Xem mẫu
- ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MÔN: GIẢI PHẪU SO SÁNH ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG
Đề tài :
HỆ BÀI TIẾT
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
PGS – TS Nguyễn Văn Thuận Phạm Văn Thương
Hoàng Thị Khánh Thanh
- I. Vai trò của cơ quan bài tiết:
- Trong quá trình trao đổi chất có liên quan tới việc sử
dụng chất dinh dưỡng cần thiết cho việc cung cấp
năng lượng, đồng thời có rất nhiều chất thừa đã được
tạo thành như ure, axit uric, creatinin và amonic. Những
sản phẩm này không những không có ích, mà còn độc
hại nữa, và trong trường hợp chúng tích tụ lại trong cơ
thể thì các quá trình trao đổi chất bình thường sẽ bị
phá hủy.
- Ở động vật nói chung và động vật không xương sống
nói riêng, sự bài xuất các sản phẩm đó ra khỏi máu và
các mô là nhờ hoạt động của hệ bài tiết. Ở một số
động vật, hệ bài tiết còn giúp cân bằng áp suất thẩm
thấu trong cơ thể.
- II. Cơ quan bài tiết của động vật đơn bào:
- Đa số Động vật nguyên sinh các sản phẩm không
cần thiết của trao đổi chất được khuếch tán qua
màng tế bào qua môi trường ở ngoài, ở đây nồng độ
các chất có thấp hơn trong tế bào
- Đối với động vật nguyên sinh ở nước ngọt, trong tế
bào chất còn có các không bào co bóp nhằm thực hiện
quá trình thải chất cặn bã, điều hòa áp suất thẩm thấu,
góp phần vào quá trình hô hấp. Không bào co bóp có cấu
tạo là một túi chứa, có thể tích lũy nước và chất cặn bã.
Quá trình này làm cho không bào co bóp lớn dần lên, khi
đạt đến một kích thước nhất định chúng sẽ di chuyển ra
phía màng tế bào vỡ ra, tống nước và chất thải ra ngoài.
- II. Cơ quan bài tiết của động vật đơn bào:
- Chỉ có các động vật nguyên sinh sống ở nước ngọt thì
mới có khả năng hình thành không bào co bóp vì trong môi
trường nước ngọt, nồng độ các chất trong tế bào bao giờ
cũng lớn hơn so với môi trường ngoài và nước từ môi
trường ngoài luôn xâm nhập vào tế bào. Nước được dồn
vào túi chứa của không bào co bóp và từng lúc được tống
ra ngoài, cân bằng lại áp suất cho tế bào. Khi nước xâm
nhập từ ngoài vào trong tế bào thì mang O2 vào cho tế bào
còn nước tống ra mang theo chất thải và CO2 ra khỏi cơ
thể động vật nguyên sinh. Động vật nguyên sinh sống ở
biển và ký sinh trong cơ thể vật chủ không có không bào
co bóp.
- Không bào co bóp
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
Các động vật đa bào bậc thấp như Hải miên và Ruột
khoang chưa có cơ quan bài tiết riêng biệt, các sản
phẩm trao đổi chất được bài xuất từ tế bào ra ngoài
nhờ sự khuếch tán. Sự khuếch tán này được thực hiện
qua toàn bộ bề mặt cơ thể. Tuyệt đại đa số các loài
của hai ngành này đều sống ở biển, nghĩa là trong môi
trường đẳng trương nên không cần tống nước thừa ra
ngoài. Có một số loài Hải miên và Ruột khoang sống
trong môi trường rất nhược trương so với dịch nội
bào, nhưng vẫn không có không bào co bóp. Người ta
vẫn chưa hiểu rõ bằng cách nào chúng tránh được sự
hấp thu quá thừa nước hoặc bằng cách nào chúng bài
xuất nước thừa ra ngoài.
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Tiếp theo ngành Giun dẹp với Giun vòi đã xuất hiện
cơ quan bài tiết riêng biệt. Chúng có nguyên đơn thận (
Protonephridia) hay là tế bào ngọn lửa có mang một
chùm tiêm mao. Từ các nguyên đơn thận có các ống bài
tiết đi ra bề mặt cơ thể và tạo thành hệ thống phân
nhánh.
3
1
4
5
2
Hình 4.3 Cấu tạo nguyên đơn thận của sán lông (theo
Hickman)
1. Nhân tế bào; 2. Tế bào ngọn lửa; 3. Túm lông tạo tế bào
ngọn lửa; 4. Ống dẫn; 5. Tế bào ống
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Tế bào ngọn lửa nằm trong chất dịch thấm quanh
các tế bào của cơ thể; các sản phẩm trao đổi khuếch
tán vào tế bào ngọn lửa, và từ đây sẽ đổ vào ống bài
tiết. Hoạt động của các tiêm mao giống như ngọn lửa
nến rung động; do đó nó làm chuyển động chất dịch
trong ống và cuối cùng chất dịch được tống khứ ra
ngoài qua các ống bài tiết. Tế bào ngọn lửa cũng có tác
dụng điều hòa lượng nước trong cơ thể động vật.
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Ở Giun tròn hệ bài tiết hoặc không có hoặc là dạng
biến đổi của tuyến da hoặc theo kiểu nguyên đơ thận.
