Xem mẫu

  1. Luận văn Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn 1954-1960
  2. Contents MỤC LỤC .............................................. Error! Bookmark not defined. PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 3 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .................................................... 3 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ................................................. 4 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ................................... 4 3.1. Mục đính ................................................................................. 4 3.2. Nhiệm vụ ................................................................................. 4 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................... 5 4.1. Đối tượng ................................................................................ 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................. 5 5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 5 5.1. Nguồn tài liệu .......................................................................... 5 5.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................... 6 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ............................................................ 6 CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 6 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1960 .................... 6 1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ ................................................................. 6 1.1.1. Bối cảnh trong nước và nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam ............................................................................................... 6 1.1.2. Bối cảnh quốc tế – một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng (1954-1960) ....................... 12 1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ............ 27 1.2.1.Những chủ trương mới của Đảng về đối ngoại (từ 7-1954 đến 7/1956) ........................................................................................ 27 1.2.2. Chủ trương đối ngoại của Đảng trong thời gian từ 7-1956 đến 1958 ............................................................................................ 35 1.2.3. Đường lối đối ngoại của Đảng hình thành về cơ bản (1959- 1960) ........................................................................................... 37 CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 45 QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ........................................... 45 GIAI ĐOẠN 1954-1960 ....................................................................... 45 2.1.ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP THƯƠNG, THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ .................................................................................... 45 2.1.1. Thời gian 300 ngày (từ 20-7-1954 đến 20-5-1955) ................ 46 2.1.2. Tình hình thi hành hiệp định Giơnevơ về Việt Nam từ 20-5- 1955 đến 20-7-1956 ...................................................................... 48 2.1.3. Tình hình thi hành hiệp định Giơnevơ về Việt Nam (từ 20/7/1956 đến 1960) ..................................................................... 59 2.2. CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VỚI CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẶC BIỆT LÀ LIÊN XÔ, TRUNG QUỐC. ............................................................................................ 68 2.3. CẢI THIỆN QUAN HỆ VỚI LÀO VÀ CAMPUCHIA ................. 71 1
  3. 2.4. MỞ RỘNG QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ ỦNG HỘ PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở CHÂU Á, CHÂU PHI VÀ KHU VỰC MỸ LATINH ......................................... 75 CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 78 MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ........................... 78 3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT ................................................................ 79 3.1.1. Những cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1954-1960 ..................................................................... 79 3.1.2. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung và chủ trương, chính sách đối ngoại trong giai đoạn 1954-1960 nói riêng. ............................................. 84 3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM .......................................................... 85 3.2.1. Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng phải được xây dựng trên cơ sở độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại ........................................................................................ 85 3.2.2. Tư tưởng ngoại giao hoà bình, hoà hiếu là truyền thống nhân văn Việt Nam ............................................................................... 87 3.2.3. Phải có những đối sách, hoạt động đối ngoại phù hợp với tình hình mới, đúng đắn, sáng tạo......................................................... 87 3.2.4. Xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước láng giềng; quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn .............. 88 3.2.5. Ngoại giao nhân dân đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Đảng ....................................................................... 89 KẾT LUẬN ......................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 92 2
