- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Đề tài: Cơ sở lý thuyết về định giá doanh nghiệp liên hệ với thực tế hoạt động định giá của công ty cổ phần chứng khoán FPTS
Xem mẫu
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua nên kinh tế Việt Nam có những bước phát triển đáng
kể, tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao, nước ta cũng đã chính thức trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Dẫn đến thị trường chứng khoán
bủng nổ, nhu cầu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu mua bán, sát nhập,
nhu cầu định giá ngày càng tăng cao khiến nhu cầu định giá doanh nghiệp càng trở nên
cấp thiết.
Có rất nhiều phương pháp để xác định giá trị doanh nghiệp, nhưng việc lựa chon
được một phương pháp phù hợp lại là cả một vấn đề. Hiểu được điều đó nhóm 10
chúng em đã quyết định thảo luận đề tài: cơ sở lý thuyết về định giá doanh nghiệp liên
hệ với thực tế hoạt động định giá của công ty cổ phần chứng khoán FPTS”. Từ việc
đánh xem xét việc áp dụng phương pháp định giá tại FPTS chúng ta sẽ có cái nhìn tổng
quát hơn về việc định giá tại các doanh nghiệp”
Trong quá trình làm bài thảo luận do kiến thức còn hạn chế nên bài thảo luận của
nhóm khó tránh khỏi những sai sót.Vì vậy chúng rất mong thầy góp ý để bài thảo luận
của nhóm được hoàn thiện hơn.
Nhóm thảo luận xin chân thành cảm ơn !
Lê Thanh Tùng 1
- Phụ lục
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1.1. Giá trị doanh nghiệp và nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp
1.1.1. Giá trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được sự thừa nhận về mặt pháp luật trên
một số tiêu chuẩn nhất định. Pháp luật Việt Nam xác định: Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhăm mục đích thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Về mô hình tổ chức, doanh nghiệp bao gồm các loại: công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà
nước.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp là một loại tài sản, có các nét đặc trưng:
Giống như các hành hóa thông thường khác, doanh nghiệp là đối tượng của các
giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với
loại hàng hóa đặc biệt này cũng chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, cung cầu,
cạnh tranh…
Giống như bất động sản: Mỗi doanh nghiệp là một tài sản duy nhất. Mỗi doanh
nghiệp có quy mô và cơ cấu tài sản khác nhau, có vị trí và trụ sở kinh doanh riêng biệt
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
và độc lập, có cơ cấu quản trị và sự tác động của môi trường khác nhau. Không có 2
doanh nghiệp giống nhau hoàn toàn. Việc so sánh giá trị của doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác có tính chất tham chiếu.
Doanh nghiệp không đơn giản là tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị
sử dụng của chúng bị giảm dần theo thời gian. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế, là
một thực thể hoạt động, có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Sự phát triển
của doanh nghiệp tùy thuộc vào các mối quan hệ của doanh nghiệp với môi trường. Vì
vậy, đánh giá về doanh nghiệp nói chung và giá trị doanh nghiệp nói riêng đòi hỏi phải
xem xét tất các mối quan hệ bên trong và bên ngoài – đánh giá doanh nghiệp về mặt tổ
chức.
Nhà đầu tư sở hữu doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận. Các tài sản cố định, tài
sản lưu động, bộ máy kinh doanh là các thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi
nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và
đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại
cho nhà đầu tư trong tương lai.
Và vì vậy: Giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh. Các phương pháp
định giá doanh nghiệp phải được xây dựng dựa trên cơ sở:
+ Đánh giá giá trị các tài sản hữu hình và yếu tố tổ chức – các mối quan hệ
+ Đánh giác các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra cho nhà đầu tư.
1.1.2. Nhu cầu xác định gía trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị đối với loại hàng
hóa này là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như
trong hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh nghiệp.
Lê Thanh Tùng 3
- Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên
quan, gắn bó trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp được xuất phát chủ yếu từ các yêu cầu
quản lý và các giao dịch:
+ Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp nhập,
hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất
thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đàu tư trực
tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các
yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh
tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên phạm vi rộng lớn
các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có
tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến
trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
+ Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân tích,
đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh
nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét cho
cùng là phải tăng được giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là sự phản ánh năng
lực tổng hợp, khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây
các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy dược khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
mình và các doanh nghiệp khác. Do vậy giá trị doanh nghiệp làm một căn cứ thích hợp,
cơ sở để đưa ra cac quyết định về kinh doanh, tài chính… một cách đúng đắn.
+ Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, người cung cấp, thông tinh về giá trị doanh
nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, khả năng tài chính
và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đươa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc
tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
+ Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá
cả các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp có chứng
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
khoán được trao đổi mua bán trên thị trường. Vì vậy trên phương diện quản lý vĩ mô,
thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính
sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị
trường, nhận dạng hiện tượng đàu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát
doanh nghiệp… để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết phù hợp. Ngoài ra,
trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là
một bước đi quan trọng để cải cách các doanh nghiệp nhà nước như: cổ phần hóa, sáp
nhấp, hợp nhất hay giao, bán và cho thuê.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường trong cơ
chế thị trường đã đặt ra những yêu cầu cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp.
Đó có thể là những yêu cầu có tính chất tình huống, cũng có thể là đòi hỏi thường
nhật trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể:
Nhà nước, nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy định giá doanh nghiệp là
một đòi hỏi tất yêu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường.
1.2. Các yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp
1.2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh (MTKD) là yếu tố ảnh hưởng có tính khách quan về cơ bản
vượt khỏi tầm kiểm soát của doanh nghiệp Để tồn tại và phát triển được, cũng giống
như trong khoa học tự nhiên, doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với môi trường.
Môi trường kinh doanh được chia làm 2 loại:
Môi trường kinh doanh tổng quát: gồm có môi trường kinh tế, môi trường
chính trị, môi trường văn hóa – xã hội và môi trường kỹ thuật.
* Môi trường kinh tế
Doanh nghiệp bao giờ cũng tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh
kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt chỉ tiêu vĩ mô như: tốc độ tăng trường,
chỉ số giá cả, tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng khoán…
Lê Thanh Tùng 5
- Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tốc khách quan nhưng ảnh hưởng
của chúng tới GTDN lại là sự tác động trực tiếp.
Mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về
doanh nghiệp: nền kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư
và tiêu dùng ngày càng lớn. Chỉ số giá chứng khoán phản ảnh đúng quan hệ cũng cầu,
đồng tiên ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt
cho doanh nghiệp mở rộng quy mô SXKD. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng
khoán ảo, lạm phát phi mã… là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang
bị lung lay tận gốc. Mọi sư đánh giá về doanh nghiệp, trong đó có GTDN sẽ bị đảo
lộn hoàn toàn.
* Môi trường chính trị
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự ổn
định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, mafia và những
yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng tác động xấu tới mọi mặt đời sống xã
hội chứ không riêng gì Sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ, tác động trực tiếp đến
SXKD bao gồm:
Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống luật pháp.
Quan điểm tư tưởng của Nhà nước đối với SXKD thông qua hệ thống các văn
bản pháp quy như: Quan điểm về sản xuất, đầu tư, tiêu dung… thể hiện trong
luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ…
Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của công dân
và các tổ chức. Pháp luật đã ban hành nhưng không hiện thực, tệ nạn buôn
lậu, trốn thuế, hàng giả… là biểu hiện một môi trường chính trị gây bất lợi
cho sản xuất.
Có thể thấy rằng, cũng như môi trường kinh tế, môi trường chính trị có vai trò như
những điều kiện thiết yếu, tối thiểu để doanh nghiệp có thể hoạt động, và do vậy,
đánh giá về doanh nghiệp bao giờ cũng phải nhìn nhận trước hết từ các yếu tố này.
* Môi trường văn hóa – xã hội.
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
Môi trường văn hóa được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư tưởng của
cộng đồng về lối sống, đạo đức…; quan niệm về “chân, thiện, mỹ”, về nhân
cách, văn minh xã hội; được thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi tường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ, sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các
vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…
Sản xuất kinh doanh có mục tiêu xuyên suốt là lợi nhuận cũng không thể tách rời
môi trường văn hóa –xã hội. Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng.
Vì thế đánh giá về doanh nghiệp không thể bỏ qua những yếu tố, đòi hỏi của môi
trường văn hóa – xã hội trong hiện tại mà còn phải dự báo được sự ảnh hưởng của
yếu tố này đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
* Môi trường khoa học – công nghệ
Sự tác động của khoa học công nghệ đang làm thay đổi căn bản các điều kiện về
quy trình và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản
phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
trong đời sống vật chất và tinh thần. Hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu
thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại.
