Xem mẫu

  1. Tên đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của Logistics tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp qua cửa khẩu Cao Bằng Chủ nhiệm đề tài: Ths Phan Đình Quyết Đồng tham gia: Ths Nguyễn Phương Linh Mã đề tài: CS18- 02 Trang 1 / 92
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO và đang trong giai đoạn thực hiện các cam kết của WTO. Vì vậy, một trong các hướng nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại đặc biệt là các doanh nghiệp phân phối trên trường trong nước và quốc tế là cần phải phát triển quan hệ hợp tác tốt giữa các nhân tố trong chuỗi cung ứng nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất. Một trong những hoạt động cần phát triển đó là dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mô khoảng 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ logistics trong những năm qua là từ 16 - 20%/năm. Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 16 - 20%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua. Thống kê mới đây của Hiệp hội doanh nghiệp (DN) logistics Việt Nam cho thấy, cả nước hiện có khoảng trên 1.300 DN logistics đang hoạt động, bao gồm cả DN có vốn nước ngoài. Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tuy nhiên, vẫn có những DN lớn như: Công ty Transimex Saigon, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, Vietrans, Vietfracht... Về thị trường, khoảng 52% công ty cung cấp dịch vụ logistics nước ta có quan hệ làm ăn với thị trường Hoa Kỳ, 47% với Liên minh châu Âu (EU), 63% với các nước ASEAN, 57% với thị trường Nhật Bản, 49% với thị trường Trung Quốc và 43% với thị trường Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngành Logistics hiện đang phải đối diện với không ít thách thức. Thống kê cho thấy, DN logistics nội chiếm hơn 80% tổng số DN kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam, song hầu hết chỉ làm dịch vụ các chuỗi cung ứng nhỏ trong lãnh thổ Việt Nam như: Dịch vụ giao nhận, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan, gom hàng lẻ và thị phần tại các cảng... Trong khi đó, các hoạt động lớn hơn, mang tính liên vận quốc tế đều do thiểu số các công ty, tập đoàn đa quốc gia đảm trách. Trang 2 / 92
  3. Một thách thức khác đặt ra là theo cam kết của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), từ năm 2014, hầu hết được dỡ bỏ, cho các DN nước ngoài gia nhập thị trường với mức vốn 100%. Bên cạnh đó, chi phí logistics của Việt Nam chiếm khoảng 25% GDP/năm, cao hơn nhiều so với các nước như Trung Quốc hay Thái Lan, gây lãng phí nhiều nguồn lực trong nước. Tình trạng thiếu đồng bộ của kết cấu hạ tầng cho ngành Logistics đã hạn chế sự phát triển của hoạt động logistics. Đó là chưa kể vấn đề hệ thống pháp luật vẫn còn chưa thật sự rõ ràng, minh bạch, còn chồng chéo. Vẫn chưa có sự hiểu biết một cách đầy đủ, thống nhất giữa các cơ quan quản lý liên quan. Một điều quan trọng nữa đó là các các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được vai trò của Logistics tới việc tạo lập lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp đồng thời ảnh hưởng của Logistics tới hoạt động xuất khẩu cụ thể. Đối với khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng, nhìn chung hoạt động Logistics còn mang tính chất manh mún, thiếu sự đồng bộ trong cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống thông tin Logistics. Điều này ít nhiều đã làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua khu kinh tế cửa khẩu. Do đó tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của logistics tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp qua cửa khẩu Cao Bằng” 2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ TÀI Ở TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 2.1. Trong nước Việt Nam được biết đến là một quốc gia có hệ thống dịch vụ logistics còn non trẻ, đang trong giai đoạn đầu phát triển. Hiện nay, các nghiên cứu mang tính lý thuyết về xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu và dịch vụ logistics tại khu kinh tế cửa khẩu cũng như thực trạng, vai trò của các khu kinh tế cửa khẩu hiện nay tập trung chủ yếu từ các tạp chí nước ngoài, các tạp chí chuyên ngành Logistics, Kinh tế vận tải, các bài nghiên cứu trên các tạp chí, hay các đề tài, dự án nghiên cứu các cấp... Và hầu hết các nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới các khía cạnh khác nhau như thực trạng công tác quản trị xuất nhập khẩu, các bộ phận cấu thành của trung tâm dịch vụ logistics tại các cửa khẩu một nói chung chứ chưa có bất kỳ một nghiên cứu tổng thể nào về Logistics khu kinh tế cửa khẩu Tuy nhiên tính đến thời điểm này thì cũng đã xuất hiện một số lượng đáng kể Trang 3 / 92
  4. các công trình liên quan đến logistics được công bố. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến logistics tiêu biểu có thể kể đến như sau: - “Logistics - Những vấn đề cơ bản”, do GS. TS. Đoàn Thị Hồng Vân chủ biên, xuất bản năm 2003 (Nhà xuất bản Lao động - xã hội). Trong cuốn sách này, các tác giả tập trung vào giới thiệu những vấn đề lý luận cơ bản về logistics như khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển của logistics, phân loại logistics, kinh nghiệm phát triển logistics của một số quốc gia trên thế giới… 3 năm sau đó, tác giả giới thiệu tiếp cuốn “Quản trị logistics” (Nhà xuất bản Thống kê, 2006). Như tiêu đề thể hiện, cuốn sách tập trung vào những nội dung của quản trị logistics như khái niệm quản trị logistics, các nội dung của quản trị logistics như dịch vụ khách hàng, hệ thống thông tin, quản trị dự trữ, quản trị vật tư, vận tải, kho bãi… Cả 2 cuốn sách chủ yếu tập