Xem mẫu

  1. Thảo luận nhóm Kinh tế phát triển Đề tài: ĐÁNH GIÁ VIỆC ĐẢM BẢO CÁC NHU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA (TỪ 1993 ĐẾN NAY) THEO CÁC TIÊU CHÍ HDI, QUA ĐÓ ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY Giáo viên hướng dẫn: TS. Ngô Thắng Lợi Sinh viên thực hiện : Chu Hoàng Ngọc Bích Nguyễn Thọ Chung Nguyễn Hồng Dương Nguyễn Mai Hiền Vũ Tùng Lâm Trần Đức Trung Tiến Nguyễn Anh Tuấn 1
  2. MỤC LỤC Thảo luận nhóm ..................................................................................................................................... 1 Kinh tế phát triển ................................................................................................................................... 1 Lời mở đầu: ........................................................................................................................................... 4 Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người ...................................................................................... 5 Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người.................................................................................... 6 Công thức tính các chỉ số thước đo........................................................................................................ 7 Các giá trị biên để tính chỉ số thước đo ................................................................................................. 7 Chỉ số giáo dục = 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ + 1/3 tỉ lệ nhập học cấp giáo dục ...................................... 8 I A  I E  I IN HDI = ............................................................................................................................... 9 3 CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA CÁC VÙNG: ................................................................................. 12 Phân bố thu nhập đầu người theo vùng – 1993 .................................................................................. 12 CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA THÀNH THỊ - NÔNG THÔN ....................................................... 13 Thu nhập ở thành thị và nông thôn của các vùng - 1993.................................................................... 13 Chỉ số tuổi thọ trung bình T = .......................................................................... 15 Tuổi thọ bình quân trung bình của Việt Nam : .................................................................................... 15 Giáo dục và chỉ số giáo dục là thành phần cơ bản trong HDI .................................................................. 17 Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á ................................................................ 17 Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam ...................................................................................... 20 PGS Đặng Quốc Bảo tổng hợp từ Báo cáo phát triển ............................................................................. 20 So sánh tương quan HDI Việt Nam với các quốc gia Đông Á ............................................................ 21 Thứ hạng HDI và các chỉ số thành phần HDI của Việt Nam trong so sánh thế giới ...................................... 22 PGS Đặng Quốc Bảo tổng hợp từ Báo cáo phát triển con người các năm từ 1990 đến 2007 của UNDP .. 23 Còn theo số liệu của UNDP năm 2009 ................................................................................................... 23 2
  3. Vùng 4: K và G dưới ngưỡng ................................................................................................................ 30 Vùng 1: K và G cùng trên ngưỡng ......................................................................................................... 30 3