Song ở góc độ doanh nghiệp, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức với sự tồn
tại của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu
khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân được doanh nghiệp mau chóng đến chỗ phá
sản. Chính vì vậy khi đánh giá về doanh nghiệp, cần phải chỉ ra mức độ tác động của
môi tường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp tước
những bước phát triên mới của khoa học công nghệ.
Môi trường đặc thù:
So với môi trường tổng quát, môi trường đặc thù bao gồm các yếu tố tác động đến
doanh nghiệp mang tính trực tiếp và rõ ràng hơn. Hơn nữa với các yếu tố này, doanh
nghiệp còn có thể kiểm soát chúng ở một mức độ nhất định. Thuộc môi trường đặc thù
có yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, hãng cạnh tranh và các cơ quan nhà nước.
Lê Thanh Tùng 7
- * Quan hệ doanh nghiệp – khách hàng:
Thị trường là yếu tố quyết định đến đầu ra của sản phẩm của doanh nghiệp. Khác
hàng của doanh nghiệp có thể là các cá nhân, doanh nghiệp khác hoặc Nhà nước. Họ
có thể là khách hàng hiện tại hoặc khách hàng trong tương lai.
Thông thường khác hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp, nhưng cũng có
những trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh
nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển, mở rộng SXKD của doanh
nghiệp, cần xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong
quan hệ với khác hàng. Uy tín tốt của doanh nghiệp với khác hàng có được không
phải một sớm một chiều, do nhiều yếu tố hinh thành. Để đánh giá chúng người ta
thường kể đến: Sự trung thành và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng
khách hàng, tiếng tăm và các mối quan hệ tốt, khả năng phát triển các mối quan hệ
đó. Tuy nhiên, căn cứ thuyết phục nhất cho sự đánh giá là thị phần hiện tại và tương
lai, doanh số bán ra và tốc đọ phát triển các chỉ tiêu đó qua các thời kỳ kinh doanh
khác nhau của doanh nghiệp.
* Quan hệ doanh nghiệp – nhà cung cấp:
Doanh nghiệp thường phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hóa,
nguyên vật liệu, dịch vụ điện, nước, thông tin, tư vấn… Tính ổn định của nguồn cung
cấp có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu
cầu mà doanh nghiệp định ra.
Trong quan hệ với nhà cung cấp, doanh nghiệp đóng vai trò “thượng đế”. Tuy nhiên
có thể do tính chất khan hiếm vật tư đầu vào, số lượng nhà cung cấp không đủ lớn
hay sự cấu kết giữ họ với nhau, do mua với số lượng nhỏ… trong nhi ều tr ường h ợp
doanh nghiệp cũng có thể bị sai khiến. Từ đó, đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố
đầu vào đảm bảo cho SXKD có thể ổn định phải xem xét đến: sự phong phú của
nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại nguyên liệu có thể thay thế cho nhau, khả
năng đáp ứng lâu dài của doanh nghiệp rồi mới kể đến tính kịp thời, chất lượng và
giá cả sản phẩm.
* Các hãng cạnh tranh
Được sự ủng hộ của Nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước ngày càng trở nên
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
quyết liệt hơn. Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được coi là mối nguy cơ
trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng lực cạnh tranh, ngoài
việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu mãi còn
phải xác định được số lượng doanh nghiệp cạnh tranh, năng lực thực tế và thế mạnh
của họ. Đồng thời phải chỉ ra những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các
đối thủ mới, như vậy mới có thể kết luận đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường.
* Các cơ quan Nhà nước
Trong cơ chế thị trường, về cơ bản doanh nghiệp được quyền chủ động hoàn toàn đối
với SXKD. Tuy nhiên, sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải được đặt dưới sự
kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: Thuế, thanh tra, công đoàn… Các tổ
chức này có bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh
nghiệp không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong các luật.
Doanh nghiệp có quan hệ tốt với các tổ chức Nhà nước thường là những doanh nghiệp
thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với xã hội: nộp thuế đầy đủ, chấp hành đúng luật lao
động, quan tâm đến vấn đề môi trường… Đó cũng thường là biểu hiện của những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng
các con đường trái phép… Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù
đến SXKD của doanh nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng mối
quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước trong những khoảng thời gian
nhất định.
1.2.2. Các yếu tố nội tại doanh nghiệp:
Khi xác định giá trị doanh nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngày đến hiện trạng
tài sản của doanh nghiệp vì 2 lý do chủ yếu:
Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện yếu tố vật chất cần thiết, tối
thiểu đối với quá trính sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ
thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng
và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tức là khả năng cạnh
tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc một cách trực tiếp và có
tính chất quyết định vào các yếu tố này.
