Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1954 - 1975 PHẠM NGỌC HIỀN (*) TÓM TẮT Đề tài Điện Biên Phủ được thể hiện khá nhiều trong văn học nghệ thuật. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, đã có 9 tiểu thuyết về đề tài này. Hầu hết điều là những tài liệu lịch sử quý giá, cung cấp cho bạn đọc nhiều tài liệu bổ ích về cuộc chiến Điện Biên. Ngoài ra, một số tác phẩm còn có giá trị nghệ thuật cao, có vị trí vẻ vang trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Từ khoá: Điện Biên Phủ, tiểu thuyết, văn học cách mạng. ABSTRACT Dien Bien Phu is one of the most favorite topics in Vietnamese literature and art. In the 1954-1975 period, there are 9 novels about this topic. Most of them are valuable historical documents, providing readers with useful information about the battle of Dien Bien Phu. In addition, some of these works have high artistic value, and high position in the stream of modern Vietnamese novels. Keywords: Dien Bien Phu, novel, revolutionary literature. Điện Biên Phủ là sự kiện l ch sử lớn, phẩm viết về đề tài này nhiều nhất. Truyện không chỉ có ý nghĩa quan trọng ở Việt ngắn có số lượng ít hơn nhưng cũng có tới Nam mà còn trên cả thế giới. Nó không chỉ hàng trăm tác phẩm. Do dung lượng khiêm là đ a hạt khai thác vô tận cho các nhà tốn nên truyện ngắn chỉ phản ánh một lát nghiên cứu l ch sử mà còn là một đề tài rất cắt nhỏ của trận chiến. Muốn tìm hiểu một quen thuộc trong văn học nghệ thuật. Đã có cách đầy đủ chiến d ch Điện Biên, người ta rất nhiều tác phẩm ca k ch, hội hoạ, điêu thường tìm đến tiểu thuyết. khắc, phim ảnh… khai thác đề tài Điện Trong số 180 tiểu thuyết cách mạng Biên Phủ. Nhưng có lẽ nó được tái hiện Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, có một cách đầy đủ, chân thực và sinh động khoảng 9 tác phẩm viết về đề tài Điện Biên nhất trong các tác phẩm văn chương, nhất Phủ. Ta có thể chia làm hai loại lớn: Một là là tiểu thuyết.* những tác phẩm miêu tả trực tiếp chiến 1. KHẢO SÁT CÁC TIỂU THUYẾT VỀ trường, tức là miêu tả từ điểm nhìn bên ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ ngoài của nhân vật, như Người người lớp Điện Biên Phủ là một trong những đề lớp, Cao điểm cuối cùng, Truyện một tài lớn của văn chương. Trong các thể loại người bị bắt, Trong này Điện Biên, Dòng văn chương, thơ và kí chiếm số lượng tác sông v.v... Thứ hai là những tác phẩm miêu tả gián tiếp chiến trường. Đó là hoạt động () TS, Trường Đại học Sài Gòn. của hậu phương tiếp vận cho tiền tuyến 41
  2. như Chiến đấu sau hoả tuyến, Thồ lên Điện hơn, toàn diện hơn và được giới phê bình Biên, Đằng sau phía trước v.v. Hoặc miêu ưu ái hơn do cuộc đời Hữu Mai ít thăng tả chiến trường thông qua hồi ức của các trầm hơn Trần Dần. chiến sĩ Điện Biên như Bốn năm sau… Năm 1962, Lê Khánh, Phan Đình Ngoài ra, chưa kể đến hàng loạt tiểu thuyết Huyền công bố tiểu thuyết Trong này Điện khác có nhắc đến Điện Biên Phủ nhưng Biên nói về cuộc sống khổ cực của người không xem nó như một đề tài chính trong dân Điện Biên trong vòng kiểm soát của tác phẩm. Pháp. Đằng sau phía trước (1974) của Tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài Điện Hoàng Minh Châu là cuốn tiểu thuyết cuối Biên Phủ là Người người lớp lớp của Trần cùng về đề tài Điện Biên trong bộ phận tiểu Dần. Tác phẩm được viết ngay sau khi thuyết cách mạng Việt Nam thời chiến chiến d ch kết thúc. Tập I được in cuối năm tranh. Dĩ nhiên, đề tài