Xem mẫu
- Vấn đề chi phí xã hội
The Problem of Social Cost
RONALD COASE
Ronald Coase là giáo sư về hưu danh dự (Professor Emeritus) tại Đại học Luật
Chicago (University of Chicago Law School) và là người đoạt giải Nobel về kinh
tế. Đây là bài báo rút từ Journal of Laws and Economics (Tập san Luật và Kinh tế
) (tháng 10 năm 1960). Một vài đoạn trong bài báo đề cập đến các thảo luận mở
rộng liên quan đến các quyết định pháp luật đã được lược bỏ.
I. VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
Bài báo này đề cập đến hành động của các hãng kinh doanh mà các hành động này
có tác động tiêu cực đến người khác. Một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này là khói từ
một nhà máy đã gây ảnh hưởng có hại đến tài sản của những người sống ở xung
quanh nó. Phân tích kinh tế về tình huống đó thường được tiến hành dựa trên
phương diện của sự khác nhau giữa sản phẩm cá nhân và sản phẩm xã hội của nhà
máy, ở đó các nhà kinh tế chủ yếu đi theo cách giải quyết của Pigou trong cuốn
Các nền kinh tế Phúc lợi. Kết luận của loại phân tích này có vẻ thường dẫn hầu hết
các nhà kinh tế đến chỗ muốn chủ của nhà máy phải chịu trách nhiệm cho những
tổn hại do khói mà họ gây ra hay đánh thuế người chủ của nhà máy với mức tùy
thuộc vào mức độ khói thải ra và tương đương với những thiệt hại do khói gây
nên, hay biện pháp cuối cùng là di dời nhà máy ra khỏi khu dân cư (hay ra khỏi
vùng mà khói nhà máy có thể gây ảnh hưởng). Luận điểm của tôi là các biện pháp
được đưa ra đều không thích hợp do chúng có thể dẫn tới những hậu quả không
cần thiết hay thậm chí những hậu quả không mong muốn.
- II. BẢN CHẤT QUA LẠI CỦA VẤN ĐỀ
Cách tiếp cận truyền thống có xu hướng che đậy bản chất của việc đưa ra quyết
định lựa chọn. Câu hỏi thường được đặt ra trong trường hợp A có tác động xấu lên
B và quyết định cần được đưa ra là: Chúng ta làm thế nào để hạn chế A? Nhưng
đó là quyết định sai. Chúng ta cần phải giải quyết được bản chất qua lại của vấn
đề. Để tránh ảnh hưởng xấu, B sẽ gây ảnh hưởng xấu tới A. Câu hỏi thật sự cần
đặt ra là: Liệu A có được phép gây hại đến B hay liệu B có được phép gây hại đến
A? Vấn đề là ở chỗ làm sao để tránh được những tác hại nghiêm trọng hơn. Tôi đã
đưa ra ví dụ trong bài báo trước về trường hợp tiếng ồn và rung từ máy móc của
một nhà máy sản xuất bánh kẹo gây phiền hà đến công việc của một bác sỹ. Để
tránh ảnh hưởng xấu đó bác sỹ có thể gây ảnh hưởng lại đối với nhà máy sản xuất
bánh kẹo. Vấn đề mà trường hợp này nêu ra về cơ bản là nó có đáng hay không
khi kết quả của việc hạn chế các phương thức sản xuất được nhà máy bánh kẹo sử
dụng có thể đảm bảo việc khám chữa bệnh tốt hơn tại chi phí của việc cung giảm
của sản phẩm bánh kẹo. Một ví dụ khác là vấn đề các gia súc đi lạc phá hại mùa
màng trên vùng đất của người lân cận. Nếu việc một vài con gia súc đi lạc là điều
không thể trách khỏi thì tất cả sự tăng lên trong việc cung cấp thịt có thể thu được
tại chi phí của việc giảm sút trong cung của mùa vụ. Bản chất của sự lựa chọn đã
rõ: thịt hay mùa vụ. Câu trả lời cần được đưa ra tất nhiên là sẽ không rõ ràng trừ
khi chúng ta biết được giá trị của cái mà chúng ta đạt được cũng như cái mà chúng
ta phải hi sinh để đạt được nó. Một ví dụ khác, giáo sư George J. Stigler đã lấy ví
dụ về sự nhiễm bẩn của một dòng suối. Nếu chúng ta giả định rằng tác hại xấu của
việc ô nhiễm đã giết chết cá ở đó thì vấn đề cần được quyết định là: liệu giá trị của
số cá mất đi là nhiều hơn hay ít hơn giá trị sản phẩm có thể được làm ra do sự
nhiễm bẩn đó. Mọi việc vẫn tiếp diễn mà hầu như không cần nói rằng vấn đề này
cần phải được nhìn nhận dưới góc độ tổng thể và cận biên.