Giá trị các tài sản của doanh nghiệp là một căn cứ đảm bảo rõ ràng nhất về
giá trị doanh nghiệp, vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng,
Lê Thanh Tùng 9
- người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu
nhập từ những tài sản đó.
Từ 2 lý do này mà thực tế, khi vận dụng các phương pháp người ta thường đánh giá
cao những phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh
nghiệp.
Vị trí kinh doanh:
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Vị trí kinh
doanh được đặc trưng bởi các yếu tố như địa điểm, diện tích của doanh nghiệp và các
chi nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết…
Một doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại – dịch vụ, được đặt gần các
đô thị, nơi đông dân cư, trung tâm buôn bán lớn và đầu mối giao thông quan trọng có
thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp. Với vị trí thuận lợi, doanh nghiệp có
thể giảm được nhiều khoản mục chi phí chủ yếu như: vận chuyển, bảo quản, lưu
kho, giao dịch… đồng thời goanh nghiệp sẽ có những thuận lợi lớn để tiếp cận và
nắm bắt nhanh chống nhu cầu, thị hiếu của thị t ường, thực hi ện t ốt các dịch vụ hậu
mãi. Tuy nhiên với vị trí đó, cũng có thể kéo theo sự gia tăng của những khoản chi phí
như thuê văn phòng giao dịch, lao động, các yêu cầu khắt khe hơn của Nhà nước như
xử lý ô nhiễm…
Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với sản xuất kinh doanh là
lý do chủ yếu giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu
vực với nhau. Và cũng chính vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại người ta
thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong thực tế, do sự khác nhau về vị trí
kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp. Vì vậy,
vị trí kinh doanh cần được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu khi
đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
Uy tín kinh doanh:
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp,
nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau bên trong doanh nghiệp như:
chất lượng sản phẩm, trình độ và năng lực quản trị kinh doanh, thái độ phục vụ của
nhân viên…
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
Có thể thấy rằng, khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt
của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực sự, có giá trị và được gọi là giá trị
thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán thương hiệu và
nhiều khi thương hiệu được đánh giá rất cao. Chính vì thế, uy tín của doanh nghiệp
được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên
giá trị doanh nghiệp.
Trình độ kỹ thuật và tay nghề lao động:
Chất lượng sản phẩm doanh nghiệp một mặt phụ thuộc vào trình độ công nghệ của
máy móc thiết bị, mặt khác phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao
động.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng
đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn có thể làm giảm chi phí do việc
sử dụng hợp lý nguyên nhiên vật liệu… trong quá trình sản xuất, giảm chi phí đào tạo
– bồi dưỡng, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao đọng không chỉ xem ở bằng
cấp, bậc thợ và số lượng lao động đáp ứng tiêu chuẩn mà quan trọng hơn là hàm lượng
tri thức trong mỗi sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Như vậy, khi
đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, tạo ra lợi nhuận, cần xem xét trình độ kỹ thuật
và tay nghề người lao động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết định giá trị doanh
nghiệp.
Năng lực quản trị kinh doanh:
Trong điều kiện ngày nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải
có một bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh đủ mạnh để có khả năng sử dụng tốt
nhất các nguồn lực, tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó linh hoạt với
những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng lực quản trị kinh doanh luôn được
nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp.
Quản trị kinh doanh là một khái niệm rộng, được đánh giá theo các nội dung cơ bản
của hoạt động quản trị như: khả năng hoạch định chiến lược – chiến thuật, trình độ
tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị yếu tố đầu vào và đầu ra, quản trị nguồn
nhân lực…
Lê Thanh Tùng 11
- Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính hơn là định lượng, vì vậy khi
đánh giá cần xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng lực quản
trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính.
Do đó thực hiện phân tích tình hình tài chính những năm gần đây cũng có thể cho phép
rút ra những kết luận về năng lực quản trị và tác động đến giá trị doanh nghiệp.
1.3 Các phương pháp chủ yếu xác định giá trị doanh nghiệp
1.3.1 Phương pháp giá trị tài sản thuần
Phương pháp giá trị tài sản thuần còn gọi là phương pháp giá trị nội tại hay mô hình
định giá tài sản. được xây dựng dựa trên các nhận đinh:
Doanh nghiệp vê cơ bản giống như một loại hàng hòa thông thường.
Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở một
lượng tài sản có thực. Những tài sàn đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về sự
tồn tại của doanh nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đâu tư
ngay khi thành lập doanh nghiệp và còn có thể được bổ sung trong quá trình
phát triên sản xuất kinh doanh. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sàn là sự
khẳng định và thửa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các
nhà đầu tư đối với số tài sản đó.
Chính vì vậy giá trị của doanh nghiệp được tính bằng tổng giá thị trường số tài sản
mà doanh nghiệp hiện đang sử dựng vào sản xuất kinh doanh.
Phương pháp xác định
Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ sở hữu
của doanh nghiệp mà chúng còn được hình thành trên các trái quyền khác như: các trái
chủ cho doanh nghiệp vay vốn. tiên lương chưa đến kỳ hạn trả. Thuế chưa đến kỳ
hạn nộp. các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản bán chịu của nhà cung câp.
các tài sản đi thuê... Do vậy. mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài
sàn cấu thành doanh nghiệp, nhưng để thực hiên một giao dịch mua bán doanh nghiệp,
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
người ta phải xác định giá trị tài sản thuần thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo đó
công thức tổng quát được xây dựng như sau:
Công thức tổng quát:
VO = VT – VN
Trong đó:
VO : giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp
VT : tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào quá trình sản xuất
kinh doanh
VN : giá trị các khoản nợ
Từ công thức trên ta suy ra hai cách tính cụ thể về giá trị tài sản thuần như sau:
Cách tính thứ nhất
Dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng cân đối kế
toán tại thời điểm đánh giá để xác định giá trị doanh nghiệp: lấy tổng giá trị tài
sản phản ánh ở phần tài sản trừ đi các khoản nợ phải trả bên nguồn vốn.
Cách tính này có ưu điểm đó là:
Cách tính đơn giản, dễ dàng, là căn cứ để các nhà tài trợ đánh giá khả năng an
toàn của đồng vốn đầu tư, vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
Chứng minh được rằng: đầu tư vào DN luôn được bảo đảm bằng giá trị của
các tài sản hiện có trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên nó có một số nhược điểm:
Số liệu và thông tin trong bảng cân đối kế toán mang tính lịch sử, không còn phù
hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát.
Giá trị còn lại của tài sản cố định; giá trị của hàng hóa, vật tư,...tồn kho trong sổ
kế toán thường không phù hợp với giá thị trường hoặc không đủ độ tin cậy tại
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
Cách tính thứ hai: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường
Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán do Nhà nước quy
địnhthì số liệu trên bảng cân đối kế toánđược lập vào một thời điểm nào đó cũng
không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ số tài sản trong doanh nghiệp. Vì
vậy xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết cần loại ra khỏi danh mục
đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của
Lê Thanh Tùng 13
- sản xuất kinh doanh. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại theo giá thị trường để
tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể.
+ Tài sản cố định và tài sản lưu động
+ Tài sản bằng tiền (ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý,...)
+ Các khoản phải thu
+ Các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp
+ Các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản.
+ Các tài sản vô hình
Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã
được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của bảng cân đối kế
toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được đánh giá lại tại
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
1.3.2 Phương pháp hiện tại hóa các nguồn tài chính trong tương lai
Cơ sở lý thuyết của phương pháp này đều xuất phát trực tiếp từ quan niệm: Giá
trị của một DN được đo bằng độ lớn của khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho
nhà đầu tư trong tương lai. Song trên quan niệm về thời gian của tiền tệ, về chi phí cơ
hội, tức là: giá trị của một đồng tiền ở các thời điểm khác nhau sẽ không giống nhau,
cho nên người ta thực hiện quy đổi các khoản thu nhập về cùng một thời điểm, đó là
thời điểm hiện tại. Theo đó, giá trị của một doanh nghiệp được xác định dựa trên công
thức tổng quát sau:
Trong đó:
V
0 : giá trị doanh nghiệp
F
t : thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm t
i: tỷ suất hiện tại hóa (tỷ suất chiết khấu)
n: thời gian nhận được thu nhập (năm)
Có thể diễn tả công thức trên như sau: Người mua sẵn sàng trả V0 để có doanh
nghiệp nếu như doanh nghiệp tạo ra được các khoản thu Ft trong n năm, hoặc tạo ra
được một tỷ suất lợi nhuận tối thiểu là i.