trung vào các vấn đề lý luận về logistics và quản trị logistics, các nội dung thực tiễn của logistics là rất hạn chế, chủ yếu dừng ở mức giới thiệu nội dung thực tiễn tương ứng (dịch vụ khách hàng, hệ thống thông tin, kho bãi…) của một số doanh nghiệp Việt Nam. - Giáo trình “Quản trị logistics kinh doanh” do TS. Nguyễn Thông Thái và PGS. TS. An Thị Thanh Nhàn chủ biên (Nhà xuất bản Thống kê, 2011) của trường Đại học Thương mại. Giáo trình này dành chương đầu tiên để giới thiệu tổng quan về quản trị logistics kinh doanh như khái niệm và phân loại logistics, khái niệm và mục tiêu của quản trị logistics, mô hình quản trị logistics, các quá trình và chức năng logistics cơ bản… chương còn lại đi sâu vào nội dung quản trị logistics cụ thể như dịch vụ khách hàng, quản trị dự trữ, quản trị vận chuyển, quản trị các hoạt động logistics hỗ trợ, thực thi và kiểm soát logistics. Tuy nhiên, tương tự như nghiên cứu trên, cuốn sách mới tập trung phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết, các tình huống, vấn đề thực tiễn còn chưa được đào sâu khai thác phân tích cụ thể. - Bài viết “Tháo gỡ khó khăn để phát triển khu kinh tế cửa khẩu” trên Tạp chí Tài chính kỳ II, số tháng 7/2016 của tác giả Trần Báu Hà. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ rõ: Các khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam ra đời phù hợp với chủ trương đổi mới, hội nhập nền kinh tế thế giới của Nhà nước, không chỉ là động lực quan trọng phát triển kinh tế địa phương mà còn là nền tảng phát triển kinh tế quốc gia. Theo đó, khung khổ pháp lý và các chính sách ưu đãi hiện nay như thuế, phí, vốn… đã được Trang 4 / 92
  5. kiện toàn và là cơ hội để các địa phương tạo bước đột phá từ các khu kinh tế cửa khẩu này, tuy nhiên để khai thác hiệu quả hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu đang còn không ít vấn đề đặt ra cần khẩn trương giải quyết. Trên thực tế, hiệu quả các khu kinh tế cửa khẩu chưa cao do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do thương mại trên 3 tuyến biên giới mang những nét đặc thù khác nhau. Tuyến Trung Quốc, Việt Nam nhập nhiều song xuất khẩu rất khó khăn, giá trị các mặt hàng xuất khẩu không cao. Tuyến Campuchia, Việt Nam giành lợi thế xuất khẩu hàng tiêu dùng công nghiệp, hàng dệt may, vật liệu xây dựng, phân bón... nhưng phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hóa Thái Lan. Tuyến Lào, đường biên giới nằm giữa núi rừng Trường Sơn, cách xa trung tâm kinh tế lớn, khó khăn cho phát triển thương mại của 2 nước. Bên cạnh đó, các cửa khẩu đang gặp rất nhiều khó khăn về phát triển kết cấu hạ tầng. Hầu hết các KKTCK (Khu Kinh Tế Cửa Khẩu) thường nằm tại các địa phương, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, nên chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Do nguồn ngân sách Trung ương hết sức hạn chế, trong khi đó nhu cầu đầu tư phát triển của các KKTCK rất lớn nên nhiều KKTCK đang gặp khó khăn trong việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hệ thống dịch vụ tương trợ, đặc biệt là dịch vụ hậu cần logistic còn thiếu, chưa đáp ứng và theo kịp nhu cầu của nhà đầu tư. Ngoài ra, cơ chế điều hành các KKTCK, cửa khẩu chưa thống nhất. Các cơ quan chức năng như biên phòng, hải quan... vẫn quản lý theo cơ chế phối hợp, dẫn đến bất cập trong quy hoạch, xây dựng hệ thống kho bãi, nhà công vụ, quốc môn,… Nghiên cứu đã nêu khá đầy đủ thực trạng phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu hiện nay, trong đó đã đề cập tới vai trò của dịch vụ logistics đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua khu kinh tế cửa khâu, tuy nhiên nghiên cứu mang tầm vĩ mô cả Việt Nam, vì vậy các thực trạng, giải pháp và định hướng còn mang tính chất chung chung, chưa chú trọng đến đặc điểm, điều kiện của một địa phương cụ thể. - Bài viết “Tỉnh Cao Bằng: KKT cửa khẩu góp phần phát triển kinh tế - xã hội” của tác giả Lê Thành Trung - Trưởng ban, Ban Quản lý KKT tỉnh Cao Bằng đăng trên Trang tin điện tử Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam ngày 24 tháng 8 năm 2016. Bài viết đã chỉ ra tiềm năng và thực trạng phát triển của kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng trong những năm gần đây. Theo đó, kinh tế cửa khẩu đã góp phần không nhỏ cho sự Trang 5 / 92
  6. phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cao Bằng, hệ thống dịch vụ, thương mại được thúc đẩy mạnh, đã và đang dần hình thành các điểm, khu vực dịch vụ, kho tàng, bến bãi phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu. Kinh tế cửa khẩu Cao Bằng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, khẳng định vị trí mũi nhọn trong phát triển kinh tế của tỉnh. Tốc độ tăng kim ngạch qua các cửa khẩu của tỉnh khá cao và ổn định, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chính ngạch giai đoạn 2011-2015 đạt 1.575 triệu USD (trung bình đạt 350 triệu USD/năm), tăng 168% so với giai đoạn 2006-2010. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tạm nhập, tái xuất qua địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2015 đạt 3.035 triệu USD (trung bình 606 triệu USD/năm). Thu thuế xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu trong giai đoạn 2011-2015 đạt 724 tỷ đồng, tăng 442 tỷ đồng so với giai đoạn 2006- 2010; thu phí đạt trên 615 tỷ đồng. Tác giả cũng đề xuất một số đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa các chính sách phát triển hoạt động xuất nhập khẩu tại khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, các đề xuất mới chỉ tập trung vào các giải pháp về chính sách liên kết, ngoại giao, việc phát triển dịch vụ logistics trong hoạt động xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu vẫn chưa được tác giả nhắc tới trong nghiên cứu này. - Công trình nghiên cứu khoa học quy mô nhất cho đến nay liên quan đến logistics ở Việt Nam là Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế” do GS. TS. Đặng Đình Đào (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốcdân) chủ nhiệm, được thực hiện trong 2 năm (2010, 2011) với sự tham gia của nhiều nhà khoa học và tiến hành thu thập số liệu thông qua điều tra, phỏng vấn ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong khuôn khổ đề tài này, 2 cuốn sách chuyên khảo đã được xuất bản. Cuốn “Logistics – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2011) tập hợp 26 báo cáo khoa học tại hội thảo của đề tài do đông đảo các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những người hoạt động logistics thực tiễn ở Việt Nam trình bày. 26 báo cáo này tập trung vào các nội dung cơ bản: các vấn đề lý luận cơ bản của logistics, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, các quy định pháp lý liên quan đến phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, cơ sở hạ tầng logistics ở Việt Nam, chính sách phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, giải pháp phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam… Kết quả nghiên cứu của đề tài Trang 6 / 92
  7. được giới thiệu một cách đầy đủ và chi tiết trong cuốn sách chuyên khảo thứ 2: cuốn “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012), với các nội dung cụ thể như: khái niệm dịch vụ logistics, nội dung phát triển dịch vụ logistics, hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển các dịch vụ logistics của quốc gia (giới thiệu chỉ số LPI của WB) và của doanh nghiệp, các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam, quá trình phát triển và thực trạng phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam, yêu cầu, khả năng, quan điểm và giải pháp phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Đề tài đã nêu ra rất rõ các cơ sở lý luận cũng như thực trạng phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế, tuy nhiên giới hạn của nghiên cứu thể hiện ở điểm tác giả chưa thể tập trung chi tiết cho hoạt động cung cấp dịch vụ logistics trong xuất nhập khẩu qua các khu kinh tế cửa khẩu, cũng như phù hợp điều kiện cụ thể của từng địa phương. - “Ngành dịch vụ logistics trước yêu cầu hội nhập sâu rộng của Việt Nam”, bài viết của Nguyễn Duy Minh - Tổng Thư Ký Hiệp Hội Doanh Nghiệp Dịch Vụ Logistics Việt Nam trên tạp chí giao thông vận tải điện tử. Bài viết phân tích vai trò quan trọng của dịch vụ Logistics đối với hoạt động xuất nhập khẩu trong bối cảnh hiện nay. Logistics góp phần phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại trong quản trị dây chuyền cung ứng toàn cầu. “Chất lượng của dịch vụ logistics là trung tâm của hiệu quả thương mại và có quan hệ chặt chẽ với độ tin cậy của dây chuyền cung ứng và khả năng dự đoán được việc cung cấp dịch vụ cho các nhà sản xuất và các nhà xuất khẩu”. Chính vì vậy, việc phát triển, nâng cao năng lực của ngành Dịch vụ logistics Việt Nam là yêu cầu cấp bách hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu rộng với việc thực hiện TPP, AEC và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tác giả bài viết cũng đưa ra các mục tiêu và các chương trình thực hiện mục tiêu trong tương lai nhằm phát triển hệ thống dịch vụ logistics đáp ứng kịp thời sự phát triển, hội nhập sâu rộng hiện nay. - Hoàng Tín (2016), “Phát triển logistics cửa khẩu: Khâu quan trọng trong xây dựng khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới”, Nhật Báo Quảng Tây. http://www.baoquangninh.com.vn/quoc-te/quang-tay/201303/Phat-trien-logistics-cua- khau-Khau-quan-trong-trong-xay-dung-khu-hop-tac-kinh-te-xuyen-bien-gioi- Trang 7 / 92
  8. 2192645/ - Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) cấp bộ của Bộ Thương mại “Logistics và khả năng áp dụng, phát triển logistics trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận ở Việt Nam” do PGS. TS. Nguyễn Như Tiến (Đại học Ngoại thương) làm chủ nhiệm (2004) tập trung nghiên cứu khía cạnh dịch vụ vận tải, giao nhận hàng hoá. 2.2. Ngoài nước Nghiên cứu “Supply chain management as a source of competitive advantage / quản trị chuỗi cung ứng được xem là nguồn của lợi thế cạnh tranh” của nhóm tác giả Mikael Bergmasth và Tom Nyberg năm 2005 đã nhấn mạnh vai trò của Logistics trong chuỗi cung ứng và nhấn mạnh việc tối ưu hóa các dịch vụ Logistics cho phép doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh về giá. Tuy nhiên đây là nghiên cứu về chuỗi cung ứng nên mức độ phân tích Logistics và các thành tố của Logistics mang tính chất đề cập, giới thiệu, thiếu sự phân tích sâu. Nghiên cứu “Leading logistics dynamics to cost efficient management/Hướng tới logistics động để quản trị hiệu quả chi phí” của nhóm tác giả Andreá P.Kakouris, Panagiotis K.Finos và Athanassios Mihiotis năm 2015 đã kiểm tra đánh giá các hoạt động đổi mới trong logistics trong và logistics ngoài nhằm tạo ra giá trị và tạo lập lợi thế cạnh tranh. Thông qua phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc với các nhà quản trị chuỗi cung ứng từ đó nhóm tác giả đã nhấn mạnh những nguyên lý của Logistics nhằm khai thác những giá trị tiềm ẩn của logistics trong công ty kinh doanh nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh về chi phí của doanh nghiệp. Nghiên cứu “Logistics – nguồn của lợi thế cạnh tranh/ logistics – nguồn của lợi thế cạnh tranh” của nhóm tác giả Adriana Scriosteanu, Diniela Popescu năm 2013 đã đặt ra bối cảnh hiện nay các doanh nghiệp đều cố gắng đạt được những lợi thế cạnh tranh nhất định để giúp doanh nghiệp có khả năng đáp ứng như cầu của khách hàng và từ đó đạt được lợi nhuận. Logistics trở thành một nguồn lực của lợi thế cạnh tranh. Nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa những nhà cung cấp và những nhà phân phối, từ đó chỉ ra logistics với vai trò trung gian giúp tiết kiệm thời gian, đảm bảo chất lượng hàng hóa ... từ đó sản phẩm đến tay người tiêu dùng đảm bảo và giá cả hợp lý. Ủng hộ cho quan điểm này là nghiên cứu “Gaining a competitive advantage through Trang 8 / 92