III. HỆ THỐNG GIÁ CHỊU TRÁCH NHIỆM THIỆT HẠI
- Tôi định bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc xem xét một trường hợp mà hầu
hết các nhà kinh tế đều có thể đồng ý rằng vấn đề sẽ được giải quyết theo cách
hoàn toàn làm mọi người hài lòng: khi gây hại đến người khác các công ty kinh
doanh phải trả toàn bộ tổn thất do họ gây ra và hệ thống giá sẽ làm việc một cách
trôi chảy (nói đúng ra nó có nghĩa hệ thống giá được vận hành miễn phí).
Một ví dụ hay của vấn đề đang được thảo luận là trường hợp gia súc đi lạc phá
hoại mùa màng trồng trên đất của người hàng xóm. Giả sử rằng một người nông
dân và một người nuôi gia súc đang làm việc trên mảnh đất thuộc sở hữu của hàng
xóm. Giả sử thêm rằng, giữa hai mảnh đất đó không có rào chắn và quy mô đàn
gia súc của người nuôi ngày càng tăng thì tổng thiệt hại mà nó gây ra cho mùa
màng của người nông dân càng lớn. Cái gì xảy ra đối với thiệt hại cận biên khi quy
mô của đàn gia súc tăng là vấn đề khác. Nó phụ thuộc vào việc liệu đàn gia súc có
xu hướng đi thành hàng nối đuôi nhau hay là đi lung tung con nọ cạnh con kia, hay
phụ thuộc vào việc đàn gia súc có xu hướng tăng liên tục nhiều hay ít và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố tương tự khác nữa. Vì mục đích trực tiếp của mình, chọn giả định
nào về thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng lên là không quan trọng.
Để đơn giản hóa luận chứng, tôi đề nghị sử dụng một ví dụ số học. Tôi sẽ giả định
rằng chi phí hàng năm của việc lập hàng rào cho mảnh đất của người nông dân là 9
đô là và giá trị mùa vụ là 1 đô la một tấn. Tôi cũng giả định rằng mối quan hệ giữa
số lượng gia súc trong một đàn và thiệt hại hàng năm về mùa vụ là như sau:
THIỆT HẠI MÙA VỤ TÍNH
SỐ LƯỢNG GIA THIỆT HẠI HÀNG
TRÊN MỘT CON BÒ TĂNG
SÚC TRONG ĐÀN NĂM CỦA MÙA VỤ
THÊM
(BÒ ĐỰC) (TẤN)
(TẤN)
- 1 1 1
2 3 2
3 6 3
4 10 4
Giả sử rằng người nuôi gia súc chịu trách nhiệm cho tổn thất mà họ gây ra, chi phí
thêm hàng năm mà người nuôi gia súc phải chịu khi anh ta tăng thêm số lượng gia
súc từ 2 lên 3 con bò là 3 đô la và khi quyết định quy mô của đàn gia súc, anh ta sẽ
tính đến các chi phí này cùng với các chi phí khác của mình. Anh ấy sẽ không tăng
quy mô của đàn gia súc trừ khi giá trị tăng thêm của thịt được sản xuất ra (giả sử
người nuôi gia súc trực tiếp giết mổ gia súc) lớn hơn chi phí tăng thêm ma anh bắt
buộc phải trả, bao gồm cả giá trị tăng thêm của mùa màng bị phá huỷ. Tất nhiên,
bằng việc sử dụng chó, người chăn gia súc, máy bay, đài phát di động và các
phương tiện khác thì số lượng thiệt hại có thể được giảm nhẹ, nhưng các phương
tiện này chỉ được sử dụng khi chi phí dành cho chúng ít hơn giá trị của mùa màng
mà chúng phải bảo vệ để khỏi bị mất. Giả sử chi phí hàng năm để làm hàng rào là
9 đô la, người chăn nuôi gia súc muốn đàn gia súc của mình có 4 con bò hoặc hơn
sẽ phải trả cho việc lắp dựng hàng rào vào bảo quản nó, giả sử rằng các phương
tiện khác đạt được là không rẻ. Khi hàng rào được dựng nên, chi phí cận biên cho
trách nhiệm thiệt hại là 0, trừ khi quy mô đàn gia súc đòi hỏi cần phải có hàng rào
tốt hơn và do vậy tiền chi cho hàng rào sẽ đắt tiền hơn vì nhiều gia súc có khả
năng dựa vào đó cùng một lúc. Nhưng tất nhiên người nuôi gia súc cũng có thể tốn
- ít tiền hơn vì không cần phải dựng hàng rào và trả phí tổn do mùa vụ bị phá huỷ vì
theo như ví dụ số học mà tôi đưa ra, với trường hợp 3 hay ít bò hơn.