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc, hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, Mỹ thay chân Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Lúc này, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là xu thế hoà hoãn đang tác động tiêu cực đến chiến lược của các nước đồng minh của ta. Tất cả các nước trên thế giới, kể cả Liên Xô và Trung Quốc đều chưa ủng hộ Việt Nam dùng đấu tranh cách mạng thống nhất đất nước, mà đi vào xu thế hoà hoãn nhằm giữ nguyên trạng Châu Âu và nguyên trạng thế giới. Chính trong bối cảnh đó, Đảng đã phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc phân tích tình hình, xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối đối ngoại nói riêng. Có thể nói, lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1960 đã chứng kiến quá trình nhận thức yêu cầu của lịch sử, hình thành về cơ bản đường lối đối ngoại, đồng thời từng bước triển khai thực hiện đường lối đó, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam. Sự hình thành đường lối cách mạng Việt Nam nói chung và đường lối đối ngoại của Đảng nói riêng trong giai đoạn 1954-1960 tạo cơ sở vững chắc, đồng thời để lại những kinh nghiệm quý báu cho các giai đoạn sau này. Với ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: “Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn 1954-1960” làm đề tài Luận văn của mình. 3
  5. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn 1954-1960 như: “Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam” của Lưu Văn Lợi (Nhà xuất bản Công an nhân dân 1998); “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” của Nguyễn Dy Niên (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2002); “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)”, tập 1 (Nhà xuất bản Sự thật 1990)...; Ngoài ra, còn một số bài báo như: “Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến cứu nước (1954-1975)” của Khắc Huỳnh (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4/2005); “Nhìn lại quan hệ Xô-Việt thời kỳ 1945-1975” của Nguyễn Ngọc Mão, Vũ Thị Hồng Chuyên (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1925)... Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu của nước ngoài về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam cũng đa dạng và phong phú như: “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” của Gabrien Côncô, (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 1991); “Việt Nam cuộc chiến tranh mười nghìn ngày” của Maicơn Máclia, (Nhà xuất bản Sự thật, 1990)... Những công trình trên đều đề cập đến đường lối đối ngoại của Đảng ở những khía cạnh khác nhau, song chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn 1954-1960 một cách rõ nét và có hệ thống. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đính - Làm sáng tỏ quá trình hình thành và nội dung đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn 1954-1960. - Làm rõ kết quả và bước đầu tổng kết, đánh giá, rút ra một số kinh nghiệm trong việc xác định đường lối và chỉ đạo thực hiện của Đảng. 3.2. Nhiệm vụ - Tập hợp đầy đủ và hệ thống hoá những nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài. 4
  6. - Phân đoạn lịch sử làm rõ tiến trình nhận thức cũng như sự hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới. - Trình bày toàn bộ điều kiện lịch sử có tác động đến việc hình thành chính sách đối ngoại của Đảng trong mỗi thời đoạn trên; những nội dung của đường lối đối ngoại cũng như biện pháp cụ thể nhằm thực hiện chủ trương đó. - Khái quát kết quả đạt được trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, làm rõ những thành công và hạn chế của từng thời đoạn lịch sử đó. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng - Quá trình nhận thức và xác định chính sách đối ngoại của Đảng từ 1954- 1960, luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề này trong giới hạn từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7-1954) đến năm 1960. -Việc thực hiện chủ trương đối ngoại của Đảng trong giai đoạn này. - Kinh nghiệm lịch sử của Đảng trong việc xác định đường lối đối ngoại và tổ chức triển khai thực hiện. