Xem mẫu

  1. Đề tài " Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề mâu thuẫn và sự vận dụng quan điểm này trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay " 1
  2. MỤC LỤC TRANG LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................... 4 CHƯƠNG I - QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ VẤN ĐỀ MÂU THUẪN ..................................................................................6 I. Vị trí của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn) ..................................................................... 6 II. Nội dung quy luật........................................................................... 6 1. Một số khái niệm.......................................................................... 7 2. Tính chất chung của mâu thuẫn ................................................... 8 3. Quá trình vận động của mâu thuẫn ............................................ 13 III. Ý nghĩa phương pháp luận...................................................... 17 2
  3. CHƯƠNG II - SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY ........................................ 18 I. Vận dụng quy luật mâu thuẫn trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ...................... 18 1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm ....................................... 18 2. Chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường là một một tất yếu khách quan ở nước ta ............................... 19 3. Vận dụng việc kết hợp các mặt đối lập của mâu thuẫn trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ................. 21 II. Vận dụngquy luật mâu thuẫn trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ................................................................................................. 26 III. Những vấn đề đặt ra khi vận dụng tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay ................... 31 1. Xây dựng nhận thức đúng đắn về kết hợp các mặt đối lập trong quá trình đổi mới ............................................................................... 31 2. Quán triệt phương pháp luận kết hợp các mặt đối lập ............... 32 3. Vấn đề thực hiện công bằng xã hội trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ........................................ 33 4. Vấn đề chống “diễn biến hòa bình” trong quá trình hội nhập quốc tế………………………………………………………………35 5. Vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế…………………………………………………………………….35 IV. Những định hướng cơ bản của Việt Nam trong quá trình đổi mới…………………………………………………………………….36 1. Về kinh tế ................................................................................... 36 2. Về văn hóa – xã hội.................................................................... 37 3. Về quốc phòng, an ninh.............................................................. 38 4. Về đối ngoại ............................................................................... 38 KẾT LUẬN ..................................................................................... 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….…………...........40 3
  4. LỜI NÓI ĐẦU Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và cả tư duy của con người. Nó tồn tại trong các sự vật, là điều kiện cho sự vật tồn tại và thúc đẩy sự vật phát triển. Mâu thuẫn phổ biến là vậy, nhưng không phải ai cũng có cái nhìn đúng đắn về mâu thuẫn. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, song quan niệm biện chứng về mâu thuẫn là đầy đủ và chính xác nhất. Theo đó, mâu thuẫn là một hiện tượng tất yếu khách quan, mang tính phổ biến và đa dạng, phong phú. Triết học Mác – Lê-nin cũng chỉ ra rằng: mâu thuẫn được tạo nên bởi các mặt đối lập, đây là những thành phần vừa đấu tranh, vừa thống nhất với nhau lại vừa chuyển hóa cho nhau, giúp cho sự vật tồn tại và phát triển. Đặc biệt, V.I.Lê-nin nhấn mạnh tới sự thống nhất của các mặt đối lập, từ đó cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về mâu thuẫn, cũng như việc vận dụng quan niệm biện chứng về vấn đề này một cách linh hoạt trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước. Thực tế cho thấy, từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới, chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế khu vực. Đó là một đường lối đúng đắn, tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, chúng ta đã gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân là do trong xã hội vẫn còn tồn tại những quan niệm không đúng về mâu thuẫn, về các mặt đối lập, coi đó là hiện tượng bất bình thường cần phải loại trừ; hoặc có những sai lầm cực đoan, không chú trọng tới 4
  5. bản chất trái ngược của các mặt đối lập và kết hợp không có nguyên tắc giữa chúng, dẫn tới nguy cơ chệch hướng, như nguy cơ “diễn biến hòa bình”,... Vì thế, việc giải quyết mâu thuẫn trở nên khó khăn, làm ảnh hưởng tới việc kết hợp các mặt đối lập một cách đúng đắn nhằm đem lại những lợi ích thiết thực trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay. Từ thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, biết kết hợp các mặt đối lập đúng đắn trong công cuộc đổi mới đất nước, nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu thực tế đó, nên em chọn đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vấn đề mâu thuẫn và sự vận dụng quan điểm này trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay làm đề tài tiểu luận. Mặc dù có nhiều cố gắng, song do trình độ nhận thức còn hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Qua bài viết, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới TS Trần Nguyên Ký – người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài tiểu luận này! Xin chân thành cảm ơn! TP. Hồ Chí Minh ngày 06/11/2010 5
  6. Chương I QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ VẤN ĐỀ MÂU THUẪN I. Vị trí của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn) Bàn về quy luật này, V.I.Lê-nin khẳng định: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”1. Như vậy, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân” của phép biện chứng. Đây là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng về nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển. Theo đó, những mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật chính là nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển. II. Nội dung quy luật Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối 1 V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr.240. 6