Có thể nghĩ rằng sự thật khi người nuôi gia súc trả tất cả chi phí cho mùa màng bị
thiệt hại sẽ khiến cho người nông dân tăng diện tích trồng trọt nếu như người nuôi
gia súc đến chiếm diện tích đất lân cận. Nhưng sự việc không phải như vậy. Nếu
như trước đây mùa màng được bán trong các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì chi
phí cận biên sẽ bằng với giá đối với số lượng đã được trồng, còn bất kỳ sự mở
rộng nào sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của người nông dân bị giảm. Trong hoàn cảnh
mới này, sự hiển diện của việc mùa màng bị thiệt hại có nghĩa là người nông dân
sẽ bán ít đi ở thị trường mở nhưng số tiền mà anh ta nhận được cho số lượng sản
phẩm nhất định vẫn không đổi, vì người nuôi gia súc đã trả cho số mùa vụ bị thiệt
hại theo giá thị trường. Tất nhiên nếu ngành chăn nuôi gia súc nói chung có liên
quan đến việc phá huỷ mùa màng thì sự hiển diện của ngành công nghiệp chăn
nuôi gia súc sẽ làm tăng giá của mùa màng có liên quan và nông dân do đó sẽ mở
rộng diện tích trồng trọt. Nhưng ở đây tôi chỉ giới hạn sự tập trung của mình đến
từng nông dân cá thể.
Tôi đã từng nói rằng sự xâm lấn vùng đất lân cận của người nuôi gia súc sẽ không
là nguyên nhân liên quan tới số lượng sản phẩm, hay nói một cách chính xác hơn
là nguyên nhân của số lượng gieo trồng vì người nông dân đã tăng lượng gieo
trồng. Trên thực tế, nếu như người nuôi gia súc có gây ra ảnh hưởng gì thì nó sẽ
làm giảm số lượng gieo trồng. Nguyên nhân của việc này là đối với bất kỳ một
vùng đất canh tác cụ thể nào nếu giá trị mùa vụ bị thiệt hại lớn đến mức tiền thu
được từ việc bán sản phẩm mùa vụ không bị thiệt hại ít hơn tổng số chi phí cho
việc canh tác mảnh đất đó thì người nông dân sẽ có lợi và người nuôi gia súc sẽ
thoả thuận với người nông dân về việc mảnh đất còn lại không cần canh tác. Một
ví dụ số học sẽ minh hoạ rõ ràng cho điều này. Giả sử lúc đầu giá trị mùa vụ thu
được từ việc canh tác một mảnh đất cụ thể là 12 đô la và chi phí phải chịu khi canh
- tác trên mảnh đất đó là 10 đô la, lợi nhuận ròng thu được từ việc canh tác trên
mảnh đất đó là 2 đô la. Tôi giả sử để cho đơn giản hoá vấn đề rằng người nông dân
là người chủ của mảnh đất đó. Bây giờ lại giả sử người nuôi gia súc bắt đầu chăn
nuôi trên vùng đất lân cận và giá trị mùa vụ bị phá huỷ là 1 đô la. Trong trường
hợp người nông dân thu được $11 đô từ việc bán sản phẩm từ mùa vụ của mình ra
thị trường và 1 đô là số tiền thu được của người chăn nuôi gia súc thì lợi nhuận
ròng mà người nông dân thu được vẫn là 2 đô la. Bây giờ giả sử người nuôi gia
súc thấy việc tăng số lượng đàn gia súc của mình lên là có lợi thậm chí ngay cả khi
số tiền mà anh ta phải trả cho thiệt hại mùa vụ tăng lên 3 đô la, có nghĩa là giá trị
sản phẩm thịt tăng thêm lớn hơn các chi phí tăng thêm bao gồm cả 3 đô la phải trả
cho người nông dân. Tổng số tiền phải trả cho thiệt hại mùa màng là 3 đô la. Lợi
nhuận ròng của người nông dân có được từ việc canh tác vẫn là 2 đô la. Người
nuôi gia súc tốt hơn là từ bỏ nếu như người nông dân không đồng ý và vẫn canh
tác trên đất của mình nếu như không nhận được khoản tiền lớn hơn 2 đô la. Người
nông dân sẽ đồng ý không canh tác để nhận bất cứ khoản tiền nào lớn hơn 2 đô la.
