Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số: ĐTCT.2017.84 Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Minh Tâm HÀ NỘI - 2019
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số: ĐTCT.2017.84 Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Minh Tâm Thành viên đề tài : Bùi Xuân Diện Nguyễn Phương Anh HÀ NỘI - 2019
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................ 8 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN ................................................................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên ............. 9 1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................... 14 1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên............................................ 22 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................... 30 2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ..................................................................................................................... 30 2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội........................................................................................................... 50 2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường..... 63 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66 CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ............................................................................................................ 67 3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ......................................................................... 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. ............................................................................................ 69 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 82 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 85
  4. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật của trường Đại học Nội vụ Hà Nội tính đến tháng 3/2019 ............................................................................... 37 Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ chính quy Năm học 2017-2018 .............................................................................................. 39 Bảng 3. Chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao đẳng, đại học ......................................................................................................................... 42 Bảng 4. Chương trình môn học Luật Hành chính dành cho bậc cao đẳng, đại học ... 42 Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật ........................... 46 Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật .......................... 47 Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử ................... 50 liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện ................................ 50 Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................................................................ 50 Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên ............................................................ 52 Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên ......................................... 53 Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung................. 54 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật......................... 51 Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên của nhà trường .................................................................................................................... 64 Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn ............................... 65
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục pháp luật (GDPL) là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của ngành giáo dục. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, GDPL càng trở nên quan trọng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi tôn trọng pháp luật, góp phần ổn định và nâng cao môi trường giáo dục toàn diện. Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác GDPL của ngành giáo dục. Điều 5, Luật Giáo dục năm 2012 khẳng định mục tiêu của giáo dục đại học là: “ Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, có đạo đức; có kiến thức kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng phát triển khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp; thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”. Như vậy, ngành Giáo dục nói chung và các Trường Đại học nói riêng có trọng trách lớn lao đối với sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý trong nhân dân. Hoạt động GDPL luôn gắn bó với hoạt động giáo dục nói chung. GDPL không chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành giáo dục mà còn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục. Trong những năm qua, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác GDPL, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác GDPL. Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, GDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để 1
  6. tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ biến GDPL như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, GDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, GDPL… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”; Luật Phổ biến, GDPL ngày 20/6/2012 và các văn bản hướng dẫn tổ chức, thực hiện… Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước về GDPL, thời gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện GDPL cho sinh viên có trọng tâm, trọng điểm gắn với các ngành nghề đào tạo đặc thù của từng trường. Về cơ bản, sinh viên các trường đại học đã được học thì đều hiểu biết về pháp luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tôn trọng pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của các nhà trường, thực hiện tốt các quy tắc và lối sống công cộng. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm trọng làm cho cả xã hội phải quan tâm, lo lắng. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội vụ, được thành lập theo Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học và sau đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như các cơ sở đào tạo khác 2