Điện Biên Phủ vẫn 1954, tập II và III được in vào năm 1955, tiếp tục chảy trong tiểu thuyết Việt Nam tổng cộng 239 trang. Nếu cho rằng các tác sau 1975 nhưng nó là đối tượng khảo sát phẩm Xung kích (1951), Vùng mỏ (1951), của một công trình nghiên cứu khác. Con trâu (1952) chỉ là truyện vừa hoặc 2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CÁC TIỂU THUYẾT truyện kí thì Người người lớp lớp là cuốn VỀ ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ tiểu thuyết đầu tiên của văn học cách mạng Nhiều nhà văn quan niệm tiểu thuyết là Việt Nam. tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống. Cũng trong năm 1955, bạn đọc còn Bởi vậy, họ cố gắng miêu tả chân thực các đón nhận thêm một tiểu thuyết khác về đề sự kiện l ch sử. Tuy nhiên, cách phản ánh tài Điện Biên là Dòng sông của Nguyễn hiện thực của tiểu thuyết không khô khan Chân. Tác phẩm lồng ghép nhiều đề tài, như trong kí hoặc các công trình sử học. trong đó có chiến d ch Điện Biên và miêu Hiện thực trong tiểu thuyết đã được hư cấu, tả cả thân phận người lính thời hậu chiến. nhào nặn lại theo ý đồ sáng tạo của tác giả. Năm 1957, có hai tiểu thuyết về đề tài này. Nhiều nhà văn cách mạng thường có xu Thồ lên Điện Biên của Đào Phương miêu tả hướng tô hồng hiện thực theo kiểu ta tốt - cảnh dân công Thanh Hoá phục vụ chiến đ ch xấu, ta dũng cảm - đ ch hèn nhát, ta trường Điện Biên. Truyện một người bị bắt tổn thất ít - đ ch tổn thất nhiều… Nhưng của Vũ Cao nói về thân phận của các tù những thiếu sót này đã được khắc phục binh Việt Minh b đ ch bắt giam trong lòng trong một số tiểu thuyết về đề tài Điện chảo Điện Biên. Biên Phủ. Bốn năm sau (1959) của Nguyễn Huy Trong Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai Tưởng miêu tả hai sắc màu Điện Biên đã tái hiện thành công một không gian trong chiến tranh và hòa bình. Tác phẩm chiến trường khốc liệt và sinh động bậc phản ánh hoạt động khai phá đất hoang xây nhất trong văn học Việt Nam. Tính khốc dựng kinh tế mới của các chiến sĩ Điện liệt của cuộc chiến được thể hiện qua sức Biên. Năm 1961, Hữu Mai công bố cuốn mạnh vũ khí của quân Pháp: “Chúng còn tiểu thuyết hay nhất về đề tài Điện Biên dựng lên cả một hàng rào lửa trước vị trí. Phủ là Cao điểm cuối cùng. Mặc dù có Cả thung lũng Mường Thanh sôi lên ầm nhiều điểm giống với Người người lớp lớp, ầm”, “Khúc hoà tấu rầm rộ ầm ầm như nhưng Cao điểm cuối cùng có cái nhìn sâu động biển của các cỡ pháo lớn”,“Không 42
  3. gian rung rinh vì tiếng máy bay”. Trước sự dẫn ở những trang văn bừng bừng khí thế liều chết cố thủ của đ ch, quân đội Việt chiến đấu. Các chiến sĩ Việt Minh dũng Minh b tổn thất nặng nề. Có lẽ chưa có cảm lao mình trong “thác lửa rừng khói”, cuốn tiểu thuyết nào trong văn học Việt “rừng bom lửa”, “biển khói lửa”, “trận Nam đã mạnh dạn miêu tả tổn thất của bộ mưa sắt lửa”. Đôi lúc, tác giả cũng hơi đội như tác phẩm này: “Dưới chiến hào, “phóng đại” sự khốc liệt của chiến trường, thương binh tử sĩ chặt như nêm”, “Những nhưng có thể chấp nhận được vì nó có tác xác chết xám đen, chương nứt không còn dụng tô đậm khí thế chiến đấu của binh sĩ. ra hình người, nằm ngổn ngang khắp Trong văn học Việt Nam, khó tìm được nơi”,“Họ đưa tay lên xoa mặt tưởng là bị những câu văn miêu tả chiến trận hùng bùn đánh bắn vào, chợt nhận ra đấy chỉ là tráng như thế này: “Cả miền khu đông sát mảnh thi thể nát vụng của bạn đồng đội”. khí đằng đằng”,“quân ta chạy như Khi nguồn bộ đội chủ lực cạn kiệt, các sĩ bão”,“xô lên như biển động”,“Quân ta quan huy động cả vệ binh, vận tải, cấp đánh náo động cả lên, hai mũi cứ dọc dưỡng, nhân viên văn phòng… tiếp tục ngang vùng vẫy, diệt một toán, lại diệt tiếp chiến đấu để giành thắng lợi. sang toán khác”.