Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA TIẾNG ANH ------ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất Đại học Thương mại Người thực hiện : Nguyễn Thị Thanh Huyền Đơn vị công tác : Bộ môn Lý thuyết tiếng Anh, Khoa tiếng Anh HÀ NỘI – 3/2017 1
  2. TÓM LƯỢC Trong qua trình dạy và học ngoại ngữ nói chung và học tiếng Anh nói riêng, phát âm chuẩn luôn đóng vai trò quan trọng. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc học các kỹ năng cơ bản để nắm bắt một ngoại ngữ đặc biệt là kỹ năng nghe nói. Tuy nhiên, đa số người học ngoại ngữ chưa thực sự chú trọng đến việc phát âm chính xác và nâng cao khả năng phát âm. Xuất phát từ thực tế đó kết hợp với những đánh giá về khả năng phát âm của sinh viên trường Đại học Thương mại (ĐHTM) nói chung và sinh viên năm thứ nhất không chuyên của trường nói riêng đúc rút từ kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất Đại học Thương mại” nhằm tìm hiểu những lỗi phát âm của sinh viên năm thứ nhất không chuyên, trường ĐHTM, nguyên nhân gây ra những lỗi đó và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng phát âm chính xác của đối tượng sinh viên này, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh trong nhà trường. Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm cơ bản liên quan đến phát âm như: Khái niệm phát âm, âm tiết, trọng âm, ngữ điệu, thanh điệu, các đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh, tác giả đã tiến hành phân tích hai hệ thống âm tiếng Anh và tiếng Việt làm căn cứ khoa học để xá định các lỗi phát âm của sinh viên một cách chuẩn xác hơn; điều tra thực trạng phát âm của sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường ĐHTM, nguyên nhân gây ra các khó khăn cho sinh viên trong quá trình học phát âm và mong muốn của sinh viên trong việc nâng cao khả năng phát âm của bản thân và chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh tại trường ĐHTM. Điều tra được tiến hành với sinh viên chính quy năm thứ nhất K52 và sinh viên năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế, và một số giáo viên trong Khoa. Công cụ được sử dụng để điều tra gồm một phiếu điều tra phát cho sinh viên chính quy năm thứ nhất K52 và sinh viên năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế, các từ và các phát ngôn tiếng Anh để ghi âm cách đọc của sinh viên, một bản câu hỏi phỏng vấn dành cho giáo viên giảng dạy các học phần tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất. Kết quả điều tra chỉ ra rằng sinh viên Khoa Tiếng Anh hay mắc phải các lỗi phát âm sau: lỗi phát âm nguyên âm (cụ thể là không phân biệt được các nguyên âm ngắn, nguyên âm dài và các nguyên âm khó không có trong tiếng Việt), lỗi phát âm phụ âm (phát âm sai các phụ âm không có trong tiếng Việt, phát âm sai phụ âm trong từ gốc và không đọc phụ âm cuối, sai cách đọc phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed, ngọng n, l, và phát âm sai các cụm phụ âm), lỗi trọng âm (từ và câu), lỗi ngữ điệu. Nguyên nhân dẫn tới các lỗi này là do: sinh viên ít luyện tập phát âm, thiếu trang thiết bị và cơ sở vật chất khi học môn ngữ âm nói riêng và các môn tiếng Anh nói chung, những thói quen phát âm cũ, ảnh hưởng của tiếng địa phương, phương pháp sửa lỗi của giáo viên chưa phù hợp, sinh viên chưa biết/ 2
  3. chưa tra cách đọc khi gặp từ mới dẫn tới tình trạng phát âm theo cáh phán đoán của bản thân, khác biệt giữa âm tiếng Anh và tiếng Việt, tốc độ nói (quá nhanh hoặc quá chậm). Dựa trên các kết quả thu thập được, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế việc lỗi phát âm của sinh viên năm thứ nhất, nâng cao khả năng phát âm của họ, đồng thời đề xuất một số hoạt động để giáo viên có thể linh hoạt áp dụng vào quá trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh trong nhà trường. 3
  4. LỜI CẢM ƠN Trước tiên tác giả muốn gửi lời cảm ơn tới Nhà trường, Phòng Quản lý Khoa học, các giáo viên dạy tiếng Anh của Khoa Tiếng Anh đặc biệt là Bộ môn Lý thuyết tiếng đã tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành dự án đúng thời hạn và đạt kết quả khả quan. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các em sinh viên năm thứ nhất K52và sinh viên năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế và giáo viên Bộ môn Lý thuyết tiếng đã nhiệt tình tham gia trả lời phiếu khảo sát, ghi âm và tham gia phỏng vấn, giúp nhóm tác giả thu thập được những tài liệu, số liệu quý giá phục vụ cho nghiên cứu. 4