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Bối cảnh quốc tế và trong nước, trong đó có chiến lược của các nuớc lớn ảnh hưởng đến quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Đảng. - Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung và ảnh hưởng của nó đến sự hình thành chính sách đối ngoại. - Việc thực hiện chính sách đối ngoại và những thành công bước đầu trong quá trình thực hiện. 5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Nguồn tài liệu - Các Văn kiện Đảng giai đoạn 1954-1960. - Các tác phẩm của Hồ Chí Minh, tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước có liên quan đến đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn này. - Các tác phẩm và công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, bao gồm các sách đã xuất bản, các bài đăng trên tạp chí khoa học... 5
  7. - Tài liệu đang được lưu trữ trong cơ quan lưu trữ của Đảng và Nhà nước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử nhằm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời đoạn khác nhau. - Đồng thời, sử dụng phương pháp logic nhằm làm rõ những vấn đề mang tính quy luật, nguyên tắc trong việc xác định và chỉ đạo thực hiện chính sách đối ngoại. - Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh để có cái nhìn tổng thể về quá trình hình thành chính sách đối ngoại của Đảng. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Quá trình hình thành đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 1954-1960. Chương 2: Quá trình thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn 1954-1960 Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử CHƯƠNG 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954-1960 1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ 1.1.1. Bối cảnh trong nước và nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam Cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao thắng lợi là chiến dịch Điện Biên Phủ đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. 6
  8. Đây là một thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Thắng lợi đó đã mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc, căn bản hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, chính quyền Aisenhao đã kiên quyết biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng, là “thành trì chống chủ nghĩa cộng sản”, là “cơ sở để chứng minh cho nền dân chủ ở châu Á của Mỹ” theo tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Đalet: Điều quan trọng nhất không phải là khóc than cho quá khứ mà phải nắm lấy cơ hội tương lai nhằm ngăn cản không để mất miền Nam Việt Nam, để cuối cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương. Để thực hiện được âm mưu trên, Mỹ đã áp đặt ở miền Nam Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà đặc điểm của nó là ở chỗ “được thực hiện không phải bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ giả hiệu”[12;tr.18]. Ngày 7-7-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng chính quyền Sài Gòn, ngày 17-7-1955, theo sự chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 23-10-1955, với những biện pháp mua chuộc và lừa bịp, Ngô Đình Diệm đã tổ chức “trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và tự lên ngôi Tổng thống nguỵ quyền. Hoàn cảnh mới của thế giới và tình hình Việt Nam lúc bấy giờ không cho phép đế quốc Mỹ cai trị miền Nam theo lối của thực dân Pháp trước đây. Áp dụng chính sách thực dân kiểu mới, đế quốc Mỹ lừa bịp nhân dân thế giới và nhân dân ta bằng cách dựng lên một chính quyền bản xứ có đủ hình thức thức cần thiết, mà chúng coi là độc lập. Chỉ trong vòng gần một năm, Mỹ đã hoàn thành việc thay thế chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của Pháp và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền mới ra đời là 7
  9. kết quả của sự đầu hàng của Pháp đối với Mỹ, khẳng định thất bại của đế quốc Pháp về quân sự và chính trị trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Tuy nhiên, tư cách pháp lý của chính quyền miền Nam không vì thế mà thay đổi: Ngô Đình Diệm kế nghiệp Bảo Đại, chính quyền miền Nam vẫn chỉ có nhiệm vụ cùng với Pháp phụ trách việc quản lý hành chính ở miền Nam để chờ đợi tổng tuyển cử, đồng thời cùng với Pháp thi hành triệt để các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Như vậy, đứng về mặt pháp lý cũng như thực tế lịch sử, không có một cơ sở nào để bè lũ Ngô Đình Diệm thiết lập một nhà nước riêng biệt ở miền Nam Việt Nam. Và cái “nhà nước” mà Mỹ – Diệm đã dựng lên ở miền Nam và đặt tên là “nước Việt Nam cộng hoà” là kết quả trực tiếp của việc chúng phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Nhà nước đó hoàn toàn bất hợp pháp. Để che đậy bản chất thuộc địa đã lỗi thời, lừa phỉnh nhân dân và dư luận thế giới, Mỹ đã khoác cho chính quyền Ngô Đình Diệm một hình thức độc lập quốc gia giả hiệu, có quốc hội, có hiến pháp, có quân đội...nhưng thực tế, chính quyền miền Nam lúc bấy giờ không phải là một chính quyền độc lập. Đế quốc Mỹ đặt cố vấn khắp nơi, nắm các ngành hoạt động quan trọng, liên tiếp đưa các phái đoàn nhân viên quân sự và vũ khí nhằm lập căn cứ quân sự ở miền Nam. Mỹ lấy danh nghĩa là giúp đỡ Diệm những thực chất Mỹ dùng viện trợ để “buộc” chặt chính quyền Ngô Đình Diệm vào Mỹ. Chúng ra sức tuyên truyền lừa bịp quần chúng nhân dân từng nơi, từng lúc với những thủ đoạn mị dân như “chống tứ đổ tường", "diệt dốt", "phục hồi văn hoá Á Đông", "cộng đồng hương thôn”... Những luận điệu tuyên truyền của chúng trái ngược với thực tế của một xã hội thối nát, vì vậy, Mỹ - Diệm không thể che giâú bộ mặt phản dân tộc của một chính quyền ngoại lai bán nước, không thể tìm được chỗ dựa trong các tầng lớp nhân dân. Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Mỹ - Diệm liên tiếp tiến hành những hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ ngày càng nghiêm trọng và có hệ thống. Ngô Đình Diệm công khai nhận viện trợ của Mỹ về vũ khí, dụng cụ chiến tranh và nhân viên quân sự, để cho Mỹ lập căn cứ quân sự và gây chiến tranh trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Trái với những điều 16,17 của Hiệp định đình chiến, 8
  10. chúng đàn áp phong trào cách mạng, mở những cuộc hành quân càn quyét, các chính sách tố cộng, diệt cộng với phương châm “đạp lên oán thù, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong thời gian từ 1954-1960, Mỹ- Diệm đã giết hại hơn 90.000 người yêu nước, bắt bớ, tra tấn, giam cầm hơn 800.000 người khác trong hơn 1000 nhà tù. Điều hết sức nghiêm trọng là chúng phá hoại các điều khoản chính trị của Hiệp nghị Giơnevơ không thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do trong cả nước (7-1956). Âm mưu và bản chất xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ đã được bộc lộ rõ. Chính trong thời gian này, Đa-lét và Ngô Đình Diệm đã hình thành một cương lĩnh hành động chung chống chủ nghĩa cộng sản. Theo cương lĩnh đó, những nghị quyết của Hội nghị Giơnevơ nhằm tiến hành tổng tuyển cử ở Việt Nam vào tháng 7/1956 hoàn toàn không phù hợp với đường lối của họ nhằm duy trì sự chia cắt đất nước hoặc biến miền Nam thành một nước được Mỹ bảo hộ hoàn toàn. Tờ báo Anh Thế giới Phương Đông hồi đó có viết: Mỹ đang cố hết sức biến miền Nam Việt Nam thành pháo đài chống cộng. Chế độ Diệm là do Mỹ dựng lên, tổ chức và trả lương để nhằm ngăn trở việc thi hành Hiệp định Giơnevơ. Các tác giả đăng tài liệu mật trên tờ Thời báo – Mặt trời Chi-ca-gô những người lãnh đạo ở Oa-sinh-tơn đã hết sức thán phục việc Ngô Đình Diệm biết cách đàn áp nhanh chóng và có hiệu quả đến như vậy. Chính vì vậy mà Aisenhao và Đa-lét đã tìm mọi cách duy trì chế độ Ngô Đình Diệm mặc dù theo nhận xét của Cục tình báo Trung ương Mỹ về tình hình miền Nam Việt Nam cho biết triển vọng thiết lập một “chế độ vững chắc” “hết sức nhỏ” và điều chắc chắn hơn là tình hình hiện nay sẽ tiếp tục xấu dần trong năm tới. Chủ trương can thiệp và xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ không được sự nhất trí ủng hộ ngay trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ. Vì lý do này hay lý do khác, nhiều người đã sớm nhận ra hậu quả của sự can thiệp này. Ngày 23-10- 1954, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Uynxơn đã lên tiếng phản đối việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam và cho rằng Mỹ nên rút khỏi khu vực này. Đó là những tiếng nói thức thời, có lương tri, biết cân nhắc đâu là lợi ích thực sự của nước Mỹ. Việc Mỹ quyết tâm biến miền Nam Việt Nam thành một phòng tuyến 9
  11. chống cộng bằng cách trực tiếp nắm lấy bộ máy nguỵ quyền, nguỵ quân từ cơ sở, (do các cố vấn Mỹ quyết định mọi vấn đề), còn tạo ra mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Mỹ và chính quyền tay sai. Mặc dù, chính quyền Ngô Đình Diệm phải dựa vào Mỹ để tồn tại nhưng trong suốt một thời gian dài, tập đoàn Ngô Đình Diệm vẫn tìm mọi cách đấu tranh, hạn chế sự lấn át của Mỹ để vớt lại một phần quyền lực tương đối độc lập của mình. Như vậy, rõ ràng đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại Hiệp định Giơnevơ từ khi nó được ký kết như lời Tổng thống Aixenhao tuyên bố ngày 22-7-1954: Hoa Kỳ không dự vào những quyết định của hội nghị và không bị ràng buộc vào những quyết định ấy. Cũng như Tổng thống của mình, khi còn là thượng nghị sĩ, Kennơdy đã nhấn mạnh “Việt Nam là hòn đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta, chúng ta không thể từ bỏ nó”[41; tr.43]. Chính vì lẽ đó, trong học thuyết Đôminô của mình, Mỹ chọn Việt Nam làm trọng điểm của chính sách xâm lược. Nếu mất Việt Nam, Mỹ có thể mất nhiều nơi trên thế giới, trước hết là khu vực Đông Nam Á. Đánh bại Việt Nam, Mỹ sẽ đánh bại được phong trào giải phóng dân tộc, đánh bại được chủ nghĩa xã hội ở vùng này. Và Mỹ chắc rằng với một lực lượng nguỵ quyền, nguỵ quân cùng khối lượng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại mà Mỹ đem đến Việt Nam, chiến thắng sẽ nhanh chóng thuộc về Mỹ. Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh điều hoàn toàn ngược lại. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại bi thảm của Mỹ ở Việt Nam đó là Mỹ đã đánh giá thấp đất nước, xã hội và con người Việt Nam, không hiểu biết lịch sử Việt Nam như lời nhận định của chính Mc Namara “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc (trong trường hợp này là Bắc Việt Nam và Việt Cộng) đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó. Chúng ta đã đánh giá nhân dân và các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam theo kinh nghiệm của chính chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy họ niềm khát khao và quyết tâm chiến đấu giành tự do và dân chủ. Chúng ta đã đánh giá hoàn toàn sai các lực lượng chính trị trong nước”[41;tr.316]. 10
  12. Sau chín năm kháng chiến, miền Nam chưa có ngày hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách tưởng chừng khó vượt qua. Tình hình trên cho thấy đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đến đây chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập, hoà bình, dân chủ chưa kết thúc. Lúc này, trách nhiệm lịch sử lại một lần nữa đặt lên vai Đảng Lao động Việt Nam. Cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều vấn đề phải giải quyết như: miền Bắc chờ miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội? Nếu chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa thì biện pháp, hình thức, bước đi nên như thế nào? Miền Nam trường kỳ kháng chiến, chịu chia cắt lâu dài hay tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng hoàn toàn? Đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hoà bình hay bạo lực cách mạng? Con đường giải phóng miền Nam làm thế nào để giữ vững hòa bình ở miền Bắc, không để lan thành chiến tranh khu vực hoặc chiến tranh biên giới? Trước tình hình đó, đường lối cách mạng của Đảng đề ra trong thời kỳ này được triển khai qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng và được hoàn thiện tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng (9-1960). Đại hội đã xác định: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước”[21;tr.916]. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có mối quan hệ mật thiết và gắn bó khăng khít với nhau. Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ tất yếu sau khi đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt, tạo cơ sở cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng cả nước. Vì vậy, “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự 11
  13. phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”[21;tr.917]. Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, “đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam”[21;tr.917]. Mặc dù nhiệm vụ cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm thời bị chia cắt song đều hướng tới mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc. Trong đó, nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam hiện nay là “tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”[21;tr.918]. Như vậy, có thể thấy rằng, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết đặc điểm tình hình mới của đất nước Việt Nam đã quy định hai chiến lược cách mạng khác nhau giữa hai miền, đồng thời nó chi phối việc xác định chủ trương chính sách đối ngoại trong thời kỳ mới. Thực chất, chính sách đối ngoại là biểu hiện của chính sách đối nội trên phạm vi quốc tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích của nhân dân. 1.1.2. Bối cảnh quốc tế – một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng (1954-1960) Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, mục tiêu chủ yếu của Mỹ là tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống chủ nghĩa xã hội nhưng âm mưu đó chưa thể thực hiện được khi hệ thống chủ nghĩa xã hội đang lan rộng từ châu Âu sang châu Á và ngày càng phát triển mạnh. Liên Xô - trụ cột, thành trì của chủ nghĩa xã hội không bị suy yếu mà trái lại còn hùng mạnh và vững chắc hơn trước. Năm 1955, Liên Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1950-1955) trước thời hạn. Tổng sản lượng công nghiệp của Liên Xô năm 1955 tăng 85% so 12