  9. new developments in international logistics management/ Đạt được lợi thế cạnh tranh thôgn qua những phát triển mới trong quản trị Logistics quốc tế” của nhóm tác giả Fowlkes, Donnita và Metadata năm 1999 và nghiên cứu “Creating competitive advantages through new value creation: A reverse logistics perspective/ Tạo lập lợi thế cạnh tranh thông qua tạo lập giá trị mới: thay đổi khía cạnh logistics” của Vaidyanathan Jayaraman và Yadong Luo. Nghiên cứu “Cross-Border Logistics Performance In SriLanka: The Way Forward / Hiệu quả logistics biên giới tại SriLanka: định hướng tương lai” (2013) của tác giả Lalith Edirisinghe chỉ ra rằng dịch vụ hậu cần Logistics có tác động lớn đến hoạt động kinh tế của mọi quốc gia. Chính phủ Sri Lanka (GOSL) đã thực hiện chương trình nghị sự phát triển của mình với mục tiêu phát triển đất nước trở thành một trung tâm trung chuyển, hàng không, cửa khẩu trung tâm của châu Á. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc cải thiện hiệu suất logistics đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết tại Sri Lanka (SL). Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định tính và định lượng dữ liệu từ các nguồn thứ cấp, các chỉ số Logistics (LPI) được sử dụng như một công cụ để phân tích hiệu suất hậu cần qua biên giới SL. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng xác định những nguyên nhân chính trong hạn chế của dịch vụ thực hiện giao hàng hiện nay và những đối mới trong quy định chính sách hiện hành. Theo đó, các công ty tham gia vào các hoạt động hậu cần logistics trong SL đã sử dụng không hiệu quả các hệ thống công nghệ hiện đại cơ sở hạ tầng tiên tiến. Bên cạnh đó, tại một số cửa khẩu, cảng biển mối quan hệ giữa hải quan và các cơ quan quản lý biên giới khác vẫn không đạt được sự liên kết chặt chẽ trong việc quản lí xuất nhập khẩu hàng hóa. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất nhập khẩu cũng như chất lượng cung cấp dịch vụ logistics tại các cửa khẩu, cảng biển của các quốc gia. Bài viết “Phát triển logistics cửa khẩu: Khâu quan trọng trong xây dựng khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” của tác giả Hoàng Tín trên Nhật Báo Quảng Tây năm 2013. Bài viết nêu rõ: từ khi Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - Asean được xây dựng, ngành logistics của Quảng Tây đã có bước phát triển nhanh chóng, trong đó logistics cửa khẩu là một bộ phận chủ lực, có vai trò vô cùng quan trọng. Cách đây không lâu, tại diễn đàn xây dựng khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới hai nước Việt Trung được tổ chức ở Đông Hưng, các chuyên gia đều nhận định, logistics của Đông Trang 9 / 92
  10. Hưng, Bằng Tường là logistics cửa khẩu, do vậy, việc xây dựng khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới sẽ có tác dụng thúc đẩy logistics cửa khẩu phát triển nhanh chóng. Logistics cửa khẩu là một hình thức đặc biệt của ngành dịch vụ vận tải hiện đại, so với các hình thức dịch vụ vận tải khác, logistics cửa khẩu nổi trội hơn ở tính quốc tế hoá, tính quy phạm trong quy trình, tính quản lý trong vận hành, có ưu thế tổng hợp của gia công, xuất nhập khẩu và thương mại biên giới. Đây chính là tôn chỉ trong xây dựng khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới. Khi khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới được xây dựng, các chức năng như cơ sở vật chất logistics, sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ, nguồn thông tin logistics đầy đủ, hoàn thiện cũng sẽ có sự phát triển tương ứng, đồng thời đáp ứng nhu cầu của ngành logistics cửa khẩu trên các phương diện vận tải, kho bãi, đại lý hàng hoá… Logistics cửa khẩu là cơ sở hạt nhân trong phát triển khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới. Với ưu thế là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, kết nối và những chính sách mở cửa với nước ngoài, phạm vi và tầm ảnh hưởng của hệ thống logistics cửa khẩu trong khu hợp tác kinh tế sẽ ngày một mở rộng. Logistics cửa khẩu sẽ thúc đẩy mạnh mẽ gia công xuất nhập khẩu và thương mại cửa khẩu phát triển, đưa khu hợp tác xuyên biên giới trở thành môi trường điều chỉnh các nguồn tài nguyên trong và ngoài nước trong chuỗi sản xuất, trở thành một cực tăng trưởng trong phát triển kinh tế khu vực. - Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB). Trong các báo cáo “Connecting to Compete: Trade Logistics in global economy / Kết nối để cạnh tranh: logistics thương mại trong kinh tế toàn cầu” được công bố vào các năm 2007, 2010 và 2012, WB đã xây dựng và công bố Chỉ số năng lực logistics của một quốc gia (LPI), được đánh giá thông qua 6 nhóm yếu tố: Năng lực thông quan; Kết cấu hạ tầng cho hoạt động logistics, bao gồm cả kết cấu hạ tầng cố định (cảng biển, đường sá, kho bãi…) và kết cấu hạ tầng dịch vụ thông tin liên lạc; Vận tải biển quốc tế; Năng lực và chất lượng dịch vụ logistics; Khả năng truy xuất (khả năng theo dõi tình trạng hàng hóa sau khi gửi) và Mức độ đúng hạn về thời gian thông quan và dịch vụ. Chỉ số LPI của WB được xây dựng thông qua việc tiến hành điều tra các nhà hoạt động logistics ở 155 quốc gia trên thế giới và được sử dụng rộng rãi để đánh giá trình độ phát triển logistics của một quốc gia, một khu vực, một nhóm quốc gia… cũng như so sánh trình độ phát triển logistics giữa các quốc gia, các khu vực, các nhóm nước trên toàn thế giới. Các Trang 10 / 92