  5. MỤC LỤC Trang TÓM LƯỢC ............................................................................................................................... 1 LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................. 4 MỤC LỤC .................................................................................................................................. 5 DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................................ 7 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................................... 8 Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI................................................................... 9 1.1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................... 9 1.2. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................... 10 1.3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................................... 10 Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................. 11 2.1 Một số khái niệm cơ bản: ......................................................................................... 11 2.2 Những đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh: .......................................................... 12 2.3. Sự khác biệt giữa hệ thống âm tiếng Anh và hệ thống âm tiếng Việt: .......................... 12 2.3.1. Về trọng âm ............................................................................................................ 12 2.3.2. Về ngữ điệu ............................................................................................................ 13 2.3.3. Về cách nối các từ trong chuỗi lời nói .................................................................... 14 2.3.4. Về cách phát âm các cụm phụ âm .......................................................................... 15 2.3.5. Về phát âm dạng mạnh (strong form) và dạng yếu (weak form) ........................... 15 2.3.6. Về hệ thống âm ....................................................................................................... 16 2.3.7. Về ngữ pháp............................................................................................................ 19 Chương 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA ..................................................................... 20 3.1. Đối tượng điều tra .......................................................................................................... 20 3.2. Câu hỏi điều tra ............................................................................................................. 20 3.3. Công cụ điều tra............................................................................................................. 20 3.4. Phân tích đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 20 3.5. Phân tích lỗi phát âm ..................................................................................................... 21 3.5.1. Phát âm sai nguyên âm ........................................................................................... 22 3.5.2. Phát âm sai phụ âm ................................................................................................. 23 3.5.3. Phát âm sai các phụ âm không có trong tiếng Việt ................................................ 24 3.5.4. Phát âm sai phụ âm trong từ gốc và không đọc phụ âm cuối ................................. 24 3.5.5. Phát âm sai phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed .......................................................... 25 3.5.6. Ngọng l, n ............................................................................................................... 26 5
  6. 3.5.7. Phát âm sai các cụm phụ âm................................................................................... 27 3.5.8. Phát âm sai trọng âm .............................................................................................. 27 3.5.9. Sử dụng sai ngữ điệu .............................................................................................. 28 Chương 4. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ................................................................................. 32 4.1 Về phía sinh viên ............................................................................................................ 32 4.2. Về phía Nhà trường và giáo viên ................................................................................... 