  4. Đề tài nhóm 3: Đánh giá việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua (từ 1993 đến nay) theo các tiêu chí HDI, qua đó đánh giá trình độ phát triển con người của Việt Nam hiện nay. Lời mở đầu: 1. Mục tiêu nghiên cứu Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triển là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe và sáng tạo. Phát triển con người vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tê. Các quôc gia đều đặt trọng tâm vào phát triển con người. Chỉ số phát triển con người (HDI) là khái niệm do UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đưa ra, với một hệ thống cơ sở lý luận và phương pháp tính nhằm đánh giá và so sánh mức độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên phạm vi thế giới. Từ khi xuất hiện khái niệm HDI thì đây được xem là chỉ số để xếp hạng các nước theo trình độ phát triển kinh tế xã hội thay thế chỉ số GNP bình quân đầu người mà trước đó người ta vẫn thường coi là thành công hay thất bại của sự điều hành nền kinh tế. HDI quan niệm, phát triển con người chính là và phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Ðó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người. Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là: Con người là trung tâm của sự phát triển; người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển; việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến); chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch...; tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... Thực tế trên cho thấy, HDI của nước ta đang ở tình trạng có các chỉ số thành phần vận động không đều: Chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh tế có tăng lên, song trong giai đoạn 2001- 4
  5. 2005, chỉ số giáo dục giảm đi bằng 3/5 mức tăng của chỉ số kinh tế. Lấy giá trị HDI mà ta đang đạt năm 2005, đem so sánh với một số nước gần ta chothấy: Malaysia đạt giá trị này trước ta 17 năm, Philippines trước 17 năm, Thái Lan trước 14 năm, Trung Quốc trước 6 năm. Điều này cho thấy, trong khi ta cố gắng vươn lên thì các quốc gia khác cũng vươn lên với tốc độ không những không kém, mà còn có xu hướng nhanh hơn ta. Với tầm quan trọng như vậy của phát triển con người, chúng ta phải nghiên cứu vấn đề này nhằm hiểu thêm và nắm rõ được các yếu tố phát triển con người cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao chỉ số HDI, nâng cao trình độ phát triển con người ở Việt Nam. 2. Giới hạn nghiên cứu Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản của Việt Nam thời gian qua (từ 1993 đến nay) theo các tiêu chí HDI, qua đó đánh giá trình độ phát triển con người của nước ta hiện nay. Đánh giá các chỉ số phát triển con người là một việc làm hết sức cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia văn hóa có những nét đặc thù độc đáo như Việt Nam. Trong nghiên cứu cũng như trong giải quyết những vấn đề thực tiễn, việc so sánh chỉ số phát triển con người của Việt Nam với các Quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, từ đó tìm ra những thế mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục, từng bước cải thiện chỉ số phát triển con người… luôn là một công việc có ý nghĩa quan trọng. 3. Kết cấu nội dung nghiên cứu Đáp ứng mục tiêu, nội dung nghiên cứu đã đặt ra, kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong 3 phần: Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay Phần 3: Kết luận về trình độ phát triển con người tại Việt Nam hiện nay và những kiến nghị 5
  6. Phần 1: Lý luận chung về phát triển con người 1.1 Định nghĩa phát triển con người Con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng, khái niệm phát triển con người bao trùm tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do về kinh tế và chính trị. Báo cáo Phát triển con người năm 1990 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã nhấn mạnh "Phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện"; đồng thời chỉ rõ “Mục tiêu căn bản của phát triển là tạo ra một môi truờng khuyến khích con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh và sáng tạo” và định nghĩa phát triển con người như là “một quá trình mở rộng phạm vi lựa chọn của người dân”. Phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Năm đặc trưng của phát triển con người là: i. Con người là trung tâm của sự phát triển. ii. Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển. iii. Việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến). iv. Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch... v. Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa... 1.2 Thước đo phát triển con người HDI 1.2.1 Các chỉ số thước đo: Sự phát triển con người có thể được thể hiện qua nhiều khía cạnh trong xã hội như là những yếu tố rời rạc hay bằng các chỉ số tổng hợp. Tuổi thọ trung bình, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục là những 6
  7. phương diện thể hiện sự phát triển con người của mỗi quốc gia và cũng là những chỉ số thước đo. Công thức tính các chỉ số thước đo Để tính các chỉ số trên cần có các giá trị tối thiểu và tối đa (các giá trị biên) được chọn và quy định cho từng chỉ số. Mỗi chỉ số thước đo tính được cho một giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1 khi áp dụng công thức tính chung sau: Giá trị thực – giá trị nhỏ nhất Chỉ số thước đo = Giá trị lớn nhất – giá trị nhỏ nhất Các giá trị biên để tính chỉ số thước đo Giới hạn trên Giới hạn dưới - Tuổi thọ (năm) 85 25 - Tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0 - Tỷ lệ nhập học của các cấp GD (%) 100 0 - GDP thực tế đầu người (PPP$) 40 000 100 - Chỉ số thu nhập Chỉ số thu nhập tính được khi sử dụng số liệu GDP thực tế bình quân đầu người điều chỉnh theo phương pháp sức mua tương đương (PPP$) phản ánh mức sống hợp lý của con người. Công thức tính: log(GDP/người) – log(100) Chỉ số thu nhập đầu người = log(40000) – log(100) - Chỉ số tuổi thọ Chỉ số tuổi thọ bình quân đo thành tựu tương đối về tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của một quốc gia, giúp phản ánh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh. 7
  8. Công thức tính: Tuổi thọ trung bình – 25 Chỉ số tuổi thọ trung bình = 85 – 25 - Chỉ số giáo dục Chỉ số giáo dục đo thành tựu tương đối của một quốc gia trên cả hai thước đo về tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục: tiểu học, trung học và đại học. Công thức tính: Chỉ số giáo dục = 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ + 1/3 tỉ lệ nhập học cấp giáo dục 1.2.2 HDI – Chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển con người Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI) là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con người phản ánh các thành tựu chung của một quốc gia theo 3 ba phương diện của sự phát triển con người: - Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh. - Kiến thức, được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3). - Một mức sống hợp lý, được đo bằng GDP thực tế đầu người (PPP$). 8
  9. Để tính được chỉ số HDI, cần phải tính từng chỉ số cho ba phương diện trên. Chỉ số HDI tính được là giá trị trung bình của các chỉ số thước đo: I A  I E  I IN HDI = 3 Trong đó: I A : chỉ số đo tuổi thọ I E : chỉ số đo giáo dục I IN : chỉ số đo thu nhập (mức sống) HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Trong thực tế, giá trị HDI của một nước chỉ ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao nhất có thể (là 1). Thách thức đặt ra đối với mỗi nước là tìm ra các giải pháp để rút ngắn khoảng cách đó. HDI từ 0,8 – 1 được coi là cao, từ 0,5 – 0,8 được coi là trung bình và từ 0 – 0,5 được coi là thấp. 9
  10. Phần 2. Thực trạng và đánh giá các tiêu chí phát triển con người tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay 2.1 Đánh giá các tiêu chí cấu thành HDI 2.1.1 Tiêu chí thu nhập -Mức độ thu nhập: GDP bình quân đầu người trên cơ sở cân bằng sức mua (PPP USD) và GDP bình quân đầu người thực tế (USD) từ năm 1990-2009 GDP bình quân GDP bình quân Năm đầu người đầu người (PPP USD) thực tế (USD) 1990 1.000 105 1993 1.100 - 1994 1.250 - 1995 1.010 288 1996 1.040 - 1997 1.208 - 1998 1.236 - 1999 1.630 - 2000 1.689 391 2001 1.860 413 2002 1.996 440 2003 2.070 492 2004 2.300 552 2005 2.490 636 2006 2.745 723 2007 3.071 835 10