  11. báo cáo về LPI của WB cung cấp một bức tranh tổng thể về hiện trạng logistics toàn cầu cũng như của các quốc gia, các khu vực trên thế giới. - Tác phẩm “Business Logistics: Supply Chain Management / Logistics thương mại: quản trị chuỗi cung ứng” của Ballou (2004). Tác giả coi logistics là dòng vận động của nguyên vật liệu/hàng hóa, thông tin và tài nguyên giữa các phần tử trong cùng một chuỗi cung ứng thống nhất liên quan đến hoạt động của một doanh nghiệp. Một chuỗi cung ứng là một nhóm gồm các tổ chức kết nối trực tiếp bằng một hay nhiều dòng chảy xuôi hoặc ngược của sản phẩm, dịch vụ, tài chính và thông tin từ một nhà cung ứng đến khách hàng. Cũng có thể coi chuỗi cung ứng là tập hợp các quy trình, các chức năng và các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ, liên quan mật thiết đến nhau, bao gồm việc mua hàng và giải phóng hàng, vận tải xuất nhập, nhận hàng, xử lý nguyên liệu, lưu kho và phân phối, kiểm soát và quản lý tồn kho, lên kế hoạch cung cầu, xử lý đơn hàng, lên kế hoạch sản xuất, vận tải đường biển, gia công hàng và dịch vụ khách hàng… Các nghiên cứu và bài viết ở nước ngoài cho thấy, tìm kiếm sự thích ứng giữa năng lực cung ứng của dịch vụ logistics tại cửa khẩu và nhu cầu vận tải hàng hóa qua các khu kinh tế cửa khẩu là một vấn đề lớn và khó khăn nhưng vô cùng bức thiết và luôn được quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Việc đưa ra các giải pháp hiệu quả cần được nhìn nhận ở góc độ các cân đối kinh tế lớn về các dòng chảy hàng hóa trên cả phạm vi nội địa và quốc tế. Đặc biệt các thay đổi trong xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa thể hiện qua các hiệp ước kinh tế và thương mại giữa các quốc gia trong khu vực và châu lục ảnh hưởng rất lớn đến chiều hướng và quy mô của các dòng hàng hóa vận động. Tổng quan về những nghiên cứu trong và ngoài nước trên đây cho phép rút ra các kết luận sau: - Từ tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy liên quan đến logistics và phát triển logistics ở Việt Nam chủ yếu là các công trình nghiên cứu ở góc độ vĩ và trung mô, mang tính chất khái quát, hoặc chỉ tập trung vào một khía cạnh nội dung nhất định của logistics. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có một nghiên cứu cụ thể và đầy đủ, toàn diện về logistics và phát triển logistics tại một địa phương cụ thể. - Nghiên cứu các khu kinh tế cửa khẩu trên thế giới có vai trò vô cùng quan Trang 11 / 92
  12. trọng trong phát triển kinh tế quốc gia và hệ thống kinh tế toàn cầu. Các khu kinh tế cửa khẩu luôn là một khâu kết nối y cho hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia cụ thể cần xác lập đúng đắn và đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của hệ thống dịch vụ logistics trong xuất nhập khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu đó trong những tình huống và liên kết đặc thù để dự tính và đề xuất các giải pháp có tính xác thực và tổng thể. - Phát triển khu kinh tế cửa khẩu ngoài các giải pháp tất yếu từ phía phát triển hạ tầng hiện đại còn phải đặc biệt coi trọng việc phát triển dịch vụ logistics nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu cũng như tính toán và dự báo nhu cầu hàng hóa qua cửa khẩu trong tương quan vị thế khu kinh tế cửa khẩu quốc gia và khu vực. - Sự lớn mạnh của dịch vụ hậu cần logistics tại các cửa khẩu phụ thuộc lớn vào năng lực kinh tế và quản lí của địa phương có khu kinh tế cửa khẩu, các khu kinh tế trọng điểm, các hành lang kinh tế và sự thông suốt của mạng lưới GTVT kết nối với khu kinh tế cửa khẩu. - Sự lớn mạnh của các trung tâm kinh tế tiêu dùng, các xu hướng hợp tác quốc tế và hình thành khu vực thương mại tự do làm biến đổi khá nhiều nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa và quyết định lớn đến quy mô các dòng hàng tại các khu kinh tế cửa khẩu quốc tế. - Vai trò quản lý và điều tiết hoạt động dịch vụ hậu cần logistics tại khu kinh tế cửa khẩu từ góc độ địa phương và quốc gia sẽ quyết định phần lớn tính cân đối của nhu cầu và khả năng xuất nhập của các cửa khẩu. Những đánh giá tổng quan ở trên còn cho thấy, nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch vụ logistics tới việc đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa qua khu kinh tế cửa khẩu tại một địa phương cụ thể là một vấn đề mới, nảy sinh do yêu cầu của xu hướng hội nhập toàn cầu. Trong bối cảnh hệ thống khu kinh tế cửa khẩu tại Cao Bằng hiện nay, việc tiếp tục tìm ra những giải pháp để phát triển dịch vụ logistics nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa qua các khu kinh tế cửa khẩu không chỉ giúp cho các hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng hiệu suất mà còn giúp khẳng định đúng đắn vị trí của hệ thống khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng trong hệ thống kinh tế quốc gia. Là cơ sở để tiếp tục quy hoạch và xây dựng khu kinh tế cửa khẩu theo hướng đạt được những mục tiêu của tỉnh và cả nước với hệ thống cửa khẩu trong tương lai. Trang 12 / 92