  7. trong hệ thống giáo dục, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức thực hiện công tác phổ biến, GDPL thông qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính khóa, giáo dục ngoại khóa và đạt được một số kết quả nhất định. Đã có những thay đổi theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều sang phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên; giảng viên đưa ra nhiều tình huống cụ thể và phương pháp giảng dạy mới nhằm tăng tính tích cực, sáng tạo của sinh viên, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả GDPL. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác GDPL vẫn còn một số hạn chế như việc trang bị kiến thức pháp luật tuy đã bước đầu hình thành kỹ năng, ý thức pháp luật và thói quen chấp hành pháp luật cho sinh viên nhưng hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, công tác GDPL trong những năm qua đã được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường cùng các đoàn thể và đặc biệt là đội ngũ giảng viên chuyên ngành triển khai thực hiện sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho sinh viên, góp phần ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết nội bộ, góp phần giữ vững trật tự trị an trong nhà trường. Để việc thực hiện công tác GDPL cho sinh viên thực sự mang lại hiệu quả, có tác động tích cực nhằm nâng cao ý thức tuân thủ và xây dựng thói quen chấp hành pháp luật cho sinh viên, thì việc tìm hiểu thực trạng công tác GDPL là thực sự cấp thiết, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và nghiêm túc. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” nhằm đưa ra một số định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố: - Tác giả Dương Thị Thanh Mai với luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996): “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật” [13] đã phân tích vai trò của giáo dục pháp luật trong quá 3
  8. trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Luận án nêu rõ những đặc trưng của công tác giáo dục pháp luật và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp. - Tác giả Đinh Xuân Thảo với Luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996): “Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay” [21] đã nêu thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, từ đó rút ra kinh nghiệm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên. - Một số luận văn liên quan như: Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật (2011) của tác giả Trần Phúc Lộc: “Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp” [42] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích rõ đặc điểm, vai trò và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên; Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sĩ Triết học (2013) của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền: “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)” [30] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục ý thức pháp luật; phân tích rõ đặc điểm, cấu trúc, tầm quan trọng và nội dung của việc giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay; nêu thực trạng và đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay; Tác giả Lê Thị Thùy với luận văn thạc sĩ Luật học (2015): “Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” [25] đánh giá khách quan về thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề Thanh Hóa, thông qua đó có phương pháp đổi mới chương trình dạy và học bộ môn giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Trung Nghĩa (2000): “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân 4
  9. Việt Nam hiện nay” [29] đã nêu việc phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác thường xuyên, quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, pháp luật của nhà nước của cán bộ, chiến sĩ. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới. - Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học - Một yêu cầu cấp bách hiện nay” [46], Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã khái quát thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học và nêu ra các giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học như: nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy giáo dục pháp luật cho sinh viên; hoàn thiện pháp luật về giáo dục pháp luật cho sinh viên; chuẩn hóa nội dung chương trình, giáo trình giảng dạy chính khóa; đổi mới phương pháp dạy và học pháp luật trong chương trình chính khóa; xây dựng chương trình giáo dục pháp luật ngoại khóa và đổi mới cách thức hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa; nâng cao chất lượng giảng viên giảng dạy pháp luật trong các trường đại học; tăng cường công tác xã hội hóa trong các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học. - Bài viết trên Trang Web của Trường Đại học Vinh: “Giáo dục pháp luật kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh” của ThS. Đinh Văn Liêm và SV Trương Hồ Khánh Ly (2016) [22] đã tập trung tìm hiểu thực trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung, sinh viên Trường Đại học Vinh nói riêng. - Tác giả Phùng Thị Loan với bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay” [31] đưa ra một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong các trường đại học hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội không những đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có ý thức: 5