“Lửa chớp hung dữ, Giá tr của Cao điểm cuối cùng còn những tiếng nổ như tầm sét đánh (…) Cao được thể hiện ở cái nhìn khách quan của xạ pháo ta đang đan lửa trên không. Bà tác giả về cuộc chiến. Để khẳng đ nh sự già rụng, B26 rụng (…) Một cuộc đấu pháo dũng cảm của Việt Minh, Hữu Mai đã đấu phi cơ kịch liệt, vang trời dậy đất diễn chứng minh rằng đối thủ của họ cũng ra từ hai tiếng. Trong khi đó, bộ binh bộc không phải tầm thường. Quân Pháp không phá dấn thân trong mưa lửa đánh phá chỉ có hoả lực mạnh mà còn có tướng tài. hàng rào Him Lam! Người trước ngã, kẻ Dưới mắt của binh lính Pháp, De Castries sau xô lên tiếp! Mặc dù đạn xé lửa thiêu, quả là một anh hùng. Cô hộ lí Đờ Ga-la mặc dù xương tan thịt nát, người người lớp “giữ một ấn tượng tốt đẹp về vị tướng. Sao lớp xông lên”. mà ông ta bình thản đến thế, bình thản một Đọc các tiểu thuyết về đề tài Điện cách lạ lùng. Sao mà một vị tướng lại có Biên, ta không chỉ thấy được cuộc sống thể giản dị và thân mật với mọi người đến chiến đấu của Việt Minh mà còn cả phía như thế”. Chính nhờ có cái nhìn khách quân Pháp. Người người lớp lớp và Cao quan mà Cao điểm cuối cùng chinh phục điểm cuối cùng đều có nhiều trang miêu tả cả bạn đọc nước ngoài. Trong các công nội bộ phức tạp của Pháp ở Hà Nội, trình nghiên cứu của mình, nhà sử học Paris… Hữu Mai đứng từ đ a hình Việt Bernard Fall (Mỹ) thường trích dẫn các Minh phóng tầm nhìn sang hầm De đoạn văn trong Cao điểm cuối cùng và Castries. Còn Trần Dần cho nhân vật Sâm nhận đ nh về Hữu Mai: “Nhà trần thuật b đ ch bắt làm tù binh. Qua cái nhìn cận Việt Minh này không phải là người huênh cảnh của Sâm, toàn bộ cuộc sống phức tạp hoang” [5]. hỗn độn của phe đ ch hiện ra khá rõ nét. Nếu như Cao điểm cuối cùng thuyết Cuộc sống của tù binh Việt Minh ở Điện phục bạn đọc ở cái nhìn khách quan và Biên Phủ cũng được tái hiện trong Truyện mạnh dạn lột tả tổn thất của cuộc chiến thì một người bị bắt của Vũ Cao. Các tù binh Người người lớp lớp của Trần Dần lại hấp Lượng, Đang, Nông… đã vận động binh 43
  4. lính đ ch mở đường cho bộ đội đánh vào họ cũng góp phần vẻ vang làm nên chiến đại bản doanh của Pháp. Trong nhiều tác thắng Điện Biên. Cậu thanh niên Quy trong phẩm văn xuôi về đề tài Điện Biên, tác giả Chiến đấu sau hỏa tuyến cũng mơ ước trực chỉ miêu tả không gian chiến trận trong tiếp cầm súng chiến đấu nhưng không được phạm vi đồn đ ch. Nhưng tiểu thuyết Trong thỏa nguyện. Cậu đã tiếp sức cho trận đ a này Điện Biên đã mở rộng đối tượng phản bằng cách tham gia đội xe vận tải chở hàng ánh. Khái niệm “chiến trường Điện Biên” hóa vượt 4000 cây số đến Điện Biên. Nhờ bao gồm cả vùng dân cư nhiều dân tộc sinh có sự tiếp viện đầy đủ và k p thời của sống. Pháp bắt thanh niên người Việt đi những người “sau hoả tuyến”, chiến d ch lính. Các binh sĩ như Bản, Lương, Khụt, Điện Biên toàn thắng. Ơng, cai bếp… đã tìm cách làm nội ứng Có thể nói, mỗi cuốn tiểu thuyết đã cho cách mạng. Như vậy, “Trong này Điện cung cấp một mảng hiện thực khác nhau Biên” không chỉ có phe đ ch mà còn có cả góp phần làm cho bạn đọc có cái nhìn toàn phe ta nữa. cảnh về chiến d ch Điện Biên. Ngày nay, Một số tác phẩm không chỉ miêu tả những trang