thái của đối tượng. Do vậy 16
  17. các em viết câu không có thành phần chủ ngữ và nghĩ rằng câu đã chọn nghĩa của câu không trọn vẹn, làm cho người đọc khó hiểu. Ví dụ: Dưới bàn chân chú thấy một đệm thịt để khi bắt chuột không gây tiếng động. Cấu trúc trên là : Tr (CN) - VN Nguyên nhân. Câu này do người viết không biết cách cấu tạo chủ ngữ, muốn “Bàn chân chú” làm chủ ngữ nhưng lại để cụm danh từ này đứng sau “dưới” khiến bộ phận này bị lệ thuộc vào mặt ngữ pháp, gắn với chức năng trạng ngữ và không thể làm chủ ngữ được. Vậy câu trên thiếu chủ ngữ. Cách chữa: + Cách 1: Thêm chủ ngữ cho câu: Dưới bàn chân chú, em thấy một cái đệm thịt để khi bắt chuột không gây tiếng động. + Cách 2: Thay động từ trong câu và bỏ “dưới” để “bàn chân chú” làm chủ ngữ. Bàn chân chú có một đệm thịt để bắt chuột không gây têíng động. + Cách 3: Trường hợp này có thể cho “chú” (định ngữ của danh từ) làm chủ ngữ và thay động từ “thấy” bằng động từ “có”. Dưới bàn chân chú có một cái đệm thịt để khi bắt chuột không gây tiếng động. Ví dụ 2: (Nó được làm bằng vải da). Vẫn còn thơm mùi vải mới. Mô hình câu trên (CN) - VN. 17
  18. Cách chữa: Cách 1: Sửa cho câu trên về mô hình CN - VN thì ta chữa lại bằng cách thêm chủ ngữ cho câu và thay chủ ngữ để tránh lặp lại. Chiếc cặp làm bằng vải giả da. Nó vẫn còn thơm mùi vải mới. Cách 2: Nhập câu sai vào câu trước nó. b. Thiếu vị ngữ. Câu thiếu thành phần vị ngữ là những câu chỉ có một ngữ danh từ. Ví dụ: Đôi mắt hiền hậu với đôi lông mày cong cong. Học sinh đã nhầm tưởng câu trên đã có giá trị thông báo, trong khi đó nó mới chỉ nêu đối tượng thông báo, chưa có nội dung thông báo. Cách chữa. Cách 1: Thêm vị ngữ cho câu. Đôi mắt hiền hậu với đôi lông mày cong cong/ trông rất đẹp. Cách 2: Chuyển định ngữ thành vị ngữ. Đôi mắt cố thật hiền hậu dưới cặp lông mày cong cong. Ví dụ 2: Thêm vị ngữ cho câu. Chú mèo này, một chú mèo Tam Thể có bộ lông rất đẹp. CN P VN c. Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ. Những câu thiếu cả hai thành phần chính thường là những câu chỉ có bộ phận trạng ngữ và cũng không nối tiếp được với câu tiếp sau để trở thành một câu mới có trạng ngữ. Hoặc cũng có thể do người viết phát triển thành phần phụ quá dài mà quên mất cụm C - V nòng cốt hoặc tưởng đã có nòng cốt C - V. 18
  19. Ví dụ: Khi mùa hè đến (Hoa phượng nở rộ khắp sân trường). Câu trên chỉ có một trạng ngữ nên còn thiếu nòng cốt câu. Cách chữa: Cách 1: Bỏ quan hệ từ “Khi”. Câu mới sẽ là: Mùa hè đến. Cách 2: Thêm chủ ngữ và vị ngữ để tạo câu mới. Khi mùa hè đến, ve kêu râm ran suốt ngày. Cách 3: Kết hợp với câu đang xét với câu sau để tạo thành câu mới. Khi mùa hè đến, hoa phượng nở rộ khắp sân trường. 1.2. Câu thừa thành phần. Là loại lỗi do câu thành phần câu lặp lại một cách không cần thiết. Nguyên nhân của loại lỗi này do các em viết thư nói nên câu văn không rành mạch. Ví dụ: Câu chuyện ấy tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu. Học sinh đã viết thừa từ “tác giả” hoặc cụm từ “câu chuyện ấy”. Nguyên nâhn: học sinh nghĩ sao viết vậy (viết như nói). Nhưng như vậy câu văn sẽ trở nên sai vì thừa thành phần. Cả hai thành phần cùng có thể làm chủ ngữ của “khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu” nhưng lại không tương hợp với nhau về ý nghĩa. Cách chữa: Cách 1: Bỏ từ “tác giả” Câu chuyện ấy muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu. Cách 2: Bỏ cụm danh từ “câu chuyện ấy”. 19
  20. Tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu. Cách 3: Biến “câu chuyện ấy” thành trạng ngữ bằng cách thêm từ “qua”. Qua câu chuyện ấy, tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu. Cách 4: Biến “tác giả” thành định ngữ của “câu chuyện ấy”. Câu chuyện ấy của tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu. 1.3. Câu không phân định rõ thành phần. Đây là những câu về cấu tạo, chúng ta khó xác định được các bộ phận câu kết hợp với nhau theo quan hệ ngữ pháp nào, từ đó rất khó xác định các thành phần câu. Về ý nghĩa, mỗi quan hệ ý nghĩa giữa các bộ phận câu cũng không rõ ràng, chính xác. Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh không chuẩn bị một nộ dung cần nói nên không phân cắt được trong tư duy một cách rành mạch. Các em nhớ từ nào, cụm từ nào là viết ngay vào bài, không tìm cách tổ chức sắp xếp, liên kết các từ, các cụm từ một cách hợp lý để diễn đạt một cách rõ ràng nội dung mà mình cần diễn đạt. Ví dụ 1: Kỷ niệm về chú gấu bông bố đã tặng sinh nhật. Chúng ta không thể xác định được các thành phần chủ ngữ, vị ngữ của câu trên. Nguyên nhân: Do học sinh phân cắt không rõ ràng từng ý trong quá trình chuyển tư duy thành ngôn ngữ. Cách chữa: Thay đổi vị trí từ, cụm từ và thêm động từ “là”. Chú gấu bông là món quà kỷ niệm bố em đã tặng nhân dịp sinh nhật Ví dụ 2: Cây bàng hàng ngày em thường ngồi ôm bài. 20
nguon tai.lieu . vn