  10. sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về GDPL cho sinh viên như: “GDPL trong các trường không chuyên luật” đề tài cấp Bộ của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2000); “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam” của tác giả Phan Hồng Dương (2014) [28]; “Vai trò của giáo dục đạo đức, GDPL cho sinh viên hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Hoàn [27]; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Pháp luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay” của tác giả Lê Văn Thơi [26] Nhận xét chung: Đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu khác nhau, đưa ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động GDPL trên nhiều góc độ, do vậy việc chọn đề tài nghiên cứu này mang cả ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDPL đối với sinh viên nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng. Để thực hiện đề tài, tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc nghiên cứu của một số công trình khoa học liên quan đến đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về GDPL cho sinh viên đồng thời kết hợp với phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng GDPL cho sinh viên của trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian từ năm 2014 - 2018, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL cho sinh viên; - Phân tích thực trạng, đánh giá chất lượng việc GDPL cho sinh viên của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân; 6
  11. - Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Giáo dục pháp luật cho sinh viên. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL cho sinh viên không chuyên ngành luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. - Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng việc GDPL cho sinh viên của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ năm 2014 - 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến GDPL nói chung và cho sinh viên nói riêng. - Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với 326 sinh viên để thu thập các thông tin liên quan đến thực trạng: hiểu biết pháp luật của sinh viên, công tác giáo dục pháp luật của nhà trường; nhu cầu của sinh viên đối với công tác giáo dục pháp luật của nhà trường. - Phương pháp chuyên gia: Quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã xin ý kiến các chuyên gia là những người có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn 7
  12. trong hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên... để làm rõ cơ sở lý luận, xây dựng khung lý thuyết... của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Về lý luận: đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác GDPL cho sinh viên. - Về thực tiễn: Đề tài đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần nâng cao chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đáp ứng nhu cầu của xã hội về đào tạo sinh viên có phẩm chất, đạo đức và ý thức tôn trọng pháp luật, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có đủ phẩm chất và năng lực trong tương lai. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Đề tài gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh viên. - Chương 2: Thực trạng và chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. - Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 8
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên” 1.1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật” Giáo dục pháp luật là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà nước với sự tham gia của các thiết chế xã hội. Đến nay đã có khá nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên nói riêng. Nhìn chung, GDPL thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, GDPL là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của các thành viên xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường sống…) là nhân tố ảnh hưởng, nó có thể tác động tự phát theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân tố chủ quan bao giờ cũng là sự tác động tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định theo chiều hướng xác định nhằm đạt được mục đích của chủ thể tác động [42]. Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân (chủ thể giáo dục) tác động lên đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, xây dựng thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và tạo lập thói quen tuân thủ pháp luật [42]. Theo Đặc san Tuyên truyền Pháp luật số 08/2012 của Hội đồng phối hợp công tác Phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ thì Phổ biến, giáo dục pháp luật hiểu theo nghĩa rộng là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, GDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL; triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, GDPL; hướng dẫn, kiểm tra, 9
  14. đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL). Hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành [24]. Tổng hợp các phân tích trên đây, quan niệm về GDPL được hiểu một cách đầy đủ như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp tổ chức khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm hình thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tôn trọng pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa pháp luật [24]. 1.1.1.2. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên” Tiếp cận đầu tiên với khái niệm có thể thấy đây là GDPL cho một đối tượng cụ thể, đó là sinh viên. Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “Student” có nghĩa là người làm việc, học tập, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. “Sinh viên” là để chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang học ở bậc phổ thông. Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh viên” được dùng để chỉ người học ở bậc đại học. Đây là môi trường với đầy đủ tiêu chuẩn chất lượng cao trong hệ thống giáo dục quốc dân về tài chính, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên các môn học, ngành nghề, nhân viên hành chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Ở đó sinh viên được truyền đạt kiến thức hoàn chỉnh về một ngành nghề cụ thể, chuẩn bị đầy đủ lý thuyết và một phần thực tiễn cho công việc sau này khi tham gia vào cuộc sống xã hội. Từ đó có thể nêu khái niệm GDPL cho sinh viên như sau: “GDPL cho sinh viên là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích của các chủ thể GDPL trong các trường đại học thông qua các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ 10