  11. 2008 3.331 1.024 Gần 20 năm phát triển (1990-2008) 2009 3445 1.060 tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người đạt 1.024 USD/người, với mức thu nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất: GDP/người dưới 935 USD). GDP trên đầu người năm 2009 đạt 1.060 USD, Việt Nam phấn đấu GDP trên đầu người năm 2010 đạt 1.200 USD. -Các thành tựu đạt được: Theo tính toán từ các số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người tính bằng USD, nếu năm 1995 nước ta mới đạt 288 USD, đứng thứ 10 khu vực, thứ 44 châu Á, thứ 177 thế giới, tức là còn là một trong hơn 20 nước có mức GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới, thì đến năm 2003 đã đạt 492 USD, tương ứng đứng thứ 7, thứ 39, thứ 142. Đến nay, với con số hơn 1.000 USD/người, năm 2008 đã đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình dưới với GDP bình quân đầu người khoảng từ 936 đến 3.705 USD. Ngày 14/4/2010, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố đánh giá của Nhóm đánh giá độc lập (IEG) của WB, trong đó cho rằng những thành tựu phát triển của Việt Nam trong nhiều năm qua là "rất ấn tượng". Năm 2009, Việt Nam đã chuyển từ nước nghèo sang nước có thu nhập trung bình. IEG cho rằng với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,2%/năm trong thập kỷ trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, khoảng 35 triệu người Việt Nam đã thoát nghèo. -Những vấn đề còn tồn tại Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì Việt Nam đứng hạng 170 về thu nhập bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân tính đầu người theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước, vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và 0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của Việt Nam đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, do bị ảnh hưởng bởi lạm phát nên GDP trên đầu người tính theo sức mua tương 11
  12. đương ở Việt Nam còn cao hơn nhiều so với thực tế. Lạm phát đã làm giảm sức mua của người nghèo và làm tăng bất bình đẳng về thu nhập. Số liệu về mức chêch lệch năm 1993 phản ánh phân bố thu nhập theo vùng là di sản từ nhiều năm nay. Tính lịch sử này có lẽ do phân bố tài nguyên thiên nhiên phục vụ nông nghiệp không đồng đều, và do nông nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của các vùng cho đến nay. Hiện tượng đô thị hóa gia tăng, đặc biệt với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cũng rất đáng lưu tâm. CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA CÁC VÙNG: Phân bố thu nhập đầu người theo vùng – 1993 Vùng Thu nhập đầu Số dân thành thị Số dân nông thôn Tỉ số thu nhập đầu người người nông thôn so (100000 người) (100000 người) với thành thị (1000 đồng) 1 1258 1576,5 10532,8 0,16 2 1811 2385,6 11429,2 0,15 3 1215 936,2 8580,7 0,17 4 1444 1704,9 5669,8 0,32 5 1364 671,5 2232,0 0,43 6 4524 4008,1 4684,8 0,18 7 1818 2364,5 13167,1 0,36 Cả 1949 13647,3 56296,4 0,20 nước Vùng 1 : Trung du Bắc bộ Vùng 2 : Đồng bằng sông Hồng (gồm những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định...) 12
  13. Vùng 3 : Khu bốn cũ Vùng 4 : Duyên hải miền Trung Vùng 5 : Tây Nguyên Vùng 6 : Đông Nam bộ (gồm TP Hồ chí Minh, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu...) Vùng 7 : Đồng bằng sông Cửu Long CHÊNH LỆCH THU NHẬP GIỮA THÀNH THỊ - NÔNG THÔN Sự chêch lệch thu nhập thành thị và nông thôn cũng là một sự kiện thường thấy ở những nước nông nghiệp. Từ những thập niên vừa qua, giá quốc tế những mặt hàng nhóm một (nông, lâm sản, nguyên liệu thô, sơ chế) giảm đi so với giá những mặt hàng công nghiệp. Vì công nghiệp thường có địa bàn hoạt động trong thành thị và vùng lân cận, mức thu nhập của dân thành thị tăng lên so với dân ở nông thôn. Ngoài ra, những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến khiến mức cầu lao động nông nghiệp giảm, lượng cung lao động vượt cầu, gây thêm tác động tiêu cực trên mức thu nhập của người dân