  13. Đề tài là một hướng đi mới và độc lập giúp giải quyết những bức xúc trước mắt và kiến nghị một số những định hướng phát triển về lâu dài cho dịch vụ logistics tại khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng cũng như bài học kinh nghiệm cho hệ thống dịch vụ logistics nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam. 3. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm tổng quan được cơ sở lý thuyết về lợi thế cạnh tranh, logistics và mối quan hệ về mặt lý thuyết giữa hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp và logistics, trên cơ sở đó phân tích đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch vụ logistics tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh qua khu kinh tế của khẩu Cao Bằng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện dịch vụ logistics nhằm đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của dịch vụ logistics đến hoạt động xuất khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Đề tài chủ yếu sẽ tập trung vào việc xác định chính xác các nhân tố cấu thành năng lực logistics và trên cơ sở đó sẽ đánh giá xem tác động của các năng lực này tới họat động của các doanh nghiệp xuất khẩu tại khu cửa khẩu Cao Bằng như thế nào. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: Đề tài sẽ chỉ ra mối quan hệ giữa logistics và hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp qua cửa khẩu Cao Bằng; Đề tài sẽ phân tích chi tiết thực trạng các năng lực logistics ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp qua cửa khẩu Cao Bằng. Thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng logistics trong khoảng thời gian từ 2016 đến nay 5. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận cơ bản của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể sử dụng trong đề tài bao gồm: Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài là tổng hợp phân tích dữ liệu nhằm đánh giá thực trạng và tiềm năng khả năng thích ứng hệ thống dịch vụ logistics hàng Trang 13 / 92
  14. hóa xuất nhập khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Cao Bằng, với năng lực sản xuất, xuất nhập khẩu của vùng và khu kinh tế trong những năm qua và với liên kết vùng kinh tế trọng điểm Tây Bắc. Trong từng nội dung cụ thể, tuỳ thuộc yêu cầu và điều kiện nghiên cứu, nghiên cứu sử dụng các các phương pháp nghiên cứu khác nhau để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến nội dung. Các phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh, … được sử dụng để phân tích các nội dung liên quan đến cơ sở lý luận cũng như các nội dung nghiên cứu ảnh hưởng của logistics tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu qua khu vực cửa khẩu Cao Bằng. Các phương pháp toán, thống kê, điều tra chọn mẫu được sử dụng để thu thập, điều tra và xử lý số liệu điều tra phục vụ cho phân tích thực trạng phát triển của hệ thống logistics cũng như tác động của logistics tới hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu qua khu vực cửa khẩu Cao Bằng. Cụ thể sẽ được trình qua thực tế thu thập dữ liệu thứ cấp, sơ cấp và xử lý dữ liệu thu thập được sau đây. Thu thập dữ liệu thứ cấp Thu thập thông tin, dữ liệu và các kết quả đi trước đã công bố, có liên quan đến chủ đề nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau. Từ các số liệu đã được thống kê và tổng hợp tại các cơ quan quản lý Nhà nước của tỉnh Cao Bằng và các tỉnh/thành trong khu vực Tây Bắc. Các cơ quan cung cấp số liệu và phối hợp tham gia nghiên cứu gồm:  Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu, các ban quản lý cửa khẩu tỉnh Cao Bằng  Sở Công Thương, Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Cao Bằng;  Cục Hải Quan tỉnh Cao Bằng; Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng và các tỉnh Tây Bắc khác (thông qua tổng hợp các niên giám thông kê 2016 trở về trước của các tỉnh/thành này). Thực tế, dữ liệu thứ cấp thu thập được không đủ để đảm bảo cho quá trình phân tích và xử lý dữ liệu. Vì vậy, dữ liệu sơ cấp được tiến hành thu thập bổ sung thông qua phỏng vấn một số doanh nghiệp điển hình và khảo sát bảng hỏi điều tra với 02 đối tượng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các đơn vị quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Thu thập dữ liệu sơ cấp Dữ liệu sơ cấp của nghiên cứu được thu thập bằng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Đối tượng điều tra bao gồm: Trang 14 / 92
  15. + Các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý tại các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Cao Bằng. + Các nhà quản trị xuất nhập khẩu, logistics của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và cung ứng dịch vụ logistics tại tỉnh Cao Bằng. + Các nhà quản lý của các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. + Phỏng vấn một số doanh nghiệp điển hình: Nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số doanh nghiệp điển hình trong các đợt khảo sát thực địa tại tỉnh Cao Bằng. Cụ thể, tiến hành phỏng vấn chuyên sâu đối với lãnh đạo chủ chốt của một số doanh nghiệp xuất khẩu và các đơn vị quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Nội dung tập trung vào những đánh giá của họ về các năng lực logistics có những ảnh hưởng khác nhau như thế nào đến hoạt động xuất khẩu. Quy trình xử lý, phân tích dữ liệu Quy trình thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu của đề án được minh họa như hình 2. Cụ thể, đối với dữ liệu thứ cấp, điểm của từng trụ cột được tính bằng cách so sánh theo tỉ lệ phần trăm của từng yếu tố cấu thành nên trụ cột của một tỉnh so với tỉnh có giá trị lớn nhất của yếu tố. Giá trị của trụ cột bằng giá trị trung bình của các yếu tố thành phần. Đối với dữ liệu thứ cấp, việc tính điểm trung bình của từng yếu tố được tính trên thang điểm likert 5 mức, để so sánh đánh giá, trên nhiều khía cạnh và nhiều đối tượng khảo sát, thực trạng thích ứng giữa hệ thống dịch vụ logistics hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu tỉnh Cao Bằng, với năng lực sản xuất, xuất nhập khẩu của vùng và khu kinh tế trong những năm qua và với liên kết vùng kinh tế trọng điểm Tây Bắc. 6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Đề tài ngoài phần mở đầu, nghiên cứu được chia ra làm ba chương Chương 1: Cơ sở lý luận về Logistics và ảnh hưởng của Logistics đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp qua khu cửa khẩu Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của Logistics đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp qua cửa khẩu Cao Bằng Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực logistics hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu qua cửa khẩu Cao Bằng. Trang 15 / 92