văn đó vẫn còn tính thời sự cuộc chiến Điện Biên mà còn phản ánh cả nóng hổi, vẫn cần được tiếp tục khai thác những hậu quả mà nó để lại. Tiểu thuyết trên nhiều góc độ khác nhau. Dòng sông có nhiều trang miêu tả khá sinh 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA động trận đánh Điện Biên. Anh bộ đội CÁC TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI Lương b cụt mất tay và được cô y tá Na ĐIỆN BIÊN PHỦ chăm sóc tận tình. Hòa bình lập lại, Tần Giá tr của một tác phẩm văn xuôi chấp nhận hi sinh tình yêu để Na lấy không chỉ thể hiện ở việc phản ánh chân Lương và giúp đỡ người thương binh này. thực cuộc sống mà còn thể hiện ở cách viết Ta cũng gặp một mối tình bộ ba khác trong sinh động, hấp dẫn. Chính giá tr nghệ Bốn năm sau. Trong một trận đánh, anh bộ thuật sẽ quyết đ nh sự trường tồn của tác đội Doan cứu cô bé Ngàn thoát khỏi vòng phẩm. Trong số các tiểu thuyết về đề tài lửa đạn, nay anh trở lại Điện Biên thì Ngàn Điện Biên, mức độ kết tinh nghệ thuật rất đã thành thiếu nữ. Mẹ của Ngàn muốn gả khác nhau. Sau đây là một số tác phẩm có cô cho Doan nhưng anh lại vướng vợ ở Hà những điểm đáng ghi nhận về nghệ thuật. Nội. Anh mai mối Ngàn cho Cường nhưng Tiểu thuyết Bốn năm sau có cái hấp Cường b vướng mìn cụt chân khi khai dẫn của cốt truyện đầy k ch tính. Thứ nhất hoang. Những hình ảnh chiến tranh vẫn là mâu thuẫn giữa đ ch và ta trong cuộc còn đó qua những bãi đất đầy bom mìn và chiến Điện Biên được thể hiện qua dòng trong vết thương lòng của mỗi người lính. hồi tưởng của các nhân vật. Những quả Nói đến chiến d ch Điện Biên, ta mìn của thời chiến vẫn nổ trong thời bình không chỉ nói đến những trận đánh trực làm Cường b cụt chân. Mâu thuẫn thứ hai diện giữa hai phe mà còn phải kể đến công là mâu thuẫn trong nội bộ những người việc tiếp vận chiến trường. Hai tiểu thuyết lính trở lại chiến trường xưa. Họ so bì với Thồ lên Điện Biên và Đằng sau phía trước những người được ở lại Hà Nội êm ấm, họ miêu tả những khó khăn vất vả của dân chỉ thích cầm súng chứ không thích cầm công Thanh Hóa chi viện chiến trường. cuốc, nội bộ cãi nhau k ch liệt về phương Mặc dù không trực tiếp chiến đấu nhưng thức canh tác… Mâu thuẫn thứ ba là sự 44
  5. trắc trở tình duyên giữa bộ ba Ngàn – Doan hấp dẫn ở những tình tiết xung đột gay cấn – Đào. Doan đứng trước một tình huống giữa ta và đ ch. khó xử là nên về Hà Nội đoàn tụ gia đình Trong Người người lớp lớp, ta có thể hay ở lại Điện Biên xây dựng cuộc sống tìm thấy tất cả các hình thức điệp. Nhiều mới. Nói chung, dù chiến tranh hay hoà nhất là lặp từ “đi” và lặp các động từ cùng bình, vẫn còn đó nhiều xung đột gay cấn trường nghĩa chiến đấu, góp phần tạo nên trên mảnh đất Điện Biên. “không gian động”. Hình tượng lá cờ được Cao điểm cuối cùng được xây dựng nhắc hơn 150 lần: “Lá cờ phất sang phía theo nguyên tắc “tam duy nhất” giống như đông: xung kích ở phía đông nổi dậy, xông sử thi Iliade của Homer. Duy nhất về lên cướp phăng đột phá khẩu! / Lá cờ phất không gian: đồi A1 thuộc chiến trường về hướng tây: xung kích ở phía tây đã vào Điện Biên. Duy nhất về thời gian: những đồn, rồn rập đánh diệt các hào, các ụ! / Lá ngày cuối cùng của năm cuối cùng trong cờ phất sang mũi điểm, mũi điểm thọc cuộc chiến chống Pháp. Duy nhất về hành mạnh! Phất sang mũi diện, mũi diện xô lên. động: tấn công đánh chiếm “Cao điểm cuối Lá cờ phất đến đâu, chiến sĩ nổi dậy đến cùng”. Cao điểm cuối cùng còn hấp dẫn ở đó (…) / Lá