ở nông thôn. Ngày nay, với sự phát triển của khâu dịch vụ cũng chủ yếu là ở thành thị, sự chêch lệch thu nhập này lại càng tăng thêm. Thu nhập ở thành thị và nông thôn của các vùng - 1993 Vùng Tổng thu nhập Thu nhập đầu Tổng thu nhập Thu nhập đầu Tổng thu người nông nông thôn người thành nhập thành (tỉ đồng) thôn (tỉ đồng) thị thị (nghìn đồng) (nghìn đồng) (tỉ đồng) 1 15233533 747,25 7870700 4670,35 7363807 2 25008100 915,0 10452777 6100,00 14552160 3 11563155 820,8 7043039 4828,04 4519973 4 10649066 968,3 5490261 3025,8 5158989 5 3960374 1044,0 2330208 2427,8 1630268 6 39327132 1459,2 6836060 8106,4 32491261 13
  14. 7 28236450 1430,1 18830126 3972,5 9392976 Theo nghiên cứu của các nhà khoa học vừa công bố tại Hội nghị cập nhật nghèo do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức cuối tháng 3 năm 2007: khoảng cách giữa các nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đang bị nới rộng một cách liên tục và đáng kể. Cụ thể là: năm 1993, chi cho tiêu dùng bình quân đầu người của gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần so với gia đình nghèo nhất thì tỷ lệ này tăng lên 6,3 lần vào năm 2004. Do vậy, tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người của nhóm giàu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% lên 44,7%, trong khi đó nhóm nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,1% ở cùng thời kỳ. Mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (Gini) ở Việt Nam còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là 0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư. -Kết luận: Khi thu nhập tăng, mức sống của dân cư được đảm bảo các mặt về thể lực, trí lực và tinh thần được quan tâm tích cực và ngược lại, khi thu nhập giảm mức độ chi tiêu của dân cư sẽ giảm tác động tiêu cực đến chất lượng dân số. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối thu nhập đang có xu hướng gia tăng, người giàu càng giàu thêm, các khu đô thị thành phố càng ngày càng phát triển trong khi người nghèo càng ngày càng khó thoát nghèo, và những vùng sâu vùng sa và những vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có khả năng phát triển, do thiếu vốn, thiếu lao động do đó chất lượng dân số vẫn ở mức thấp. Thu nhập tăng và phân phối thu nhập tiến đến sự hợp lí luôn luôn là cái hướng đến của toàn xã hội. Chúng ta có thể thấy được rằng là thu nhập bình quân đầu người ở nước ta ngày càng gia tăng, điều này được thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người cũng như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm dần theo các năm và mức sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Để đạt được những thành quả đó thì chúng ta phải kể đến các chính sách của Nhà nước, trong quá trình phát triển kinh tế có sự hài hòa giữa các vùng, giữa các nền kinh tế được chú trọng phát triển cũng như là các chính sách hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải chú trọng đến các chính sách phát triển toàn diện để tránh rơi vào những cái “bẫy” thu nhập trung bình như các nước Đông Nam Á khác. 2.1.2 Tiêu chí tuổi thọ 14
  15. - Mức tuổi thọ Có cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe là một tiêu chí để đánh giá về sự phát triển của con người. Và chỉ số tuổi thọ đã được chọn làm thước đo cho tiêu chí này. Chỉ số tuổi thọ được tính như sau: Chỉ số tuổi thọ trung bình T = (Với quy ước: 85 là giá trị cực đại và 25 là giá trị cực tiểu của tuổi thọ) Gần 20 năm nay từ 1990, UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đều đặn công bố các Báo cáo phát triển con người HDR (Human Development Report). Các báo cáo HDR từ năm 1990 đến năm 2007 đã thống kê rằng: Tuổi thọ bình quân trung bình của Việt Nam : Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tuổi thọ bình 62,7 63,4 66,0 66,4 67,4 67,8 67,8 68,2 68,6 69,0 70,5 70,8 73,7 quân trung bình - Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á Nước Tuổi thọ T Ghí chú Singapore 79,4 0,907 > VN Hàn Quốc 77,9 0,882 > VN Brunây 76,7 0,862 > VN 15