  16. CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LOGISTICS VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA LOGISTICS ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP QUA KHU CỬA KHẨU 1.1. Khu kinh tế cửa khẩu với phát triển kinh tế quốc gia và quá trình toàn cầu hóa 1.1.1. Khu kinh tế cửa khẩu Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) được dùng phổ biến tại Việt Nam trong một số năm gần đây, khi quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã có bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của các nước thông qua cửa khẩu biên giới. Theo Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 05 năm 2018 “Quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế” của Chính phủ, “Khu kinh tế cửa khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên giới đất liền và địa bàn lân cận khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này” (Điều 2, Khoản 7 mục b). Nghị định này cũng quy đinh các điều kiện bổ sung mới KKTCK vào quy hoạch phát triển KKTCK (Điều 16, khoản 2), điều kiện mở rộng khu kinh tế trong quy hoạch phát triển khu kinh tế (Điều 16, khoản 3), cũng như về Hồ sơ, thẩm định thành lập, mở rộng khu kinh tế (từ Điều 17 đến Điều 23). Về bản chất, KKTCK có những đặc điểm giống với các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu kinh tế - quốc phòng ... (Lord và Tangtrongita, 2014; Trần Báu Hà, 2017), cụ thể: Thứ nhất, về tư cách pháp nhân, các mô hình kinh tế này đều được thành lập theo quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, đều được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương, đều có một không gian kinh tế xác định. Thứ hai, các khu kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình với vùng hay kinh tế cả nước. Điểm khác nhau giữa KKTCK với các hình thức khu kinh tế khác ở vị trí và điều kiện hình thành (Lord và Tangtrongita, 2014; Trần Báu Hà, 2017), cụ thể: Thứ nhất, để thành lập được KKTCK, điều kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu (hoặc biên giới quốc gia với nhau để hình thành cửa khẩu), là khu vực có hoặc không có dân cư sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước, ngoài nước. Thứ hai, mục đích thành lập KKTCK nhằm ưu tiên phát triển thương mại, XNK, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ gồm có: hoạt động XNK, tạm nhập, tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, Trang 16 / 92
  17. các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và các chi nhánh đại diện các công ty nước ngoài, trong nước, chợ cửa khẩu. Thứ ba, khác với khu chế xuất và khu công nghiệp, nguồn hàng hoá để trao đổi ở KKTCK có thể là tại chỗ, có thể là nơi khác đưa đến. Các chính sách ưu tiên cũng khác nhau phù hợp với từng loại hình và địa phương nơi chúng được thành lập. Đối với KKTCK là các hoạt động về thương mại, dịch vụ đặt lên hàng đầu gắn với cửa khẩu chịu sự tác động mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có đường biên giới chung. Do vậy, nguồn hàng hóa tại chỗ và từ nơi khác (các vùng kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của nó. Mặt khác, hoạt động của KKTCK còn liên quan nhiều đến thông lệ quốc tế, vấn đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai nước thông qua cặp cửa khẩu và hệ thống các đường giao thông. 1.1.2. Vai trò của KKTCK đối với phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia Các KKTCK có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, kinh tế quốc tế nói riêng của một quốc gia; tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đất nước và đặc biệt đối với các tỉnh biên giới (Pongsawat, 2007; Buyle, 2015; Trần Báu Hà, 2017). Cụ thể:  Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân: (i) Phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngoài vào nội địa thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các KKTCK; (ii) Tạo điều kiện phát huy tiềm năng, ưu thế các địa phương biên giới; (iii) Hạ tầng cơ sơ vật chất kĩ thuật được cải thiện đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương; (iv) Cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương và các khu vực lân cận; (v) Góp phần mở rộng giao lưu buôn bán, mở rộng thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm, tăng kim ngạch XNK, tạo lợi thế cạnh tranh trước mắt và lâu dài cho các sản phẩm, ngành hàng chủ lực  Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: (i) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại, hình thành các hệ thống, mạng lưới phân phối, cung cấp các dịch vụ đi kèm, du lịch, công nghiệp; (ii) Đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá đối với các tỉnh và vung kinh tế kết nối, đặc biệt các tỉnh miền núi biên giới có KKTCK.  Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước: (i) Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất; (ii) kiến tạo những yếu tố nền tảng để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngoài nước; (iii) thực hiện phân công lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trang 17 / 92