Rõ ràng là có chỗ cho sự thương lượng làm thỏa mãn cả hai bên và nó có thể dẫn
đến việc người nông dân tự do canh tác. * Nhưng ta không thể áp dụng việc lập
luận tương tự như vậy cho toàn bộ mảnh phần đất mà người nông dân canh tác mà
chỉ cho phần nhỏ nào đó thôi. Lấy ví dụ giả sử gia súc có một lối đi lại thường
xuyên là ven bờ suối hay tại một khu vực râm mát thì lúc này lượng mùa màng bị
phá huỷ ven đường đi của chúng có thể khá lớn và do vậy người nông dân và
người nuôi gia súc có thể đi đến một thoả thuận có lợi cho cả hai bên hơn là người
nông dân sẽ đồng ý không canh tác trên dải đất đó nữa.
Nhưng điều này sẽ làm nảy sinh một khả năng khác. Giả sử rằng có một lối đi lại
thường xuyên như vậy cho đàn gia súc, giả sử thêm rằng giá trị mùa vụ có được
nhờ việc canh tác trên dải đất đó là 10 đô la và rằng chi phí canh tác là 11 đô la.
Nếu không có sự có mặt của người nuôi gia súc thì thì mảnh đất đó nhất định sẽ
được canh tác. Tuy nhiên cho rằng có sự có mặt của người nuôi gia súc, và nếu dải
- đất đó vẫn được canh tác và toàn bộ mùa vụ được canh tác trên dải đất đó bị phá
hoại. Trong trường hợp đó người nuôi gia súc sẽ bắt buộc phải trả 10 đô la cho
người nông dân. Rõ ràng rằng người nông dân mất 1 đô la nhưng người nuôi gia
súc mất 10 đô la.
Lập luận trong bài viết này được tiến hành dựa trên giả thiết rằng phương án canh
tác mùa vụ là sự tự do của việc canh tác nói chung. Nhưng cần phải như thế. Có
thể có mùa vụ mà ít chịu thiệt hại do đàn gia súc gây nên nhưng mùa vụ đó sẽ
không đem lại nhiều lợi nhuận bằng mùa vụ được trồng ở chỗ không có thiệt hại.
Chính vì lẽ đó nếu việc canh tác một mùa vụ mới chỉ đem lại lợi nhuận là 1 đô la
cho người nông dân thay vì 2 đô la và quy mô của đàn gia súc sẽ khiến thiệt hại
lên tới 3 đô la với mùa vụ cũ gây 1 đô la thiệt hại với mùa vụ mới thì người nuôi
gia súc sẽ có lợi hơn khi chỉ phải trả khoản tiền ít hơn 2 đô la để thuyết phục người
nông dân thay đổi cơ cấu mùa vụ của anh ta (vì việc này sẽ làm giảm trách nhiệm
đền bù thiệt hại từ 3 đô la xuống còn 1 đô la) và điều này cũng đem lại lợi ích cho
người nông dân vì số tiền anh ta nhận được là lớn hơn 1 đô la (giảm lợi nhuận do
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ). Trên thực tế, trong mọi trường hợp xảy ra người nông
dân và người nuôi gia súc đều có thể đi đến một thoả thuận có lợi cho cả hai bên ở
đó việc thay đổi cơ cấu cây trồng có thể làm giảm số thiệt hại vì nó làm giảm giá
trị mùa vụ (không tính đến thiệt hại)-trong mọi trường hợp một thay đổi trong mùa
vụ canh tác có thể dẫn đến sự gia tăng trong giá trị sản xuất.