  16. Malayxia 73,7 0,812 = VN Ở bảng này, Việt Nam hơn được Trung Quốc, Thái Lan 71,5 0,776 < VN Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Ấn Độ, Mianma. Trung Quốc 72,5 0,792 < VN - Những thành tựu đạt được : Philippin 71 0,767 < VN Trong các chỉ số phát triển cấu tạo nên HDI, Việt Nam 73,7 0,812 Việt Nam có chỉ số tuổi thọ tương đối có sự Inđônêxia 69,7 0,745 < VN lạc quan. Tính ra trong 13 năm, từ năm 1993 đến năm 2005, ta đã nâng tuổi thọ bình quân Ấn Độ 63,7 0,645 < VN lên 11 tuổi. Việt Nam cũng có thứ hạng cao về Mianma 60,8 0,596 < VN tuổi thọ trên thế giới (T = 0,812, tuổi thọ bình quân 73,7, xếp thứ 56/177 nước). Theo số liệu mới mà chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra trong báo cáo toàn cầu sáng ngày 5/10/2009 tại Bangkok, Thái Lan thì tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã là 74,3 đứng thứ 54 thế giới. Đạt được thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Cuộc khảo sát năm 2002 cho thấy: Cứ 1000 ca sinh ra ở Việt Nam chỉ có 39 trẻ bị tử vong (nhóm dân nghèo), có 14 trẻ bị tử vong (nhóm dân giàu). Chết dưới 5 tuổi thì trong số 1000 trẻ có 53 trẻ chết (nhóm dân nghèo) và 16 trẻ chết (nhóm dân giàu). Các con số tương ứng ở Inđonexia là: (78, 23, 109, 29). Đạt đến thành tựu này còn có sự tác động gián tiếp của kinh tế và giáo dục. Trình độ học vấn của bố mẹ tăng lên và điều kiện sinh hoạt vật chất được cải thiện cũng làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi. - Những vấn đề còn tồn tại : Tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng hệ thống y tế nước ta vẫn có rất nhiều bất cập. Mạng lưới chăm sóc y tế ở nông thôn yếu kém. Các bệnh nhân ở khắp nơi đổ dồn về các thành phố lớn, dẫn đến tình trạng quá tải. Thủ tục khám chữa bệnh còn rườm rà, nhất là đối với những người sử dụng Bảo hiểm y tế, họ phải đến bệnh viện nhiều ngày mới hoàn tất một quy trình khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề nhức nhối trong thời gian qua. Về ngân sách cho ngành y tế, Việt Nam chúng ta hiện nay mới có 8 USD cho một người dân chăm sóc sức khỏe trong khi đó Singapore là 1.950 USD, Nhật là 2000 USD. Ngoài ra, sự quản lý của nước ta đối với mặt hàng thuốc còn lỏng lẻo. Các phòng khám chữa bệnh tư nhân cũng cần được kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Tất cả những vấn đề trên cần sớm được hoàn thiện và giải quyết trong thời gian tới. - Kết luận về chỉ tiêu tuổi thọ: 16
  17. Chỉ số tuổi thọ đo lường thành tựu tương đối về tuổi thọ ở một nước. Chỉ số này của Việt Nam là đáng lạc quan. Ta có thể thấy, Việt Nam chỉ có GDP tính theo đầu người xếp thứ 123 và HDI xếp thứ 105 trên thế giới nhưng lại có thứ hạng về tuổi thọ khá cao. Tuổi thọ trung bình năm 2005 của nước ta là 73,7 xếp hạng 56 và nay là 74,3 xếp hạng 54 trên thế giới. Chỉ số tuổi thọ T = 0,812 và nó đã có phần giúp cải thiện chỉ số và thứ hạng 105/177 của HDI. Đạt được những thành tựu như vậy là do nước ta đã làm tốt công tác chăm sóc y tế ban đầu, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp và tỷ lệ tử vong ở bà mẹ sau khi sinh nở cũng thấp. Trong thời gian tới, nước ta cần tiếp tục phát huy những điểm mạnh này, đồng thời khắc phục những bất cập còn đang tồn tại. 2.1.3 Tiêu chí giáo dục - Các chỉ tiêu giáo dục : Giáo dục và chỉ số giáo dục là thành phần cơ bản trong HDI Chỉ số giáo dục được tính từ hai nhân tố : Nhấn tố a biểu thị cho số biết chữ của người lớn ( 15+ tuổi ) Nhân tố b biểu thị cho số đi học của thanh thiếu niên ( từ 16 – 24 tuổi ) a, b đều tính ra %. G = 2*a/3 + 1*b/3 Việt Nam trong so sánh với một số nước ASEAN và châu Á Giáo dục Nước Ghi chú a (%) b (%) G Singapore 92,5 87,3 0,908 > VN Hàn Quốc 99 96 0,980 > VN Brunây 92,7 77,7 0,877 > VN Malayxia 88,7 74,3 0,839 > VN Thái Lan 92,6 71,2 0,855 > VN Trung Quốc 90,9 69,1 0,837 > VN Philippin 92,6 81,3 0,888 > VN Việt Nam 90,3 63,9 0,812 17