  15. bản, định hướng, phát triển nhân cách, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật, có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo, có ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ pháp luật” Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn của đề tài, sinh viên được hiểu là người học có trình độ đào tạo đại học, cao đẳng không chuyên luật theo hình thức chính quy tập trung của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 1.1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho sinh viên Giáo dục pháp luật cho sinh viên mang các đặc điểm khác biệt so với GDPL cho các đối tượng khác. Thứ nhất, GDPL cho sinh viên có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật. Quá trình đưa pháp luật đến với đời sống không thể thiếu hoạt động GDPL, đây là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Không phải lúc nào pháp luật cũng được mọi người biết đến, ủng hộ hay chấp hành nghiêm chỉnh. Bản chất của pháp luật là phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân nhưng nếu không được nhân dân biết đến thì cũng không có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, GDPL là phương thức truyền tải những thông tin, những nội dung và quy định của pháp luật với sinh viên, giúp họ hiểu biết, nắm bắt kịp thời, có hiệu quả. Từ đó, sinh viên có thể nhận thức đúng đắn để tránh vi phạm pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật vì sinh viên là lứa tuổi đang phát triển, chưa có nhận thức chín chắn, dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đường phạm pháp. Thứ hai, đối tượng GDPL là sinh viên, là công dân thành niên, là người học ở trình độ đào tạo cao của hệ thống giáo dục quốc dân, thuộc tầng lớp dân trí cao nên chủ thể GDPL phải là những người có tri thức pháp luật ở mức độ cao hơn đối tượng, có tri thức nhất định về nghề nghiệp mà đối tượng được đào tạo, có nghiệp vụ sư phạm bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp để không chỉ là tuyên truyền, phổ biến pháp luật mà mục đích cuối cùng là mục tiêu của giáo dục đại học Việt Nam. Chủ thể GDPL đại diện cho trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội thực hiện nhiệm vụ. Giáo dục pháp luật cho sinh viên là mối quan hệ GDPL 11
  16. giữa các đối tượng công dân thành niên có học thức, có trình độ và có chuyên môn nghề nghiệp nhất định, cho nên song hành với việc truyền thụ tri thức pháp luật cơ bản thì việc giáo dục tri thức pháp luật liên quan đến ngành nghề đào tạo là rất quan trọng và cần được đảm bảo. Thứ ba, nội dung chương trình của GDPL cho sinh viên phải đảm bảo các yêu cầu chung của công dân, yêu cầu riêng của trình độ ngành nghề mà sinh viên theo học trong tính liên thông, hệ thống với các cấp học tiểu học, trung học trước đó. Việc chuẩn bị nội dung, cân đối về chương trình còn phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề và đảm bảo đúng quy định. Thứ tư, nội dung GDPL cho sinh viên được thể hiện qua hình thức và phương pháp GDPL phù hợp với đối tượng trong và ngoài môi trường của họ, đó là các nhà trường đại học. Ở đó giáo dục chính khóa đóng vai trò quan trọng và giáo dục ngoại khóa là không thể thiếu. Hiện nay với môi trường sống năng động, khoa học công nghệ phát triển thì chủ thể GDPL cho sinh viên cần rèn luyện họ trở thành những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, có kiến thức pháp luật và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Bên cạnh những phương pháp truyền thống thì cần tăng cường áp dụng những phương pháp hiện đại, có sử dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả, dễ tiếp thu, tác động nhanh vào nhận thức của sinh viên. 1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên Vai trò của GDPL bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của giáo dục và pháp luật. Bên cạnh đó, vai trò của GDPL còn xuất phát từ bản chất và đặc điểm của đối tượng mà nó tác động. Giáo dục pháp luật cho sinh viên có vai trò như sau: Thứ nhất, GDPL góp phần thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò quan trọng, là phương tiện để thể chế hóa đường lối của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo đó được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Thứ hai, GDPL góp phần cung cấp kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên. GDPL góp phần nâng cao nhận thức và hiểu 12
  17. biết về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của mọi thành viên trong xã hội, trong đó có sinh viên. GDPL trong nhà trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Bác Hồ đã dạy “có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Xét trên mọi phương diện, giáo dục đạo đức, lối sống, GDPL đóng góp một phần quan trọng tạo nên nhân cách của mỗi con người. Đảng và Nhà nước ta rất quan trâm coi trọng công tác GDPL, nhất là từ khi có đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội lần thứ XII đến nay, văn kiện lần thứ XII của Đảng đã xác định rõ: đưa việc dạy pháp luật vào các trường học của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân. Sinh viên là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Để có nắm vững kiến thức về pháp luật, có hành vi xử sự phù hợp với các chuẩn mực pháp luật trong cuộc sống thì sinh viên phải được giáo dục, đào tạo thông qua việc GDPL trong trường học. Trách nhiệm GDPL của trường đại học là cung cấp cho sinh viên tri thức pháp luật, am hiểu quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, được phép làm những việc mà pháp luật cho phép và không làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm, từ đó áp dụng vào công tác thực tiễn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bản thân, gia đình, xã hội và sẵn sàng để hội nhập quốc tế. Vì vậy có thể nói, GDPL cho sinh viên chính là hình thành ở sinh viên, tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật để có hành vi xử sự hợp pháp, tích cực, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tạo nên nếp sống văn hóa pháp lý. Thứ ba, GDPL góp phần hình thành nhân cách trong sinh viên. Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tiễn cuộc sống của sinh viên. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định bằng việc tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. GDPL trong trường đại học không chỉ làm sâu sắc hơn tri thức pháp luật cho sinh viên mà còn hướng đối tượng vào việc tuân thủ, thi hành đúng và trau dồi kỹ năng áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, nghề nghiệp tương lai. Nhìn thấy được giá trị mà pháp luật mang lại khi đi 13