  7. lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới. 1. Một số khái niệm • Mâu thuẫn Mâu thuẫn của thế giới khách quan đã được rất nhiều nhà triết học trong lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các mâu thuẫn Âm – Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khách quan. Hêghen đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Quan niệm siêu hình định nghĩa: mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập. Nói chung, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng khái niệm mâu thuẫn còn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập. Đến quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, ta đã có một khái niệm tổng quát và chính xác nhất: mâu thuẫn là mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. • Các mặt đối lập Mặt đối lập chính là nhân tố tạo thành mâu thuẫn. Đây là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những đặc điểm có khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau, chúng tồn tại khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. 7
  8. Thí dụ: điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử. Ở đây, ta có thể nhận ra, “điện tích âm” và “điện tích dương” là hai mặt đối lập, bởi hai thuộc tính “âm” và “dương” trái ngược nhau. Nhưng chúng lại không thể tách rời nhau. Nếu mất một trong hai thuộc tính trên, thuộc tính còn lại vô nghĩa, khi đó nguyên tử không thể tồn tại. Một thí dụ khác về các mặt đối lập, đó là sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội. Sự trái ngược nhau của hai mặt đối lập này thể hiện trong đặc điểm của chúng. Sản xuất là hoạt động nhằm tạo ra hàng hóa; tiêu dùng thì ngược lại: tiêu thụ và sử dụng hàng hóa. Tuy đối lập, nhưng chúng lại không thể tồn tại nếu thiếu nhau. Nếu hàng hóa được sản xuất ra mà không có người tiêu thụ, thì những người sản xuất sẽ bị thua lỗ, hoạt động sản xuất bị trì trệ, từ đó có thể dẫn tới sự phá sản. Ngược lại, nếu như chỉ có tiêu thụ mà không có sản xuất, người tiêu dùng không tìm được mặt hàng cần thiết, khi đó nhu cầu về vật chất, tinh thần của họ không được đáp ứng đầy đủ, có thể làm nảy sinh nhiều kết quả, tác động tới nhiều đối tượng. Ví dụ, những người bị nhiễm HIV rất có nhu cầu muốn dùng một loại thuốc đặc trị trong khi chưa ai sản xuất được. Như thế, nhu cầu tiêu thụ của họ bị kìm hãm, hậu quả là họ không chữa khỏi được bệnh và sẽ chết. Sự trái ngược nhau và sự thống nhất không thể tách rời của các mặt đối lập nêu ở trên được phép biện chứng khái quát thành một quy luật phổ biến: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, hay quy luật mâu thuẫn. 2. Tính chất chung của mâu thuẫn a) Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến 8
  9. Đối lập với các quan điểm cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định: tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hóa, bài trừ phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động, phát triển khách quan của chính bản thân sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có bài tiết và hấp thụ, di truyền và biến dị, đồng hóa và dị hóa. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng như chủ nô và nô lệ, địa chủ và nông dân, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu, sản xuất và tiêu dùng, tính kế hoạch hóa của từng xí nghiệp, công ty với tính vô chính phủ của nền kinh tế hàng hóa… Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lí và sai lầm, hay như Ăng-ghen: “trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi những mâu thuẫn; chẳng hạn như giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn 9
  10. chế, trong những năng lực nhận thức – mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận – và được giải quyết trong sự đi lên vô tận.”1 Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Theo Ăng-ghen, sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn. b) Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Có nhiều loại mâu thuẫn: • Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập của sự vật khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cần có quan điểm lịch sử cụ thể, tuỳ phạm vi phân tích. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có vai trò 1 C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.173-174. 10
  11. hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình, mà phải thông qua mâu thuẫn bên trong để phát huy tác dụng nhất định. Như vậy, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài có sự tác động qua lại với nhau. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. • Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật. Mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong quá trình phát triển của sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Mâu thuẫn không cơ bản bao giờ cũng tồn tại gắn liền với mâu thuẫn cơ bản, và trong quá trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản. • Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. 11
  12. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của mọi sự vật. Nó có tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác tồn tại trong cùng sự vật ở giai đoạn đó. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là từng bước giải quyết mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát triển của sự vật. • Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với nhau. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình. Bên cạnh đó, trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự 12
  13. biểu hiện của mâu thuẫn. Vì thế, khi xét một mâu thuẫn, ta cần xem nó thuộc loại mâu thuẫn nào để có cách giải quyết phù hợp và đúng đắn. 3. Quá trình vận động của mâu thuẫn Như đã nói, mâu thuẫn được tạo nên bởi các mặt đối lập. Do đó, quá trình vận động của mâu thuẫn chính là sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập. a) Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, và xét trong một chỉnh thể, phải có sự tồn tại thống nhất của hai mặt đối lập, chúng ngược chiều nhau và phủ định của nhau, nhưng không thể tách rời và biệt lập chúng; khi đó chúng mới được gọi là hai mặt đối lập của mâu thuẫn. Sự thống nhất đề cập ở đây là sự thống nhất của các mặt đối lập - khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Hiểu theo cách nào đó, sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó. Theo V.I.Lê-nin: “Sự đồng nhất của các mặt đối lập (“sự thống nhất” của chúng, nói như vậy có lẽ đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng), đó là sự thừa nhận (sự tìm ra) những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập, trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội). Điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong sự “tự vận động” của chúng, trong sự phát triển tự phát của 13