Rõ ràng rằng đây là một tình huống khó có thể tồn tại lâu vì không có bên nào
muốn điều đó xảy ra. Mục đích của người nông dân là muốn được người nuôi gia
súc thuyết phục là sẽ trả cho anh ta một khoản tiền để đổi lại việc anh ta đồng ý
không canh tác trên mảnh đất đó. Người nông dân sẽ không có một khoản tiền cao
hơn chi phí dành cho việc lắp đặt hàng rào cho miếng đất đó hay khoản tiền đó cao
bằng việc sẽ dẫn đến người nuôi gia súc từ bỏ việc sử dụng mảnh đất của người
hàng xóm. Trên thực tế khoản chi trả nào được đưa ra phụ thuộc vào sự khôn
- ngoan của người nông dân và người nuôi gia súc khi hai bên tiến hành thương
lượng. Nhưng khoản chi trả đó không thể cao quá đến nỗi người nuôi gia súc sẽ từ
bỏ mảnh đất đó và nó cũng không được làm thay đổi quy mô của đàn gia súc, bản
thỏa thuận giữa người nông dân và người nuôi gia súc cũng không được làm ảnh
hưởng đến sự phân bổ tài nguyên và sẽ không làm thay đổi thu nhập và tài sản của
cả người nông dân lẫn người nuôi gia súc.
Tôi nghĩ rõ ràng rằng nếu người nuôi gia súc phải chịu trách nhiệm về những phá
hoại do gia súc của anh ta gây ra thì hệ thống giá cả sẽ vận hành trôi chảy, sự giảm
sút trong giá trị sản xuất ở một nơi nào đó sẽ được xem xét khi tính toán chi phí
thêm liên quan đến sự ra tăng quy mô đàn gia súc. Chi phí này sẽ cao đối với giá
trị của việc sản xuất thịt thêm và, căn cứ vào việc ngành công nghiệp chăn nuôi là
ngành công nghiệp có thị trường cạnh tranh hoàn thì việc phân bổ tài nguyên trong
việc chăn nuôi gia súc sẽ là tối ưu. Những gì cần thiết được nhấn mạnh là việc sụt
giảm trong giá trị sản xuất ở nơi nào đó, mà việc đó cần phải được tính đến trong
chi phí của người nuôi gia súc, chi phí đó có thể thấp hơn thiệt hại mà gia súc gây
ra với mùa màng trong các trường hợp thông thường. Điều này có thể xảy ra vì nó
như kết quả tất yếu của giao dịch thị trường làm gián đoạn việc canh tác trên mảnh
đất đó. Người ta đều mong muốn như thế trong mọi trường hợp mà thiệt hại do gia
súc gây ra, và ở đó người nuôi gia súc sẽ sẵn lòng trả, nhiều hơn số lượng người
nông dân sẽ trả cho việc sử dụng đất. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, số tiền
người nông dân trả cho việc sử dụng đất là tương đương với phần chênh lệnh giữa
giá trị tổng sản lượng khi các nhân tố được sử dụng trên mảnh đất và giá trị của
sản phẩm tăng thêm thu được trong cách thức sử dụng tối ưu nhất tiếp theo của họ
(đó là cái mà người nông dân phải trả cho các nhân tố). Nếu thiệt hại vượt quá số
tiền người nông dân trả cho việc sử dụng đất thì giá trị sản xuất gia tăng của các
nhân tố được sử dụng ở đâu đó sẽ vượt quá giá trị tổng sản phẩm trong cách sử
dụng này sau khi thiệt hại được đưa vào xem xét. Tiếp theo đó việc từ bỏ canh tác
trên mảnh đất và bỏ không sử dụng các yếu tố đối với sản xuất ở nơi nào đó là
- điều được mong muốn. Một trình tự mà đơn thuần chỉ được chuẩn bị dể chi trả cho
thiệt hại mùa màng do gia súc gây ra mà không cho phép khả năng mùa màng bị
gián đoạn sẽ dẫn đến kết quả sử dụng quá nhỏ các nhân tố sản lượng chăn nuôi và
sử dụng quá lớn các nhân tố trong canh tác mùa vụ. Nhưng dựa trên khả năng giao
dịch thị trường, tình trạng mùa màng bị thiệt hại vượt quá số tiền thuê đất sẽ
không kéo dài. Việc người chăn nuôi gia súc trả tiền cho nông dân để họ từ bỏ
không canh tác hoặc bản thân anh ta tự thuê đất bằng cách trả cho chủ đất một số
tiền nhỏ không đáng kể nhưng lớn hơn số tiền người nông dân phải trả (nếu bản
thân người nông dân tự thuê đất) đều dẫn đến kết quả cuối cùng như nhau và sẽ tối
đa hóa giá trị sản lượng.Thậm chí khi người nông dân được thuyết phục trồng trọt
mùa màng mà việc trồng trọt này không mang lại lợi nhuận khi đem bán trên thị
trường thì đây đơn thuần sẽ chỉ là hiện tượng ngắn hạn và có thể hy vọng dẫn đến
một thỏa thuận từ bỏ việc canh tác. Người chăn nuôi gia súc sẽ vẫn sản xuất trên
mảnh đất đó và chi phí cận biên của sản lượng thịt sẽ bằng trước đây, do vậy
không có những ảnh hưởng dài hạn đến phân phối tài nguyên.