33 4.2.1Về phía Nhà trường .................................................................................................. 33 4.2.2Về phía giáo viên ...................................................................................................... 34 KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 35 Một số phần mềm học tiếng Anh tham khảo ............................................................................ 36 PHIẾU ĐIỀU TRA DÀNH CHO SINH VIÊN ........................................................................ 39 BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN DÀNH CHO GIÁO VIÊN ................................................. 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 42 6
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU - Biểu đồ 1: Sở thích của sinh viên đối với tiếng Anh - Biểu đồ 2: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc học phát âm - Biểu đồ3: Đánh giá của sinh viên về khả năng phát âm của bản thân - Biểu đồ 4: Đánh giá của sinh viên về độ khó của việc học phát âm - Biểu đồ 5: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm nguyên âm - Biểu đồ 6: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm các phuậm độc lập - Biểu đồ 7: Tỷ lệ phát âm sai phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed - Biểu đồ 8: Tỷ lệ ngọng l,n - Biểu đồ 9: Tỷ lệ phát âm sai các cụm phụ âm - Biểu đồ 10: Tỷ lệ sinh viên sử dụng sai trọng âm từ, trọng âm câu - Biểu đồ 11: Nhận thức của sinh viên về ngữ điệu - Biểu đồ 12: Nguyên nhân dẫn tới các lỗi phát âm của sinh viên. - Bảng 1: Hệ thống âm nguyên âm tiếng Việt - Bảng 2: Hệ thống âm phụ âm tiếng Anh - Bảng 3: Hệ thống âm phụ âm tiếng Việt - Bảng 4: Số lượng sinh viên phát âm sai nguyên âm trong các từ cho trước - Bảng 5: Số lượng sinh viên phát âm sai phụ âm trong các từ cho trước - Bảng 6: Số lượng sinh viên sử dụng sai ngữ điệu 7
  8. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - ĐHTM : Đại học Thương Mại - PÂ : Phát âm - PV : Phát ngôn - SV : Sinh viên - T.A : T.Anh : Tiếng Anh - T.Việt : Tiếng Việt 8
  9. Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, việc học và sử dụng tiếng Anh để giao tiếp là nhu cầu thiết yếu, đặc biệt là đối với sinh viên. Làm thế nào để giao tiếp có hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào việc phát âm chuẩn xác của người tham gia giao tiếp và mục đích cuối cùng và cốt lõi của việc dạy và học tiếng Anh là người học có thể sử dụng nó như một phương tiện giao tiếp hiệu quả. Việc sử dụng tiếng Anh khẩu ngữ có hiệu quả hay không phần lớn phụ thuộc vào độ chính xác trong phát âm của người tham gia giao tiếp bởi vì “ngữ âm đóng vai trò quan trọng giúp người khác hiểu ta muốn nói gì và ngược lại” (Brazil (1994)). Phát âm là một trong ba thành tố ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc hỗ trợ người học tiếp cận khả năng phát và nhận của người bản ngữ, đồng thời cũng giúp phát triển các kĩ năng ngôn ngữ của mình. Tench (1981) đã chỉ ra rằng thiếu chuẩn xác trong hình thức từ hay cấu trúc câu và mệnh đề, việc lựa chọn sai từ trong văn cảnh hay sai văn phong, tất cả đều tạo ra những cản trở trong giao tiếp nhưng không có thành tố ngôn ngữ nào làm méo mó nội dung như sự thiếu chính xác trong phát âm. Điều này có nghĩa là phát âm sai có thể gây ra những hiểu nhầm trong giao tiếp hằng ngày. Do đó việc phát âm chuẩn và nắm được các cách phát âm chính xác đã ngày càng được chú trọng trong việc học tiếng Anh hiện nay.. Phát âm luôn là một trở ngại đáng kể đối với người Việt học tiếng Anh ở tất cả các cấp độ. Học sinh ở các trường phổ thông ở Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng nhiều về kỹ năng đọc và viết nên kỹ năng nghe và nói của các em còn yếu, đặc biệt các em vẫn chưa coi trọng và chưa có phương pháp để phát âm chuẩn. Chính vì vậy lên Đại học các em gặp rất nhiều khó khăn trong các giờ học có các phần nghe nói. Hầu hết sinh viên không nắm kỹ về đặc điểm cấu âm, sự khác nhau giữa tiếng Anh và tiếng Việt nên các em thường bị tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát âm và nói tiếng Anh. Hiên nay, sinh viên ra trường đi xin việc hầu hết phải tham dự phỏng vấn bằng tiếng Anh nếu thi tuyển có tiếng Anh. Có rất ít nơi chỉ tổ chức thi viết. Hơn nữa các vị trí việc làm có mức lương cao đặc biệt các công ty có giao dịch bằng tiếng Anh luôn đòi hỏi nhân viên phải có khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt. Vì vậy, việc dạy nghe nói tiếng Anh trong các trường đại học đã và đang được chú trọng . Trong đó việc phát hiện ra các lỗi phát âm của sinh viên trong quá trình dạy và học tiếng Anh là vô cùng cần thiết và cấp bách. Phát âm tiếng Anh đối với những người học tiếng Anh như một ngoại ngữ là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm và nghiên cứu vì khả năng phát âm tiếng Anh ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nói trôi chảy cũng như quá trình giao tiếp. Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã tiến hành các nghiên cứu về những khó khăn của học viên Việt Nam trong việc phát âm 9