  18.  Đối với phát triển xã hội: (i) Nâng cao phúc lợi xã hội, giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành nhiều trung tâm tạo việc làm mới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. (ii) Tác động lan toả mạnh mẽ thúc đẩy phát triển xã hội, đặc biệt là các vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều khó khăn.  Đối với an ninh quốc phòng: Tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới thông qua các KKTCK (i) thu hút dân cư đến làm ăn, sinh sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới. Bên cạnh đó, (ii) các lực lượng công an, hải quan, biên phòng tại KKTCK được tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt. Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực. 1.3. Nghiên cứu cơ sở lý luận về dịch vụ logistics và mối quan hệ logistics và chuỗi cung ứng 1.3.1. Logistics và dịch vụ logistics Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc Hy Lạp - logistikos - phản ánh môn khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật chất và kỹ thuật để cho quá trình chính yếu được tiến hành đúng mục tiêu. Bắt nguồn từ quân sự, đến những năm 1970, logistics mới bắt đầu được thừa nhận như một hoạt động nội bộ trong tổ chức, với vai trò chính là tối ưu hóa cung ứng các nguồn lực cho các bộ phận vận hành. Trong những năm 1980, khái niệm “just-in-time”*, gắn liền với các dòng lưu chuyển hàng hóa và thông tin, mở rộng logisitics là một chức năng xuyên suốt trong tổ chức, theo chiều ngang, hỗ trợ phối hợp vận hành của các bộ phận khác, theo chiều dọc, hỗ trợ kết nối cấp nghiệp vụ và cấp chiến lược của tổ chức. Từ những năm 1990, nỗ lực giảm chi phí và tăng chất lượng dịch vụ trong nghiên cứu và thực tế hình thành khái niệm chuỗi cung ứng (Supply Chain), tối ưu hóa vượt ra ngoài phạm vi một tổ chức (Ballou, 2007). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành Logistics, có rất nhiều khái niệm về thuật ngữ này. Từ “Logistics” được giải nghĩa bằng tiếng Anh trong từ điển Oxford (1995) như sau: “Logistics có nghĩa là việc tổ chức cung ứng và dịch vụ đối với một hoạt động phức hợp * “Đúng sản phẩm - với đúng số lượng - tại đúng nơi - vào đúng thời điểm cần thiết” Trang 18 / 92
  19. nào đó”. Theo Nguyễn Hồng Thanh (2007), logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản nguyên liệu, bán thành phẩm và thành phẩm để đạt hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Khái niệm logistics là một loại hình dịch vụ cũng đã được sử dụng chính thức trong Luật thương mại 2005, tại Điều 233: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”. Như vậy có thể thấy các hoạt động cơ bản của Logistics bao gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa. Và bằng việc kinh doanh các dịch vụ này thì các doanh nghiệp logisitcs sẽ nhận được thù lao từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các cá nhân sử dụng dịch vụ. Quản trị logistics là một bộ phận của quá trình chuỗi cung ứng, bao gồm việc hoạch định, thực hiện và kiểm soát có hiệu lực, hiệu quả các dòng vận động và dự trữ hàng hóa, dịch vụ cùng các thông tin có liên quan từ điểm khởi đầu đến các điểm tiêu thụ theo đơn đặt hàng nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, bao trùm mọi yếu tố tạo nên sản phẩm từ các nhập lượng đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Các nguồn tài nguyên đầu vào không chỉ bao gồm vốn, vật tư, nhân lực mà còn bao hàm cả dịch vụ, thông tin, bí quyết và công nghệ. Các hoạt động này cũng được phối kết trong một chiến lược kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp từ tầm hoạch định đến thực thi, tổ chức và triển khai đồng bộ từ mua, dự trữ, tồn kho, bảo quản, vận chuyển đến thông tin, bao bì, đóng gói… Và chính nhờ vào sự kết hợp này mà các hoạt động kinh doanh được hỗ trợ một cách tối ưu, nhịp nhàng và hiệu quả, tạo ra được sự thoả mãn khách hàng ở mức độ cao nhất hay mang lại cho họ những giá trị gia tăng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Trang 19 / 92
  20. Hình 1: Các thành phần và hoạt động cơ bản của hệ thống logistics Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân (2006) Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp có tác động và gắn liền với những biến đổi trong hoạt động logistics, tương ứng cũng được chia thành bốn giai đoạn, gồm: Công nghiệp và logistics 1.0; Công nghiệp và logistics 2.0; Công nghiệp và logistics 3.0; và Công nghiệp và logistics 4.0. Như vậy, tiến trình phát triển logistics luôn gắn liền với sự phát triển công nghiệp. Nói cách khác, logistics phát triển cùng với sự tiến bộ kỹ thuật của cách mạng công nghiệp trên thế giới (Domingo, 2016). Mức độ phức tạp Máy tính và công nghệ Năng lượng điện và sản Động cơ hơi nước thông tin IT xuất hàng loạt CƠ KHÍ HÓA VẬN HỆ THỐNG QUẢN TRỊ Sử dụng Internet TỰ ĐỘNG HÓA HỆ PHÁT TRIỂN INTERNET CHUYỂN LOGISTICS THỐNG XỬ LÝ VẠN VẬT VÀ INTERNET Từ sức kéo động Ứng dụng thiết bị Thông qua sử dụng WMS, vật đến phát triển DỊCH VỤ logisitics tự động như TMS, và ứng dụng rộng rãi hệ thống đường sắt, CNTT Hệ thống RFID kho bãi và phân loại tự vận tải thủy và hàng động Trung tâm NACCS trong hệ Hệ thống điều khiển Vật lý không thống cơ sở hạ tầng Khai thác dữ liệu Cơ giới hóa kho hàng hóa Cuối thế 1800 1969 2000 Hiện nay kỷ 18 2018 Hình 2: Lịch sử phát triển logistics Nguồn:Báo cáo cục thương mại điện tử, 2018 Sự chuyển dịch của Logistics 4.0 bắt đầu trong thế kỷ 21, cùng với ứng dụng trong Trang 20 / 92
nguon tai.lieu . vn