IV. HỆ THỐNG GIÁ KHÔNG CHỊU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI THIỆT
HẠI
Bây giờ tôi chuyển sang trường hợp mà ở đó mặc dù hệ thống giá cả giả sử được
vận hành trôi chảy (có nghĩa là tốn phí), nhưng những thiệt hại trong kinh doanh
sẽ không phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào mà nó gây ra. Việc kinh
doanh đó sẽ không phải trả cho bất kỳ tổn hại nào mà hoạt động của nó gây ra. Tôi
định chỉ ra rằng việc phân bổ tài nguyên cũng sẽ giống như trường hợp thiệt hại
trong buôn bán như nó vẫn thế khi việc kinh doanh gây tổn hại đến người khác
phải chịu trách nhiệm pháp lý cho những tổn thất mà nó gây ra. Như tôi đã chỉ ra
trong trường hợp trước viêc phân bổ tài nguyên đã là tối ưu, thế nên không cần
thiết phải nhắc lại phần này trong bài thảo luận.
- Tôi trở lại trường hợp người nông dân và người chăn nuôi gia súc. Người nông
dân sẽ không phải chịu tổn thất tăng lên với mùa màng của anh ta khi quy mô đàn
gia súc tăng. Giả sử rằng quy mô đàn gia súc của người chăn nuôi là 3 con bò đực
(và đây là quy mô đàn gia súc được duy trì nếu thiệt hại mùa màng không đưa vào
tính toán). Vậy thì người nông dân sẵn sàng trả đến 3 đô la nếu người chăn nuôi
gia súc chịu giảm quy mô đàn gia súc xuống còn 2 con, và trả đến 5 đô la nếu đàn
gia súc giảm xuống còn 1 con và 6 đô la nếu người nuôi gia súc không nuôi gia
súc nữa. Do đó người nuôi gia súc sẽ nhân được 53 từ người nông dân nếu anh ta
giữ lại 2 con thay vì 3 con. 3 đô la được nói ở trên chính là một phần của chi phí
phải chịu để giữ lại con gia súc thứ 3. Liệu 3 đô la là số tiền mà người chăn nuôi
phải trả nếu anh ta thêm con thứ 3 vào trong đàn (điều này sẽ xảy ra nếu người
chăn nuôi có trách nhiệm pháp lý với người nông dân về thiệt hại mùa màng mà
anh ta gây ra) hay nó là số tiền mà anh ta nhận được nếu anh ta không nuôi con gia
súc thứ ba (điều này xảy ra nếu người chăn nuôi không có trách nhiệm pháp lý với
người nông dân về thiệt hại mùa màng mà anh ta gây ra),việc này không ảnh
hưởng đến kết quả cuối cùng. Trong cả hai trường hợp 3 đô la là một phần chi phí
khi thêm con gia súc thứ ba, nó được thêm vào cùng với các chi phí khác. Nếu giá
trị sản xuất trong chăn nuôi gia súc tăng thông qua sự ra tăng của số lượng gia súc
từ 2 lên 3 con lớn hơn chi phí gia tăng phải chịu (bao gồm cả 3 đô la thiệt hại mùa
màng), thì số lượng đàn gia súc sẽ tăng thêm. Nếu không thì số lượng gia súc sẽ
giảm. Quy mô đàn gia súc sẽ không đổi cho dù người nuôi gia súc có trách nhiệm
pháp lý về những thiệt hại mùa màng hay không.