  10. tiếng Anh và khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của người Việt như Hà Cẩm Tâm và một số giáo viên của các trường phổ thông, đại học như Khảo sát việc thể hiện âm tắc tiếng Anh của sinh viêntrường cao đẳng Công nghiệp Tuy hòa của Võ Thị Thao Ly và Nguyễn Thị An. Tuy nhiên việc nâng cao, cải thiện phát âm và dạy phát âm cho học sinh vẫn chưa được chú trọng. Thậm chí nhiều giáo viên dạy tiếng Anh nhất là vùng nông thôn còn chưa phát âm chuẩn. Một số trường phổ thông cũng chỉ tổ chức các khoá học nâng cao khả năng phát âm cho giáo viên. Trên thực tế các nghiên cứu về lỗi phát âm của sinh viên không chuyên thuộc khối trường Kinh tế chưa nhiều và chưa được triển khai sâu rộng. Đồng thời các giải pháp đưa ra cũng chưa được áp dụng nhiều hay chưa có tính thực tế cao. Hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu, khảo sát về các lỗi phát âm của sinh viên không chuyên năm thứ nhất được tiến hành tại Trường Đại học Thương Mại. Vì vậy tác giả đã đề xuất nghiên cứu đề tài này với mong muốn tìm ra những lỗi phát âm tiếng Anh sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Thương mại nói riêng và người Việt nói chung thường mắc khi nói tiếng Anh, tìm ra nguyên nhân và nêu ra một số đề xuất khắc phục. 1.2. Đối tượng nghiên cứu Đề tài Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường Đại học Thương mại nghiên cứu những lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất không chuyên tại trường đại học Thương mại. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Thực hiện nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn sẽ thực hiện được một số mục tiêu sau đây: - Tìm ra các lỗi phát âm mà sinh viên năm thứ nhất không chuyên Trường Đại học Thương mại hay mắc phải - Xác định nguyên nhân gây ra những lỗi đó. - Tìm ra những giải pháp nhằm giúp giáo viên cũng như bản thân sinh viên hạn chế những lỗi phát âm này và nâng cao khả năng phát âm chuẩn, chính xác cho sinh viên năm thứ nhất Đại học Thương mại và giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập trong các giờ học tiếng Anh trong trường. 10
  11. Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN Thực tế cho thấy phát âm tiếng Anh luôn là một trở ngại đối với người Việt học tiếng Anh. Trong quá trình dạy và học ngoại ngữ đặc biệt là phát âm, tiếng mẹ đẻ luôn là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp nhận mgoại ngữ khác. Và việc tiếp nhận một hệ thống âm tiếng nước ngoài luôn là một vấn đề khó khăn lớn đối với người học. Theo Nunan (1991), các vấn đề trong việc tiếp nhận ngữ âm của ngôn ngữ thứ hai là một thách thức lớn đối với bất cứ một học thuyết nào về việc tiếp nhận ngôn ngữ thứ hai. Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ để có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với người học. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích cực. Hiện tượng này xảy ra khi có sự giống nhau giữa các hệ thống ngữ âm và âm vị của tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, tạo thuận lợi cho việc tiếp nhận phát âm. Còn ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực. Hiện tượng chuyển di tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ, cần phải tìm cách khắc phục hiện tượng chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực, nghĩa là phải tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Vì vậy, để tìm hiểu những lỗi phát âm mà sinh viên không chuyên năm thứ nhất trường Đại học Thương mại mắc phải, tác giả đã tiến hành tìm hiểu một số khái niệm cơ bản liên quan đến phát âm, những đặc trưng cơ bản của tiếng Anh, từ đó so sánh hai hệ thống âm tiếng Anh và tiếng Viêt. Phân tích sự khác biệt giữa hệ thống âm tiếng Anh và Tiếng Việt có thể kiểm tra các lỗi này một cách dễ dàng hơn, ngoài ra cũng giúp cho quá trình dạy và học giao tiếp tiếng Anh hiệu quả hơn. 2.1 Một số khái niệm cơ bản: * Âm tiết: Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói mang những sự kiện ngôn điệu như thanh điệu, trọng âm. Vì vậy người ta còn gọi nó là điệu vị. * Thanh điệu: Thanh điệu là sự thay đổi cao độ của giọng nói, tức là tần số âm cơ bản trong một âm tiết có tác dụng khu biệt các từ có nghĩa khác nhau - Thanh điệu gồm hai loại: Thanh điệu âm vực và thanh điệu hình tuyến. 11