  14. với năm 1950, nhiều gấp 3.2 lần so với trước chiến tranh. Từ năm 1956 đến năm 1961, gần 6000 xí nghiệp được xây dựng và đi vào sản xuất. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng có những bước phát triển đáng kể, mạng lưới giao thông được mở rộng, những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong việc phóng vệ tinh và hành tinh nhân tạo lên vũ trụ làm cho uy tín của phe xã hội chủ nghĩa tăng rõ rệt. Sức mạnh về kinh tế và quốc phòng của Liên Xô đã làm đảo lộn chiến lược “trả đũa ồ ạt” của đế quốc Mỹ. Mùa hè năm 1955, Chính phủ các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp ở Giơnevơ Liên Xô đã góp phần tích cực làm cho Hội nghị nhất trí tuyên bố cùng nhau làm dịu đi tình hình thế giới, gạt bỏ mối đe doạ của chiến tranh. Tình hữu nghị của Liên Xô và các nước Á - Phi ngày càng được củng cố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu biết chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị và thiện chí của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đối với vấn đề an ninh tập thể ở châu Âu và châu Á, Liên Xô chủ trương tạo ra ở Châu Âu những đảm bảo vững chắc cho hoà bình và những điều kiện cần thiết cho sự hợp tác kinh tế lâu dài giữa tất cả các nước ở lục địa này. Các nước Đông Âu là những nước bị tàn phá nặng nề trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau khi hoà bình được lập lại, với sự giúp đỡ của Liên Xô, nhân dân lao động ở những nước này xây dựng lại đất nước, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân với tốc độ khá nhanh. Cùng với Liên Xô, Trung Quốc cũng bước vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ đưa Trung Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đến năm 1954, giá trị sản lượng công, nông nghiệp toàn quốc gấp 2,2 lần năm 1949. Đời sống vật chất và văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân được nâng cao rõ rệt. Chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đoàn kết được toàn dân hướng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được. Trong những năm 1954-1955, tình hữu nghị giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với các nước Á - Phi được mở rộng và phát triển lên một bước mới. Tại nhiều hội nghị quốc tế, nước Cộng 13
  15. hoà Nhân dân Trung Hoa có vai trò và tiếng nói quan trọng. Uy tín quốc tế của Trung Quốc trong thời kỳ này được nâng lên rõ rệt. Quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong những năm 50 đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của cách mạng thế giới. Liên Xô, Trung Quốc đã cùng nắm tay nhau tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc như cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953), cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam (1946-1954)... Đặc biệt, tháng 5 năm 1955, tổ chức Hiệp ước Vacxava ra đời nhằm đối phó với việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Tây Đức và khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã khẳng định sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa. Các nước tham gia Hội nghị Vacsava (từ ngày 11 đến 14-5-1955) đã quyết định ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ Vacxava với thời hạn 20 năm nhằm giữ gìn an ninh của các nước hội viên (bao gồm Anbani, Bungari, Hungari, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ba Lan, Rumani, Liên Xô và Tiệp Khắc), duy trì hoà bình ở châu Âu và củng cố hơn nữa tình hữu nghị và hợp tác vững bền giữa các nước. Mặc dù trong thời gian này có một số bất đồng, mâu thuẫn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa song nhìn chung các nước vẫn giữ được sự thống nhất. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân tại Matxcova năm 1957 đã ra Tuyên bố kêu gọi các Đảng Cộng sản, các lực lượng dân chủ, tiến bộ, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, khẳng định sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, lên án những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại trong một số Đảng ở một số nước. Chỉ 3 năm sau Hội nghị Matxcova 1957 đã có nhiều biến động quan trọng diễn ra trên thế giới và trong phong trào cộng sản quốc tế. Trong bối cảnh phức tạp đó, Hội nghị đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân họp ở Matxcova (11-1960) đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của các Đảng Cộng sản và công nhân là bảo vệ và củng cố hoà bình, ngăn chặn bọn đế quốc hiếu chiến phát động chiến tranh thế giới mới, tăng cường đoàn kết phong trào cộng sản đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. 14
  16. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc có những bước phát triển mới, bao trùm các nước Trung Đông, lan nhanh sang Châu Phi và Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, Hội nghị Băngđung được triệu tập với sự tham gia của 29 nước Á, Phi. Hội nghị đã đánh dấu việc các nước Á, Phi quyết định bước lên vũ đài lịch sử, đoàn kết với nhau từ những phong trào lẻ tẻ, tách rời, liên kết với nhau trong một mặt trận thống nhất của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ như vũ bão, nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành độc lập ở mức độ khác nhau. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gợi lên cho nhân dân, trước hết là các lực lượng cách mạng ở các nước châu Phi những suy nghĩ mới về đường lối và phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 8-1954, Đảng Cộng sản Marốc ra tuyên bố đòi chính phủ Pháp phải chấm dứt các hành động đàn áp, khủng bố những người yêu nước, phải thả tù chính trị. Theo kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, nhân dân Marốc đã cầm vũ khí, kiên trì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ở các nước châu Phi khác như: Tuynidi, Angiêri, Mali... phong trào đấu tranh giành độc lập cũng phát triển mạnh mẽ với khí thế sôi nổi. Điển hình là phong trào giải phóng ở Angiêri. Mặt trận giải phóng dân tộc Angiêri ra đời được sự hưởng ứng của phần lớn các đảng phái và tổ chức yêu nước, đại diện cho các giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, và các tầng lớp khác trong xã hội. Cuộc chiến đấu của nhân dân Angiêri bắt đầu nổ ra ngày 1-11-1954 và được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới... Tiếp đó, năm 1956, 3 nước Bắc Phi: Tuynidi, Marốc, Xuđăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước cộng hoà Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng dậy của các nước Tây Phi, để rồi đến năm 1960 - có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập và đi vào lịch sử với tên gọi “Năm Châu Phi”. Châu Á - đối tượng xâm lược của các đế quốc châu Âu và Bắc Mỹ từ hàng trăm năm, cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc ở đây được tiếp thêm 15
  17. sức mạnh rõ rệt, đặc biệt là ở Đông Dương, sự đoàn kết gắn bó giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia càng thêm chặt chẽ, để chuẩn bị đối phó với những thủ đoạn xâm lược kiểu thực dân mới mà đế quốc Mỹ đang triển khai tích cực. Đặc biệt, ngày 1-1-1959, cách mạng Cuba giành thắng lợi và tháng 5/1960, Chính phủ Cuba tuyên bố gia nhập hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, bất chấp sự ngăn chặn thù địch của Mỹ. Cách mạng Cuba thành công trên một đất nước nằm ngay ở cửa ngõ nước Mỹ đã xua tan ấn tượng về sức mạnh của bọn tư bản thống trị, củng cố lòng tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân các nước Mỹ Latinh càng giác ngộ về nhiệm vụ đấu tranh giành quyền sống và độc lập tự do cho dân tộc mình. Cuba đã trở thành ngọn cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh. Bằng việc công nhận hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành độc lập, các nước đế quốc phương Tây phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vì hoà bình dân chủ và tiến bộ của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. “Nếu phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tác dụng đánh phá các hậu phương của chủ nghĩa đế quốc thì phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở chính quốc có tác dụng công phá vào sào huyệt của CNTB”[45;tr.24]. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giữa các lực lượng dân chủ với các lực lượng phản động ở các nước tư bản ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn, phong phú và linh hoạt. Ở Pháp, Italia, nhiều cuộc đấu tranh để bảo vệ chế độ dân chủ, chống chế độ phản động của nền chuyên chế cá nhân cũng phát triển bằng nhiều hình thức. Ở nhiều nước Mỹ Latinh, giai cấp cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha đã bị lật đổ, làm cho đời sống nhân dân vẫn chịu cảnh cơ cực, xã hội càng suy thoái. Lạm phát, nợ nần, đói rách là những vấn đề nhức nhối kéo dài mà chính quyền không giải quyết được. Nhân dân đã nổi dậy lật đổ chính quyền ở nhiều nước. Ở Châu Á, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống sự hà khắc của chính quyền tư sản cũng không kém phần sôi nổi, quyết liệt. Những cuộc biểu tình, mitting trong 16
  18. các tầng lớp nhân dân diễn ra mạnh mẽ ở Nhật Bản, Hàn Quốc... Bên cạnh đó, hoà chung với phong trào chống đế quốc, chính phủ các nước Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương tích cực thực hiện chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, xoá bỏ những ảnh hưởng của thực dân trên đất nước mình. Tháng 6-1954, Chính phủ Ấn Độ và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình: 1. Tôn trọng chủ quyền và sự thống nhất lãnh thổ của nhau 2. Không xâm lược lẫn nhau; 3. Không can thiệp vào nội chính của nhau 4. Bình đẳng và có lợi cho hai bên; 5. Cùng tồn tại trong hoà bình. Bản tuyên bố này được chính phủ các nước ủng hộ và coi đó là năm nguyên tắc bất di bất dịch của mối quan hệ quốc tế giữa các nước trên thế giới. Hội nghị Băngđung (4-1955) cũng nhấn mạnh hơn nữa năm nguyên tắc này. Như vậy, có thể thấy rằng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tình hình thế giới có những thuận lợi đáng kể: chủ nghĩa xã hội đã hình thành hệ thống và phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới nổ ra rộng rãi, sôi nổi. Sức mạnh tổng hợp của ba yếu tố trên đã tạo nên thế tiến công toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào cách mạng ở Việt Nam thời kỳ 1956-1960 nói riêng. Cũng trong thời kỳ này, trong nội bộ của chủ nghĩa tư bản cũng có những biến động đáng kể. Là cường quốc số 1 thế giới, mục tiêu nhất quán trong chính sách đối ngoại của Mỹ là giành, giữ ảnh hưởng thị trường thế giới và trở thành bá chủ thế giới. Mục tiêu đó xuyên suốt mấy thế kỷ qua và được các nhà cầm quyền Mỹ đặt lên hàng đầu. Để làm được điều đó, không phải chỉ có sức mạnh quân sự, kinh tế và chính trị, mà còn cần có một chiến lược toàn cầu phù hợp, một chính sách xâm nhập và bành trướng khôn khéo. Sau Chiến tranh thế giới II, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu, ráo riết chạy đua vũ trang, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước, tổ chức đảo chính, dựng lên những chính 17