  18. vào cuộc sống, sinh viên có ý thức “Sống và làm việc theo pháp luật” bền vững. Hơn thế nữa, khi ý thức đó được nâng lên thành tình cảm, thiện cảm với pháp luật, sinh viên lúc này từ đối tượng GDPL có thể sẽ trở thành một chủ thể tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng nơi họ sinh sống. 1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.2.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên Trước yêu cầu mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công nghệ. Do vậy, mục tiêu của GDPL là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, tự giác tìm hiểu pháp luật; xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật cho sinh viên. Đưa công tác giáo dục pháp luật phát triển ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin pháp luật của sinh viên. Nội dung GDPL thường xuyên được cập nhật kịp thời các kiến thức và quy định pháp luật của Nhà nước phù hợp với trình độ của sinh viên, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa hình thức GDPL chính khóa và GDPL ngoại khóa. Bảo đảm 100% sinh viên được trang bị kiến thức pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật. 1.2.2. Nguyên tắc của giáo dục pháp luật cho sinh viên Các nguyên tắc về giáo dục pháp luật được quy định tại Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 của Quốc Hội. Điều 5 Luật này quy định các nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật gồm: - Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực. - Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm. - Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, GDPL và truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. 14
  19. - Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hàng ngày của người dân. - Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội. Giáo dục pháp luật cho sinh viên cũng phải bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc nêu trên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất. 1.2.3. Chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.2.3.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên Chủ thể GDPL cho sinh viên là tất cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc thực hiện GDPL. Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm GDPL cho sinh viên là các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Toàn án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước; chính quyền các cấp ở địa phương; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp; các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và các thành viên trong gia đình. Trong đó, chủ thể làm công tác GDPL trong các trường đại học là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, giảng viên, bao gồm giảng viên giảng dạy pháp luật và những giảng viên khác. Xét về tính chuyên nghiệp, chủ thể GDPL chia thành 2 loại: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Trong GDPL cho sinh viên, chủ thể GDPL chuyên nghiệp là giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật. Chủ thể GDPL không chuyên nghiệp là những người mà chức năng chính không phải là GDPL, nhưng một trong những nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động để thực hiện mục đích GDPL như cán bộ quản lý, lãnh đạo, công chức, viên chức. Về cơ bản, chủ thể GDPL cho sinh viên các trường đại học bao gồm: Thứ nhất, các Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các trường đại học. Họ vừa là chủ thể tổ chức hoạt động GDPL vừa là chủ thể trực tiếp GDPL cho sinh viên. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thường xuyên nhất của Đảng ủy, 15
  20. Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các trường đại học trong hoạt động GDPL cho sinh viên là tổ chức các hoạt động GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp họ còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động GDPL cho sinh viên với vai trò giảng viên, báo cáo viên. Thực tế ở nhiều trường đại học, vai trò của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường là yếu tố đầu tiên, quyết định đối với công tác này. Thứ hai, giảng viên giảng dạy pháp luật. Giảng viên giảng dạy pháp luật giữ vai trò quyết định trong hoạt động GDPL cho sinh viên. Giảng viên giảng dạy pháp luật là người cung cấp tri thức pháp luật, hướng dẫn lĩnh hội và là tấm gương trong việc thực hiện pháp luật đối với sinh viên. Họ là những người có kiến thức rộng, vững về chuyên môn nghiệp vụ. Cùng với hoạt động giảng dạy, giảng viên còn có hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện hàng năm, định kỳ học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Giảng viên giảng dạy pháp luật còn phải thường xuyên cập nhật những quy định mới của pháp luật, những văn bản mới được sửa đổi để kịp thời phổ biến tới sinh viên. Thực hiện những yêu cầu trên, giảng viên ngày càng hoàn thiện mình hơn và nhờ đó việc GDPL mang lại hiệu quả cao hơn. Thứ ba, viên chức, giảng viên giảng dạy các chuyên ngành khác chuyên ngành pháp luật. Đây là những người có chức năng, nhiệm vụ chính không phải là GDPL cho sinh viên nhưng thông qua hoạt động chuyên môn của mình góp phần thực hiện các mục đích, mục tiêu của GDPL cho sinh viên. Ngoài các chủ thể nêu trên, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cán bộ, công chức, viên chức, báo cáo viên pháp luật và tuyên truyền viên pháp luật cũng là những chủ thể GDPL cho sinh viên. Như vậy, ta thấy giảng viên dạy pháp luật là chủ thể GDPL có học vấn, chuyên môn đạt chuẩn chức danh giảng dạy, có khả năng sư phạm, họ vừa là người giảng dạy, truyền thụ tri thức pháp lý, vừa là người giáo dục nhân cách, ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoàn thiện nhân cách của sinh viên. 1.2.3.2. Đối tượng giáo dục pháp luật Đối tượng của GDPL không ai khác chính là sinh viên. Họ là những người 16
nguon tai.lieu . vn