  12. + Thanh điệu âm vực là loại trong đó các thanh phân biệt nhau bằng các mức trên thang bậc cao độ, có thể miêu tả như những điểm. Ví dụ: tiếng Yoruba được nói ở Nigeria. + Thanh điệu hình tuyến là loại thanh điệu phân biệt nhau bằng sự di chuyển cao độ từ thấp lên cao hoặc từ cao xuống thấp, không được miêu tả đơn giản như những điểm mà bằng những đường cong lên xuống. Ví dụ: thanh điệu tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái. * Trọng âm: là một biện pháp âm thanh làm nổi bật một đơn vị ngôn ngữ học lớn hơn âm tố (âm tiết, từ, ngữ đoạn, câu) để phân biệt với những đơn vị ngôn ngữ học khác cùng cấp độ. Ví dụ : * Ngữ điệu: là sự biến đổi cao độ của giọng nói diễn ra trong một chuỗi âm thanh lớn hơn âm tiết hay một từ. 2.2 Những đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh: Peter Roach (1998) cho rằng tiếng Anh là một ngôn ngữ có những đặc trưng cơ bản sau: - Tiếng Anh có trọng âm từ và trọng âm câu. - Là ngôn ngữ có ngữ điệu, lên xuống giọng tùy thuộc vào chức năng giao tiếp của câu. - Có dạng yếu và dạng mạnh trong phát âm một số từ chức năng. - Có hiện tượng nối âm trong chuỗi lời nói. - Có cách phát âm các phụ âm cuối của từ rất đặc trưng. 2.3. Sự khác biệt giữa hệ thống âm tiếng Anh và hệ thống âm tiếng Việt: 2.3.1. Về trọng âm Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết và có thanh điệu, trong khi tiếng Anh là một ngôn ngữ đa âm tiết với những đặc tính phức tạp về trọng âm, ngữ điệu. Do sự khác biệt này mà người Việt thường gặp phải các khó khăn khi học phát âm tiếng Anh. Vấn đề đầu tiên mà sinh viên Việt Nam gặp phải do sự khác biệt trên là trọng âm. Tiếng Việt mỗi từ được phát âm thành một tiếng (một âm tiết) và tất cả các từ đều được phát âm như nhau về độ dài, độ cao, độ mạnh. Trong tiếng Anh, những từ hai âm tiết trở lên luôn có một âm tiết được phát âm khác biệt hẳn so với những âm tiết còn lại về độ dài, độ lớn, độ cao. polysemy/’polisimi/, invent /in’vent/, expensive /ik’spensiv/ Một số từ có thể có hai trọng âm, trọng âm chính và trọng âm phụ. Examplify /ig’zempli,fai/ Ngoài trọng âm trong từ tiếng Anh còn có trọng âm của câu. Nghĩa là một số từ trong chuỗi lời nói được phát âm mạnh hơn so với những từ còn lại. Những từ được nhấn mạnh trong chuỗi lời nói thường là những từ miêu tả nghĩa một cách độc lập như: danh từ (shirt, 12
  13. flower, people..), động từ chính (do, eat, read, travel,..) trạng từ (rapidly, fluently, correctly…), tính từ (lovely, nice, beautiful,…), từ để hỏi (what, why, who…). Những từ không được nhấn trong chuỗi lời nói là những từ chức năng như: giới từ (in, on, at…), mạo từ (a, an the), trợ động từ (must, can, have…), đại từ (he, she it,…), từ nối (and, but, or,…), đại từ quan hệ (which, what, when,…). Người Việt quen với ngôn ngữ đơn âm tiết nên rất khó cho họ để nhớ một từ dài có nhiều hơn một âm tiết. Do đặc điểm đơn âm tiết nên các từ tiếng Việt không có trọng âm. Vì vậy, càng khó khăn cho học viên Việt Nam hơn khi họ phải đọc đúng trọng âm của từ. Ngoài ra, trọng âm từ trong tiếng Anh không có một dấu hiệu chính tả cụ thể nào nên rất khó cho người học học thuộc lòng. Đó là lý do tại sao phát âm sai trọng âm hoặc không có trọng âm là một lỗi phổ biến đối với người Việt học tiếng Anh. Vì vậy, nguwoif Việt cần phải quen với khái niệm trọng âm từ, khái niệm này khác với khái niệm thanh điệu trong tiếng Việt. Trong tiếng Việt, thanh điệu luôn luôn thuộc về âm vị, trong khi trong tiếng Anh, trọng âm không phải lúc nào cũng thuộc âm vị. Sự khác biệt này gây khó khăn cho người học khi học phát âm tiếng Anh. Hơn nữa, trọng âm tiếng Anh có thể thay đổi khi thêm tiền tố, hậu tố hoặc các yếu tố từ vựng khác, nên trọng âm dường như là một thách thức lớn đối với người Việt nói chung và sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường đại học Thương mại nói riêng. 