cờ vẫn quẫy. Lá cờ quay về nghệ thuật miêu tả chiến trận. Người ta có hướng nào, xung kích ở hướng đó nổi dậy, thể cảm nhận chiến trường Điện Biên bằng kẻ địch ở đó tan, những người anh hùng ở tất cả các giác quan. Th giác và xúc giác: hướng đó xuất hiện”. Ngoài hình thức điệp “Buổi trưa, trời nắng to. Một thứ nắng màu cú pháp như đoạn văn trên, còn có hình đồng vàng chóe nung đỏ thêm quả đồi A1 thức điệp đoạn ở chương 9. Hình thức điệp đã bầm tím vì máu và lửa đạn. Gió Lào này rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại. từng cơn đổ về nóng hầm hập như hơi tuôn Người người lớp lớp có được một ra từ một lò than”. Thính giác: “Khúc hoà giọng văn hùng tráng của thể loại anh hùng tấu rầm rộ ầm ầm như động biển của các ca. Nói như Hegel, tác giả sử thi đã mang cỡ pháo lớn đã đổi giọng”. V giác: “Hơi trong mình “một dòng sử thi cường tráng” thuốc súng làm miệng đắng, cổ họng khô và “một hơi thở sử thi hùng mạnh”. Trần rát”. Khứu giác: “những con quạ mê mệt vì Dần mang trong mình một ngọn lửa anh mùi khắm lặm của những xác chết”… Để hùng ca hừng hực từ lòng chảo Điện Biên khắc hoạ sự tàn khốc của chiến trường, tác và thổi nó vào trang văn. Đọc tác phẩm, ta giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần các hình ảnh có cảm giác không thể ngồi yên một chỗ đàn dòi (dưới đất), ruồi nhặng (lưng mà phải vừa đi vừa đọc. Nh p văn rất chừng), quạ (trên cao): “đàn giòi nhung nhanh, mạnh, phản ánh khí thế chiến đấu: nhúc đang hoành hành”, “Ruồi nhặng vo “Thoắt cái: lựu đạn ném tới tấp. Thoắt cái: vo từng đàn, nhiều lúc đâm sầm vào mặt chiếm một ổ súng (...) Thoắt cái: tổ 1 đánh như có ai ném trấu”, “Trên đầu chúng tôi tan một ổ súng nữa”. Ngọn lửa chiến trận lúc này chỉ toàn quạ đen thôi”… Hữu Mai ấy không chỉ bốc lên trong lòng tác giả và cũng dùng khá nhiều biện pháp tu từ để nhân vật trong khi diễn ra cuộc chiến mà cả cho câu văn giàu hình ảnh sống động. Cách sau khi hoà bình lập lại: “Ta đi đường sử dụng chi tiết cũng rất đắt. Ngoài ra, thương lượng là vì có điều kiện, có lí, có cũng như nhiều tiểu thuyết khác về đề tài lợi, có thể làm được, ai cũng cầu mong! Điện Biên Phủ, Cao điểm cuối cùng còn Hoà bình có thể có, do ta. Có hoa mừng 45
  6. hoa, có nụ mừng nụ. Giơ ne còn mới mẻ, khía cạnh khác nhau về chiến d ch Điện nhưng ta cứ mừng Giơ ne đi hãy...”. Tiểu Biên. Một số tác phẩm có giá tr nghệ thuật thuyết Người người lớp lớp có một giọng cao, tạo ra được những bước ngoặt quan điệu đặc biệt, khó có thể tìm thấy trong các trọng, in dấu ấn đậm nét trong tiến trình tác phẩm văn xuôi khác. tiểu thuyết Việt Nam như Người người lớp Nhìn chung, so với các thể loại khác lớp, Cao điểm cuối cùng… Những tác trong văn học Việt Nam 1954 – 1975, số phẩm này có giá tr cả về nội dung và nghệ lượng tiểu thuyết về đề tài Điện Biên Phủ thuật, có khả năng trường tồn cùng với sự không nhiều. Nhưng mỗi tác phẩm đều có âm vang của chiến thắng Điện Biên. giá tr l ch sử, cung cấp cho bạn đọc một TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo dục, H. 2. Trần Dần (2004), Người người lớp lớp, Nxb Hội nhà văn, H. 3. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 4. Hữu Mai (1961), Cao điểm cuối cùng, Nxb Văn học, H. 5. P.V (2004), “Nhà văn Hữu Mai: có bất công mới cần đến nhà văn”, Báo An ninh thế giới cuối tháng, số 4. * Nhận bài ngày: 24/2/2014. Biên tập xong: 13/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014 46
nguon tai.lieu . vn