  14. chúng, trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập”1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một cách căn bản. b) Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập trong mâu thuẫn Nói tới đấu tranh, tức là đấu tranh của hai mặt đối lập trong thể thống nhất. Thống nhất là sự thống nhất của hai mặt đối lập đang không ngừng bài trừ nhau, đấu tranh với nhau. Ở đây, có một sự gắn bó chặt chẽ giữa mặt thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thống nhất là điều kiện đấu tranh, muốn đấu tranh thì phải thống nhất, đồng thời thống nhất là để dẫn tới đấu tranh. Đấu tranh là nội dung bên trong của thống nhất, còn thống nhất là hình thức chuyển tải đấu tranh. Như vậy, trong mỗi sự vật, sự thống nhất và sự đấu tranh của hai mặt đối lập chính là điều kiện để nó tồn tại và phát triển. Nếu như chỉ có đấu tranh thì sự vật sẽ không có lí do để tồn tại với tư cách là sự vật. Còn nếu chỉ có sự thống nhất thì sự vật không thể phát triển được. Nói cách khác, chính mâu thuẫn khách quan là nguồn gốc của sự phát triển. 1 V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981. t.29, tr.379. 14
  15. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, dù thống nhất là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó - nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan - song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Tính tương đối ở đây không nên hiểu theo nghĩa đơn thuần về mặt thời gian là chỉ xảy ra ở một thời điểm cụ thể nào đó, mà phải xét trong từng trường hợp cụ thể, từng phương diện cụ thể, từng phạm vi không gian, thời gian cụ thể. Bởi vì, nhìn về tổng thể, đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lê-nin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”1. c) Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kì sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, gặp điều kiện chín muồi, chúng sẽ chuyển 1 V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr.379-380. 15
  16. hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Ở đây, ta cũng không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản máy móc. Bởi thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn. Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới.. Chính vì 16
  17. vậy, Lê-nin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập.”1 III. Ý nghĩa phương pháp luận Trước hết, vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn, tích cực tìm tòi, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lê-nin cho rằng: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó…đó là thực chất…của phép biện chứng”2. Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do đó, trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp, biết kết hợp các mặt đối lập một cách linh hoạt, sáng tạo.Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất! 1 V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr379. 2 V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr378. 17
  18. ChươngII SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY I. Vận dụng quy luật mâu thuẫn trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa 1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm Có hai ý kiến khác nhau về kinh tế thị trường : Một là xem kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế, lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế, là phương thức tổ chức vận hành kinh tế – xã hội. Kinh tế thị trường là phương thức, phương tiện, công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả, tự nó không mang tính giai cấp – xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan niệm này thì kinh tế thị trường là vật “trung tính”, là công nghệ sản xuất ai sử dụng cũng được. Hai là xem kinh tế thị trường là một quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải là cái nhân riêng lẻ, mà còn là những tập đoàn, những giai cấp xã hội. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. 18
  19. Cho nên, kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó. Thực tế, kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư bản, được xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sở để trước đây nhiều người đồng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó được củng cố thêm còn do quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều kì thị với kinh tế thị trường, tuyệt đối hoá nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sự đối lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định rằng, nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do còn có sự phân công lao động…làm cho các đơn vị kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hoá và những người kinh doanh hàng hoá độc lập (hoặc tương đối độc lập). Vì thế, trong nền kinh tế, nhất định sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tế đó vận hành trong môi trường kinh tế thị trường. 2. Chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường là một một tất yếu khách quan ở nước ta Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ 19
  20. trung tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển. Ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Bởi vì lịch sử đã cho thấy, việc không chấp nhận sự tồn tại của kinh tế thị trường trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một sai lầm gây hậu quả nặng nề. Sai lầm ấy thể hiện ở việc chúng ta đã tuyệt đối hóa sự đối lập giữa tư hữu và công hữu, giữa kinh tế tư nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa; đồng thời tách rời giữa kế hoạch và thị trường. Chúng ta đã chưa nhận thức đúng mức vai trò của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, của quy luật cung – cầu, cũng như tính có giới hạn của chế độ quản lí tập trung bao cấp cao độ, được xây dựng trên nền tảng một lực lượng sản xuất thấp kém, trong điều kiện chiến tranh, dẫn tới hành động duy trì quá lâu sự tồn tại của nó sau này. Chúng ta đã không vận dụng quy luật mâu thuẫn một cách đúng đắn theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Rõ ràng, sự xung đột giữa hai mặt đối lập (ở đây là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản) chưa lên đến đỉnh điểm, chúng ta đã vội vàng tìm cách giải quyết mâu thuẫn. Trong nhận thức chủ quan của chúng ta, nền kinh tế thị trường là cái gì đó hoàn toàn xa lạ, đối lập với chủ nghĩa xã hội, cần phải cải tạo, xóa bỏ,… Chính những nhận thức sai lầm đó đã làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong những năm 80 của thế kỉ XX. Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với 20
nguon tai.lieu . vn