2.3.2. Về ngữ điệu Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng nói. Trong tiếng Anh có hai loại ngữ điệu đó là ngữ điệu lên (the rising tune) và ngữ điệu xuống (the falling tune). Ngoài ra có thể kết hợp cả hai và gọi là ngữ điệu kết hợp lên xuống (the rising – falling / the falling – rising tune). Trên thực tế, tiếng Việt cũng có ngữ điệu nhưng vai trò của ngữ điệu rất mờ nhạt không rõ như tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác. Vì vậy, người Việt Nam thường ít khi chú ý đến ngữ điệu. Đoàn Thiện Thuật, nhà Việt ngữ học giải thích rằng họ không chú ý nhiều đến ngữ điệu vì ngôn ngữ sử dụng thanh điệu như tiếng Việt thường có giới hạn về ngữ điệu. Thay vào đó, người Việt thường thêm một số thành tố nhằm làm thay đổi ý nghĩa của câu, ví dụ họ có thể thêm các từ: hả, hử, á, ạ,... để tạo thành câu hỏi, hoặc một số từ như: ôi, ối, á, quá, thật, làm sao,... để có được câu cảm thán. Điều này có nghĩa là người Việt Nam thay đổi tình thái các loại câu khác nhau bằng các yếu tố từ vựng chứ không phải bằng ngữ điệu. Tuy nhiên, những yếu tố này thường được phát âm với giọng mạnh hơn và cao hơn, điều này có nghĩa là ngữ điệu cũng đóng một vai trò nhỏ trong việc tạo lập các loại câu khác nhau. Mặt khác, trong tiếng Anh, ngữ điệu đóng vai trò rất quan trọng trong việc thay đổi nghĩa của câu. Với ngữ điệu khác nhau, nghĩa của cùng một phát ngôn có thể thay đổi khác nhau. 13
  14. Ví dụ: A:Excuse me? B: -Yes. (ngữ điệu xuống – không nhiệt tình giúp , có thể đang bận ) - Yes. ( ngữ điệu lên – Nhiệt tình, sẵn sang giúp đỡ = How can I help you?) Do đặc điểm về ngữ điệu này của Tiếng Anh mà sinh viên Việt Nam thường có rất nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận đúng thông tin của người nói khi họ giao tiếp bằng tiếng Anh. Họ không đánh giá cao tầm quan trọng của ngữ điệu tiếng Anh. Khi nói, họ không chú trọng hoặc chú trọng ít đến ngữ điệu. Vì vậy, khi nói tiếng Anh, họ thường bị sai về ngữ điệu. Đây cũng là lý do tại sao ngữ điệu có thể được xem là một vấn đề nghiêm trọng đối với sinh viên Việt Nam trong quá trình học Tiếng Anh. 2.3.3. Về cách nối các từ trong chuỗi lời nói Trong tiếng Anh, hiện tượng nối từ trong chuỗi lời nói rất phổ biến. Hiện tượng nối từ có thể được xem xét ở các khía cạnh sau: + Phụ âm - nguyên âm Trong một chuỗi lời nói, khi một từ kết thúc là một phụ âm và ngay sau nó là một từ bắt đầu bằng một nguyên âm, phụ âm của từ đứng trước sẽ được đọc liền với từ đứng sau. + Phụ âm - phụ âm Khi một từ kết thúc là một trong các phụ âm /p/, /b/, /t/, /d/, /k/,/g/ theo sau là các từ bắt đầu là một phụ âm thì việc phát âm các âm trên sẽ không được thực hiện. Bad- judge stop- trying keep- speaking /d/-/də / /p/-/t/ /p/-/s/ Các âm /d/, /p/ trong các ví dụ trên sẽ bị nuốt đi (không được phát âm) + Nối các âm giống nhau Khi các phụ âm ở cuối từ trước chính là phụ âm ở đầu từ sau ta có xu hướng phát âm những âm này thành một phụ âm kéo dài. Top- position black- cat big- girl /p/-/p/ /k/ - /k/ /g/-/g/ Các âm /p/, /k/, /g/ chỉ được phát âm một lần nhưng kéo dài. Như vậy, trong tiếng Anh, các âm tiết cũng như các từ được kết nối chặt chẽ. Sự cấu âm trong các giới hạn cuối cùng của từ và âm tiết thường mạnh hơn. Do đó, người nói tiếng Anh phải sử dụng hơi mạnh hơn so với khi nói tiếng Việt. Ngược lại, những từ tiếng Việt thường được nói với luồng hơi nhẹ hơn ở cuối từ và có sự tách rời rõ ràng giữa các từ. Do sự khác biệt này, sinh viên Việt Nam thường hay mắc lỗi khi phát âm tiếng Anh. Họ thường có khó khăn khi đọc nối các âm tiết trong một từ đa âm tiết cùng nhau và thường nói các từ và các âm tiết tiếng Anh một cách rời rạc. Vì vậy, rất khó để họ hiểu khi họ nghe người bản xứ 14
  15. nói vì những người bản xứ thường nối phụ âm cuối cùng của từ với từ sau đó bắt đầu bằng một nguyên âm. Trong cùng một từ việc nối từ là một vấn đề lớn đối với sinh viên Việt Nam vì tiếng mẹ đẻ của họ không có đặc điểm này. 2.3.4. Về cách phát âm các cụm phụ âm So với tiếng Anh thì tiếng Việt có cấu trúc âm tiết đơn giản hơn. Đoàn Thiện Thuật kết luận rằng một từ trong tiếng Việt thường có ba hoặc ít hơn 3 âm vị. Do đặc điểm này, các cụm phụ âm không tồn tại trong tiếng Việt, trong khi trong tiếng Anh hiện tượng này là phổ biến. Trong tiếng Anh, các cụm phụ âm có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối từ, một từ có thể bắt đầu bằng một phụ âm (ví dụ: go), hai phụ âm (ví dụ: glitter), hay ba phụ âm (ví dụ: stream) và kết thúc với một phụ âm (ví dụ: then), hai phụ âm (ví dụ: last), ba phụ âm (ví dụ: attempt) hay bốn phụ âm (ví dụ: attempts). Đặc điểm này gây khó khăn không nhỏ đối với các học viên Việt Nam. Tuy nhiên, các người Việt thường có khó khăn hơn khi phát âm các cụm phụ âm