Có người sẽ lập luận rằng theo như giả định ở phần đầu - một đàn gia súc gồm 3
con - là tuỳ chọn. Điều này đúng. Nhưng người nông dân không muốn trả tiền để
tránh thiệt hại mùa màng mà người chăn nuôi gia súc có thể không gây ra. Lấy ví
dụ số tiền trả hàng năm lớn nhất mà người nông dân có thể được thuyết phục phải
trả không vượt quá 9 đô la chi phí hàng năm cho việc lập hàng rào bảo vệ. Và
người nông dân chỉ sẵn lòng trả số tiền đó nếu nó không làm giảm thu nhập ở mức
- độ khiến cho anh ta từ bỏ việc canh tác trên một khoảnh đất cụ thể nhất định. Hơn
nữa người nông dân chỉ sẵn lòng trả số tiền đó nếu anh ta tin rằng, nếu anh ta
không trả số tiền đó thì quy mô đàn gia súc sẽ được người nuôi gia súc duy trì ở
mức 4 con hoặc nhiều hơn. Chúng ta hãy giả định ở trường hợp này. Vậy là người
nông dân sẵn lòng trả cho người chăn nuôi 3 đô la với điều kiện người chăn nuôi
gia súc giảm quy mô đàn gia súc còn 3 con, trả 6 đô la nếu đàn gia súc còn 2 con,
8 đô la nếu chỉ còn 1 con và 9 đô la nếu người chăn nuôi từ bỏ không nuôi đàn gia
súc. Cần phải chú ý rằng sự thay đổi trong điểm khởi đầu không làm thay đổi số
lượng dồn về người nuôi gia súc nếu anh ta giảm quy mô đàn gia súc của mình
đến một số lượng nhất định bất kỳ nào đó. Điều này vẫn đúng khi người chăn nuôi
nhận 3 đô la thêm từ người nông dân nếu anh ta đồng ý giảm đàn gia súc từ 3
xuống 2 con và 3 đô la đó biểu thị giá trị mùa màng bị thiệt hại do thêm con gia
súc thứ 3 vào trong đàn. Mặc dù có một niềm tin khác của người nông dân (dù có
được chứng minh hay không) về quy mô đàn gia súc mà người nuôi gia súc sẽ duy
trì khi không có sự chi trả từ phía người nông dân, điều này có thể làm ảnh hưởng
đến tổng số tiền anh ta được thuyết phục chi trả, sẽ là không đúng nếu niềm tin
khác này gây bất kỳ ảnh hưởng nào đến số lượng gia súc mà người chăn nuôi thực
sự duy trì. Điều này cũng tương tự như nó vốn phải thế nếu người nuôi gia súc
phải trả cho những thiệt hại mà gia súc của anh ta gây ra, vì số đã thu của một số
tiền nhất định tương đương với số chi cũng của số tiền nhất định đó.
Có thể cho rằng đó là số tiền trả cho người nuôi gia súc để tăng số lượng gia súc
lên vượt quá quy mô mà anh ta muốn duy trì khi đưa ra một thỏa thuận nhằm
thuyết phục người nông dân đưa ra tổng số tiền chi trả lớn hơn. Và điều này có thể
đúng. Điều này cũng giống với bản chất hành động của người nông dân (khi người
chăn nuôi gia súc phải chịu trách nhiệm pháp lý về những tổn thất gây ra) khi canh
tác trên mảnh đất mà nó là kết quả của bản thỏa thuận với người nuôi gia súc về
việc không canh tác nữa (không canh tác trên cả mảnh đất không có sự xuất hiện
của gia súc). Nhưng những hành động đó là sự mở đầu cho một thỏa thuận và
- không ảnh hưởng đến vị trí cân bằng dài hạn, không có gì thay đổi cho dù người
nuôi gia súc có trách nhiệm với những tổn thất về mùa màng mà gia súc của anh ta
gây ra hay không.
Việc hiểu liệu sự tổn thất thương mại có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không
đối với những thiệt hại nó gây ra là rất cần thiết vì nếu không thiết lập sự phân
định đầu tiên của quyền sở hữu thì có thể không có giao dịch thị trường để chuyển
giao và kết hợp chúng lại. Nhưng kết quả cuối cùng (tối đa hoá giá trị sản xuất)
không phụ thuộc vào quan điểm luật pháp nếu hệ thống giá cả được thừa nhận vận
hành không cần chi phí.
nguon tai.lieu . vn