  18. Inđônêxia 90,4 68,2 0,830 > VN - Những thành tựu đạt Ấn Độ 61 63,8 0,620 < VN được : Mianma 89,8 49,5 0,764 < VN Giáo dục ở nước ta xét về tỷ lệ người biết chữ chung (15 tuổi trở lên) có thứ hạng tương đối cao và giá trị không nhỏ (90,3%). Với giá trị này ta xếp thứ 56 trên bản đồ thế giới (Gruzia thứ nhất 100%). Indonexia đứng trên Việt Nam với 90,4% đứng thứ 55. Burkinafaso giá trị 23,6% xếp thứ 177 cuối bảng. Đây là kết quả những nỗ lực một thời gian dài của công tác xóa mù chứ và phổ cập tiểu học. - Những vấn đề còn tồn tại: Nhìn tổng quát về GDP bình quân đầu người theo USD hoặc USD theo PPP, Việt Nam còn ở mức thấp và chi cho giáo dục từ GDP cũng chưa nhiều. Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước đều đặn tăng lên, hiện nay gần 15% nhưng tính từ GDP chỉ có 2,3% (theo số liệu UNDP). Nếu tính đầu tư cho giáo dục trên đầu người thì nước ta ở mức rất thấp. Tuy nhiên giáo dục nước ta đã có sự thiểu phát và giảm phát trong những năm gần đây. Năm Việt Nam đạt được G cao nhất = 0.84 là năm 1999 và 2000. Sau thời điểm này, từ năm 2001, G không tăng lên được về giá trị mà giảm dần dần. Tỷ lệ đi học của thanh thiếu niên độ tuổi 6 – 24 tuổi nước ta mới đạt 63,9 %, điều có nghĩa là cứ 1000 em ở độ tưởi này mới có 639 em đi học, còn 371 em đang ở diện thiếu niên ngoài nhà trường. Có thể một bộ phận này được học bổ tức văn hóa ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, một số học đại học ở các trường ngoài công lập. 18
  19. Hạng Nước USD PPP Chênh lệch so với Việt Nam tính theo GDP (lần) Tuy vậy tỷ lệ 63,9 % học ở hệ chính quy là một tỷ lệ quá thấp. 1 Singapo 772.7 889.4 16.7 Với kết quả này Việt Nam đang 2 Hàn Quốc 363.8 610.4 13.5 đứng thứ 121/177 nước. Ta rơi vào vùng các nước chậm phát 3 Malaixia 208.4 720.48 11.5 triển về giáo dục của khu vực 4 Thái Lan 103.0 350.50 6.6 châu Á trong tỷ lệ này. Đành rằng không thể huy động ra lớp 5 Phillipin 32.1 133.4 2.5 ồ ạt rồi cho lên lớp bừa bãi. 6 Ấn Độ 19.74 109.4 2.05 Điều này dẫn đến hiện tượng “Ngồi nhầm lớp “ và suy giảm 7 Trung Quôc 22.74 105.3 1.9 chất lượng. 8 Việt Nam 10.02 53 - Kết luận về chỉ tiêu giáo dục : Thành tựu giáo dục nhìn chung là cao. Từ 1990 chỉ số G đạt 0.78 (báo cáo UNDP năm 1995). Sự tiến bộ của G không thật sự ổn định và có phần chậm chạp. Trong 7 năm đầu của thời kỳ 10 năm này G tăng từ 0.78 (năm 1993) lên tới 0.84 (năm 1999) tức là tăng 6% nhưng 3 năm tiếp theo (2000-2002) G giảm từ 0.84 xuống 0.82. Phấn đấu giữ vững được thành quả G khi đã có một mặt bằng nào đó (ở nước ta lấy ngưỡng là 0.84) và phát triển thành quả này có độ tăng tiến liên tục đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Giáo dục không có biện pháp mở rộng quy mô và tăng cường chất lượng, ngay lập tức đã có sự thiểu phát. Những biện pháp cần được thực hiện ngay, chứ không thể chờ đợi cho nền kinh tế phát triển mới lo tới vấn đề hết sức quan trọng này. Tuy nhiên, chỉ số giáo dục của Việt Nam đã có những đóng góp nhất định vào chỉ số HDI. Ta có thể thấy với chỉ số G = 0,815 và thứ hạng 93 nó đã có phần nào đó giúp cải thiện chỉ số và thứ hạng của HDI với thứ hạng 105/177. Với việc thành công trong công tác xóa mù chữ cũng như cố gắng cải thiện chất lượng giáo dục, Việt Nam đã có những bước tiến từ năm 1993 tới nay. Nói tóm lại, Việt Nam vẫn là vùng trũng về lĩnh vực giáo dục ở châu Á. 19
  20. 2.2 Đánh giá phát triển con người qua chỉ số HDI - Xu thế của HDI Từ năm 1995 tới năm 2007, HDI của Việt Nam tăng 1.16% hàng năm từ 0.561 (1985) lên tới 0.733 (2007). Điều đáng mừng là các thành tố của HDI đều tăng. Chỉ số HDI và các chỉ số thành phần của Việt Nam Năm Tính cho Giá trị Thứ hạng năm HDI 1990 1987 0,608 74*/130 1991 0,498 99/160 1992 0,464 102/160 1993 1991 0,472 115/160 1994 1992 0,514 116/160 1995 1992 0,539 120/174 1996 1993 0,540 121/174 1997 1994 0,557 121/175 1998 1995 0,560 122/174 1999 1997 0,644 110/174 2000 1998 0,671 108/174 2001 1999 0,682 101/162 2002 2000 0,688 109/173 2003 2001 0,688 109/175 2004 2002 0,691 112/177 2005 2003 0,704 108/177 2006 2004 0,709 109/177 2007 2005 0,733 105/177 PGS Đặng Quốc Bảo tổng hợp từ Báo cáo phát triển con người các năm từ 1990 đến 2007 của UNDP 20
nguon tai.lieu . vn