Phần lớn sản phẩm bài tiết được thải trực tiếp qua
thành cơ thể. Một số giun tròn có hệ bài tiết có cấu trúc
khác nhau nhưng hoạt động bài tiết còn chưa được
chứng minh (hình 5.12). Có thể lấy hệ bài tiết của giun
đũa lợn làm ví dụ: Gồm 2 tế bào bài tiết kéo dài thành 2
ống dẫn đơn bào màu nâu, chạy dọc 2 bên cơ thể, nằm
trong gờ hạ bì bên. Về phía trước cơ thể, ống dẫn bài
tiết phình to hơn, tại đây có có nhân tế bào và cầu nối 2
ống dẫn. Từ cầu nối ngang có ống dẫn chung đổ ra
ngoài qua lỗ bài tiết, nằm ở mặt bụng của vùng môi.
Ngoài ra còn có 2 tế bào hình sao lớn, màu vàng sẫm, có
khả năng thực bào, phân bố ở khoảng 1/3 phía trước cơ
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
Hình 5.12 Tuyến bài tiết của giun tròn
(theo Hirschmann)
A. Enoplus; B. Tylenchidae; C. Rhabdilis; D. Oxyuridae; E. Ascaridae
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Hệ bài tiết của một số
Giun tròn (Nematoda)
sống ở biển có dạng
tuyến, một số khác có
dạng ống, không có tế
bào cùng. Các sản phẩm
bài tiết được thải ra
ngoài qua ống bài tiết.
Hình 7.6 Hệ bài tiết của giun nhiều tơ (theo Grasé)
A. Hậu đơn thận; B. Một nhánh hậu đơn thận; C. Ống dẫn niệu sinh dục của
Alciope; D. Nguyên đơn thận của ấu trùng; 1. Ống thận; 2. Lỗ thận; 3. Phễu sinh
dục;
4. Solenocyst
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
Đến Giun đốt thì hệ bài tiết là các đôi hậu đơn thận sắp
xếp theo từng đốt.
Hậu đơn thận có cấu tạo như sau: Có phễu thận mở
vào trong thể xoang của mỗi đốt, phễu thận có các tiêm
mao nên khi tiêm mao rung động thì sẽ hút chất thải vào
phễu, rồi vào ống dẫn và ra ngoài. Hậu đơn thận có
ống dẫn xuyên qua vách đốt rồi đổ ra ngoài ở mỗi đốt
tiếp theo.
Cấu tạo tuy đơn giản nhưng về nguồn gốc thì khá phức
tạp, có liên quan đến ống dẫn thể xoang có chức năng
chủ yếu là sinh dục. Trong mỗi đốt của giun nhiều tơ,
bên cạnh hậu đơn thận còn có ống dẫn thể xoang. Hậu
đơn thận bắt nguồn gốc từ nguyên đơn thận còn ống
dẫn thể xoang có nguồn gốc từ lá phôi giữa (hình 7.6
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Hệ bài tiết điển hình của giun ít tơ là hậu
đơn thận. Nhiều loài trong họ
Megascolecidae và Glossoscolecidae có cơ
quan bài tiết là vi thận. Ví dụ như ở giun
khoang, cơ quan bài tiết gồm nhiều vi thận,
là dạng biến đổi của hậu đơn thận. Có 3 Thận
loại vi thận là vi thận hầu, vi thận da và vi
thận vách. Ngoài các vi thận, còn có tế bào Ống thận
Ruột
vàng (tế bào Chloragoren) bao quanh ruột
Túi chứa
Vách
Phễu thận Xoang thận
cũng tham gia vào chức phận bài tiết. Ngoài
ra còn có hàng lỗ lưng, tiết chất dịch thể
Lỗ thận
Hình 7.12 Hậu đơn thận của giun ít tơ
(theo Hickman)
xoang ra ngoài vừa tham gia điều áp suất thể
dịch, vừa tham gia bài tiết (hình 7.12).
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
Chân khớp:Bài tiết của
động vật chân khớp được chia
thành 2 dạng chủ yếu: Túi chứa
Một là dạng biến đổi của Mê lộ
hậu đơn thận của giun đốt và
chỉ còn lại ở một số đốt như
tuyến hàm hay tuyến râu của Túi chứa
giáp xác, thận môi hay thận Ống
hàm của nhiều chân, tuyến Túi cùng
Mê lộ
háng của một số hình nhện và Hình 8.22 Cơ quan bài tiết của tôm
(theo Hickman)
đuôi kiếm.
- II. Cơ quan bài tiết ở động vật đa bào:
- Hai là ống manpighi ở côn
trùng và nhiều chân là cơ quan
bài tiết mới xuất hiện ở chân
khớp trên cạn. Ống này nằm
chìm trong thể xoang và có
một đầu thông với ranh giới
ruột giữa và ruột sau, một
đầu còn lại lơ lửng trong thể
xoang. Sản phẩm bài tiết từ
thể xoang sẽ vào ống
manpighi, sau đó vào ruột sau
và ra ngoài theo phân. Chất Hình 8.42
bài tiết đặc trưng cho từng
nhóm động vật khác nhau
nguon tai.lieu . vn