cuối từ và họ thường bỏ một hoặc hai phụ âm cuối. 2.3.5. Về phát âm dạng mạnh (strong form) và dạng yếu (weak form) Một số từ chức năng (function words) trong tiếng Anh như trợ động từ, giới từ, liên từ, có thể có hai cách phát âm-dạng mạnh và dạng yếu. Dạng phát âm yếu (weak form) là dạng phát âm thông thường của loại từ này, chúng chỉ được phát âm dưới dạng mạnh(strong form) trong các trường hợp sau: - Khi từ đó xuất hiện ở cuối câu nói. I’m looking for a book. Which book are you looking for? /fə(r)/ /fɔ:(r)/ - Khi từ đó được đặt trong tình huống đối lập. - Khi từ đó được nhấn mạnh vì mục đích của người nói. I can speak Japanese so let me talk with him. /kæn/ dạng mạnh I can drive./ kən / dạng yếu Thực tế là người Việt thường đọc tất cả các âm giống nhau và đều như nhau, không chú ý đến dạng mạnh và dạng yếu khi phát âm. Họ không quen với dạng yếu của nguyên âm trong các âm tiết không có trọng âm. Điều này có nghĩa là những âm tiết mang trọng âm được đọc mạnh và rõ hơn, trong khi những âm tiết không mang trọng âm được đọc nhẹ hơn và các nguyên âm trong các âm tiết không có trọng âm bị làm yếu đi. Tiếng Việt không có đặc điểm này, vì vậy, người Việt thường đọc tất cả các âm tiếng Anh với giọng đều đều, và cũng rất khó để họ nhớ rằng họ phải đọc các nguyên âm trong các âm tiết không có trọng âm ở dạng yếu. 15
  16. 2.3.6. Về hệ thống âm Tiếng Anh và tiếng Việt có hệ thống phát âm cũng rất khác nhau. Tiếng Anh có 24 âm phụ âm, 20 âm nguyên âm (bao gồm 12 nguyên âm đơn và 8 nguyên âm đôi), trong khi tiếng Việt chỉ có 23 âm phụ âm, 13 âm nguyên âm và 3 nguyên âm đôi. Có nhiều nguyên âm và phụ âm có trong tiếng Anh nhưng không có trong tiếng Việt và ngược lại. Sự khác biệt này làm cho người Việt khó tiếp nhận hệ thống âm tiếng Anh. Theo Trung tâm từ điển học, Tiếng Việt có 16 âm vị là nguyên âm (trong đó có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi) và 2 âm vị là bán nguyên âm*. Trong 16 âm vị nguyên âm và 2 âm vị bán nguyên âm thì có 17 cách đọc (phát âm), và được ghi lại bằng 20 chữ viết. 20 chữ viết này được hình thành từ 12 chữ cái (con chữ). Bảng 1: Hệ thống âm nguyên âm tiếng Việt (Nguồn: Trung tâm từ điển học) 16
  17. Trong tiếng Anh, số lượng này lớn hơn nhiều. Tiếng Anh có 20 âm nguyên âm bao gồm 7 nguyên âm ngắn, 5 nguyên âm dài và 8 nguyên âm kép. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa hai hệ thống nguyên âm là ở chỗ tiếng Việt không có nguyên âm dài. Đó là lý do tại sao nhiều sinh viên Việt Nam không quen với khái niệm nguyên âm dài trong tiếng Anh và họ thường phát âm nguyên âm ngắn thay vì nguyên âm dài. Hơn nữa, trong tiếng Việt, nguyên âm kép hiếm khi theo sau bởi một phụ âm cuối, nhưng trong tiếng Anh, hiện tượng này là phổ biến nên khi sinh viên Việt Nam gặp phải một cụm gồm một nguyên âm kép và kết thúc bởi một phụ âm, rất khó cho họ để phát âm cả từ trọn vẹn, họ thường không phát âm phụ âm cuối. Ví dụ, họ có thể phát âm từ “five” /faiv/ mà không phát âm phụ âm cuối /v/ Vấn đề thứ hai là sự khác nhau giữa hệ thống phụ âm trong hai ngôn ngữ. Theo Roach, P. (1983), tiếng Anh có 24 phụ âm. /p/ pen /pen/ /b/ bad / bæd/ /t/ tea /ti:/ /d/ do /du:/ /k/ cat /kæt/ /ɡ/ gap /ɡæp/ /tʃ/ chin / tʃIn/ /də/ June / dəu:n/ /m/ man /mæn/ /n/ nap /næp/ /f/ fat /fæt/ /v/ van /væn/ /θ/ thin / θIn/ /ð/ then / ðen/ /s/ sap /sæp/ /z/ zoo /zu:/ /ʃ/ she /ʃi:/ /ə/ vision /vIən/ /h/ hat /hæt/ /l/ leg /leg/ /w/ wet /wet/ /ŋ/ rang /ræŋ/ /r/ red /red/ /j/ yes /jes/ Bảng 2: Hệ thống âm phụ âm tiếng Anh (Nguồn: Từ điển Oxford University Press, 2008) Việc phân loại các phụ âm trên dựa vào vị trí và phương thức cấu âm 17
  18. Tiếng Việt có 23 âm vị là phụ âm. Tương ứng với 23 âm vị phụ âm thì có 24 cách đọc (phát âm), và được ghi lại bằng 27 chữ viết. 27 chữ viết này được hình thành từ 19 chữ cái (con chữ) Bảng 3: Hệ thống âm phụ âm tiếng Việt (Nguồn: Trung tâm từ điển học) Việc phân loại các phụ âm tiếng Việt cũng dựa trên hai tiêu chí trên nhưng đặc biệt hơn. So sánh hai hệ thống âm của hai ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy rằng, trước hết, có một vài phụ âm chỉ tồn tại trong hệ thống âm tiếng Anh mà không có trong hệ thống âm tiếng Việt như: tʃ, də, ʃ, f, θ, ð, w, z, ə, ŋ. Vì vậy sinh viên có khó khăn lớn trong việc nắm bắt các âm này. Do không quen thuộc với những âm này nên rất khó cho sinh viên để phát âm một cách chuẩn xác những âm phụ âm này. Nhiều em không biết cách phát âm những phụ âm khó trong 18