  19. quyền bù nhìn tay sai. Chiến lược toàn cầu của Mỹ gồm có chiến lược chung (chiến lược tổng quát) và chiến lược quân sự toàn cầu. Chiến lược chung bao gồm những quan điểm, tư tưởng và phương hướng chỉ đạo chiến lược cho tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao và thường được mang tên học thuyết hoặc chủ nghĩa (Học thuyết Tơruman có chiến lược quân sự toàn cầu là “chiến lược ngăn chặn”; Chủ nghĩa Aixenhao có chiến lược quân sự toàn cầu là “trả đũa ồ ạt”’ Học thuyết Kennơdy có chiến lược quân sự toàn cầu là “phản ứng linh hoạt”...). Mỹ đã giương cao khẩu hiệu “Chống bành trướng của chủ nghĩa cộng sản” làm ngọn cờ chủ đạo để tập hợp lực lượng trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh với nhiều tên gọi khác nhau như “Ngăn chặn và đẩy lùi”, “Trả đũa ồ ạt”, “Bên miệng hố chiến tranh”. Thực hiện âm mưu bá chủ thế giới, Mỹ tập hợp các nước đế quốc trong các liên minh quân sự do Mỹ cầm đầu: Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), khối CENTO ở Trung Cận Đông (1959), và nhiều hiệp định song phương khác... Trong quá trình điều chỉnh chiến lược ngăn chặn ở Châu Á, giới chiến lược quân sự Mỹ phát hiện thấy lúc này hướng yếu nhất trong chiến lược của Mỹ ở Châu Á là Đông – Nam Á, một khu vực rộng lớn tiếp xúc với Trung Quốc ở phía Nam. Đông – Nam Á có tầm quan trọng về chiến lược, nó kiểm soát cửa ngõ ra vào giữa hai biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.Chiến lược ngăn chặn Đông Nam Á bắt đầu và Đông Dương trở thành trọng điểm của chiến lược này. Sau một thời gian dài tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang, cuộc ganh đua giữa hai cường quốc Xô - Mỹ đã bắt đầu chững lại, thay vào đó là xu thế hoà hoãn. Xu thế này được khẳng định rõ hơn với Hiệp định Đình chiến ở Triều Tiên và Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX (1956), N.Khơrútxôp chính thức lên nắm quyền, đưa ra kế hoạch nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản trong vòng 20 năm. Để thực hiện mục tiêu đó, Liên Xô đã đề nghị với Mỹ giảm bớt chạy đua vũ trang, giữ nguyên trạng Châu Âu với khẩu hiệu “Thi đua hoà bình”, “Chung sống hoà bình, tập trung xây dựng kinh tế, ổn định tình hình 18
  20. chính trị”. Đối với phong trào cách mạng thế giới, Liên Xô chủ trương đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình. Nhìn chung, lúc này Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng không phải là mối quan tâm hàng đầu của Liên Xô. Thời gian cuối thập niên 50, Liên Xô tập trung viện trợ cho một số nước. Ở Châu Á có Ấn Độ, Inđônêxia; ở Châu Phi có Ai Cập; ở Châu Mỹ có Cuba. Liên Xô coi những nước này là đồng minh chiến lược quan trọng. Còn đối với Việt Nam, Liên Xô tự đặt vị trí của mình là quan sát viên, tránh đụng đầu với Mỹ. Liên Xô thúc đẩy việc thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về tập kết, chuyển quân, giải phóng miền Bắc, viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khôi phục và xây dựng kinh tế. Coi miền Nam Việt Nam là một bộ phận của phong trào độc lập dân tộc, Liên Xô muốn Việt Nam đấu tranh chính trị, pháp lý để từng bước giải quyết vấn đề miền Nam. Liên Xô đã phản ứng một cách dè dặt, không dứt khoát với việc Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Năm 1957, Liên Xô đề nghị kết nạp cả miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hợp Quốc. Điều đó chứng tỏ trên thực tế chủ trương hoà hoãn Xô - Mỹ buộc Liên Xô thừa nhận khu vực ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á. Thực tế lịch sử cho thấy, sự thay đổi quan điểm của Liên Xô trong quan hệ với Việt Nam diễn ra một cách chậm chạp do gặp phải nhiều lực cản từ phía Mỹ. Sau khi hoà bình lập lại ở Đông Dương, Trung Quốc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, duy trì và mở rộng quan hệ với Liên Xô, tỏ thái độ hoà hoãn với Mỹ và tìm cách bình thường hoá với một số nước phương Tây. Trên con đường tập hợp lực lượng, Trung Quốc chủ trương lấy vấn đề ủng hộ Việt Nam làm khẩu hiệu thu phục nhân tâm. Trung Quốc xem Việt Nam là đối tác trung gian tốt nhất để có thể đưa ra đàm phán với Liên Xô và Mỹ khi cần thiết. Để khống chế được Việt Nam, Trung Quốc vận động Việt Nam thi hành tốt Hiệp định Giơnevơ năm 1954, viện trợ cho Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh. Riêng đối với miền Nam, Trung Quốc cho rằng ta nên trường kỳ mai phục, không nên nóng vội phát động đấu tranh vũ trang. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 19
nguon tai.lieu . vn