  19. tiếng Anh. Ngoài ra, các học viên còn lẫn lộn các âm giống nhau như: /b/ và /p/, / də / và / ð/ hay / ə/... và có khó khăn trong việc phát âm các cụm phụ âm như /desks/, /fIfθ/. Hơn thế nữa trong tiếng Việt, một âm chỉ thể hiện qua một chữ cái, trong khi trong tiếng Anh, một chữ cái có thể được thể hiện bằng nhiều âm khác nhau. Ví dụ, trong tiếng Anh, chữ cái “a” có thể được phát âm là: /a:/ (car /ka:/), /æ/ (hat /hæt/), /eI/ (say /seI/, /ə/ (intimate /’IntImət/), hay /ɔ:/ (all /ɔ:l/). Vì vậy, nhìn vào một từ tiếng Anh, sinh viên không thể biết cách đọc đúng nếu không tra từ điển. Việc dựa vào chữ cái để phát âm làm cho sinh viên Việt Nam mắc phải rất nhiều lỗi khi phát âm vì không có một quy tắc cụ thể nào đối với việc phát âm từng chữ cái. 2.3.7. Về ngữ pháp Một trong những nguyên nhân dẫn tới các lỗi phát âm liên quan tới hiện tượng ngữ pháp là có hiện tượng ngữ pháp tồn tại trong tiếng Anh mà không tồn tại trong tiếng Việt. Đó là đuôi ‘s’ trong số nhiều và động từ ở ngôi thứ ba số ít (trong thời hiện tại đơn) và đuôi ‘ed’ trong các động từ và phân từ quá khứ có quy tắc. Các học viên Việt Nam thường bỏ không phát âm hoặc phát âm đuôi ‘s’ là /s/ và đuôi ‘ed’ là /Id/ nhưng không phải lúc nào các đuôi này trong tiếng Anh cũng được phát âm như vậy. Nguyên do của vấn đề này là trong tiếng Việt không có khái niệm phụ âm vô thanh và hữu thanh. Ngoài ra, trong tiếng Anh có rất nhiều quy tắc phức tạp về âm vị như hiện tượng biến đổi âm vị (hiện tượng đồng hoá, ngạc hoá,...). Các hiện tượng này không tồn tại trong tiếng Việt nên rất khó cho sinh viên khi nghe, hiểu và nói đúng theo người bản ngữ. Tóm lại, có rất nhiều sự khác biệt giữa hệ thống âm của tiếng Anh và tiếng Việt có thể là trở ngại cho người Việt nói chung và sinh viên không chuyên năm thứ nhất trường đại học Thương mại khi học tiếng Anh. Sự so sánh giữa hai hệ thống âm của hai ngôn ngữ này đã cho thấy lý do tại sao người Việt thường mắc lỗi khi họ học phát âm tiếng Anh. 19
  20. Chương 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA 3.1. Đối tượng điều tra Sinh viên năm thứ nhất k 52 chính quy và sinh viên năm thứ nhất hệ cử nhân thực hành khoa Đào tạo Quốc tế, trường ĐHTM. 3.2. Câu hỏi điều tra a. Sinh viên năm thứ nhất không chuyên Anh, Trường Đại học Thương mại thường mắc phải những lỗi phát âm nào? b. Nguyên nhân nào dẫn tới các lỗi này? c. Các biện pháp nào nên được áp dụng để nâng cao khả năng phát âm của sinh viên và chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất nói chung và sinh viên toàn trường nói chung? 3.3. Công cụ điều tra a) Phiếu điều tra được thực hiện đối với 50 SV K51 học học phần tiếng Anh 1, 50 SV năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế. b) Một bảng câu hỏi phỏng vấn dành cho 5 giáo viên đang giảng dạy sinh viên năm thứ nhất thuộc Bộ môn Lý Thuyết Tiếng Anh, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Thương mại. c) Thu âm bằng điện thoại cách phát âm một số từ và câu và phần thuyết trình trong giờ thảo luận của 20 sinh viên năm thứ nhất. 3.4. Phân tích đối tượng nghiên cứu Tác giả đã tiến hành phát phiếu điều tra cho 100 sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học Thương mại, trong đó có 50 sinh viên năm thứ nhất k52, và 50 sinh viên năm thứ nhất khoa Đào Tạo Quốc tế. ( cả sinh viên nam và sinh viên nữ). Những sinh viên này thuộc độ tuổi từ 19-21. 27 % sinh viên học tiếng Anh dưới 10 năm, số còn lại 73% học tiếng Anh từ 10 năm trở lên. Đặc biệt có những sinh viên học tiếng Anh được trên 12 năm. Một số em thi đại học môn tiếng Anh như khối D, A1 vào đại học nên các em có tinh thần và nhận thức đúng đắn đối với việc học tiếng Anh. Điều này vô cùng quan trọng vì khi có sự thích thú và thái độ học tập rõ ràng, sinh viên sẽ có động cơ đúng đắn để học môn học này. Theo biểu đồ 1, 56% sinh viên thích học tiếng Anh, 24% sinh viên rất thích tiếng Anh, trong khi số sinh viên có thái độ bình thường với ngôn ngữ này chỉ chiếm 20%. Các số liệu trong biểu đồ 2 cho thấy tất cả sinh viên năm thứ nhất đều cho rằng tiếng Anh quan trọng hoặc rất quan trọng 72% sinh viên thấy rằng việc học phát âm rất quan trọng, số sinh viên có lựa chọn “quan trọng” chiếm 28%. Khi đưa ra các lý do về tầm quan trọng của việc học phát âm, các sinh viên này cho biết việc học phát âm quan trọng vì học phát âm “giúp nói và nghe tiếng Anh được chuẩn hơn”, “giúp người học tự tin hơn trong giao tiếp”. Khi được yêu cầu tự đánh giá về khả năng phát âm của 20
nguon tai.lieu . vn