1.3.3 Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại)
Cơ sở lý luận
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
Giá trị của một doanh nghiệp bao gồm giá trị của tài sản hữu hình và giá trị của tài
sản vô hình.
Giá trị tài sản tính theo sổ sách kế toán không thể hiện được đầy đủ giá trị của
doanh nghiệp do phải tính thêm phần giá trị của những tài sản vô hình của doanh
nghiệp (thường không được thể hiện trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp).
Phần giá trị đó được gọi là lợi thế thương mại.
Lợi thế thương mại là mức chênh lệch giữa lợi nhuận doanh nghiệp thu được với
một mức lợi nhuận thông thường trên cùng lượng tài sản đưa vào sử dụng hay đó là
lợi nhuận siêu ngạch do tài sản vô hình của doanh nghiệp tạo ra
Phương pháp xác định
Các phương pháp xác định lợi thế thương mại có điểm chung là tính giá trị doanh
nghiệp dựa trên giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp cộng với một khoản siêu lợi
nhuận được vốn hóa về hiện tại với một lãi suất chiết khấu nhất định.
Giá trị DN = Giá trị các tài sản hữu hình + Giá trị các tài sản vô hình
V0 = ANC + GW
trong đó:
V0 : giá trị doanh nghiệp
ANC : giá trị tài sản thuần
GW : giá trị tài sản vô hình (còn gọi là lợi thế thương mại)
trong đó:
: lợi nhuân năm t
: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh
r : tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh
r.At : lợi nhuận bình thường của tài sản năm t B. r.A. : siêu lợi nhuân năm t
: siêu lợi nhuận năm t
Áp dụng trong thực tế
Chọn tỷ suất sinh lời bình thường r bằng tỷ suất lợi nhuận trung bình của các
doanh nghiệp cùng ngành kinh doanh, hoặc bằng nghịch đảo của tỷ số PER của các
doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán có điều kiện sản xuất kinh doanh
tương tự.
Giá trị của tài sản At có thể đánh giá lại theo giá thị trường như phương pháp giá trị
tài sản thuần.
Tỷ suất hiện tại hóa i được xác định dựa trên lãi suất trái phiếu của chính phủ + tỷ
lệ % rủi ro.
Phương pháp này có một số han chế đó là:
Trong cơ chế thị trường, khó có một doanh nghiệp nào có thể duy trì lợi thế
thương mại một cách lâu dài.
Lê Thanh Tùng 15
- Phương pháp GW kết hợp giữa hai phương pháp giá trị tài sản thuần và hiện tại
hóa lợi nhuận thuần, vì vậy không tránh khỏi những hạn chế của hai phương
pháp này.
GW có biên độ dao động rất lớn trước những thay đổi nhỏ của r => dễ dẫn đến
những kết luận sai lầm vê giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Phương pháp GW không cung cấp những cơ sở dữ liệu cần thiết để các nhà
đầu tư đánh giá triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai
Ưu điểm
Phương pháp duy nhất cho đến nay xác định giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Bù trừ các sai sót có thể xảy ra khi đánh giá lại giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp
vì nếu giá trị của các tài sản được đánh giá thấp thì sẽ được bù đắp bằng phần tăng
thêm giá trị của GW.
Giúp phân tích tác động của yếu tố rủi ro trong kinh doanh đến giá trị doanh nghiệp.
Phương pháp GW tính đến cả lợi ích của người mua và người bán: người mua doanh
nghiệp nhằm thu được khoản lợi nhuận cao hơn mức sinh lời bình thường của một tài
sản, chứ không phải mua những tài sản hiện hành.
Phương pháp GW chỉ ra quan niệm về mức sinh lời tôi thiêu của một đồng vôn đưa
vào đầu tư đây là cơ sở quan trọng đê ra quyết định đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
1.3.4 Phương pháp định giá dựa trên tỷ số PER (Price Earning Ratio)
Cơ sở lý luận
Giá cả chứng khoán chịu tác động của nhiều yếu tố: cung cầu về chứng khoán,
yếu tố đầu cơ,... giá cả chứng khoán không phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp.
Nếu TTCK hoàn hảo, nghĩa là thỏa mãn 5 điều kiện :
+Có vô số người mua và người bán.
+Các loại chứng khoán thay thế được cho nhau.
+Chứng khoán và thông tin được tự do lưu thông.
+ Mọi thành viên tham gia TTCK đều nắm được các điều kiện giao dịch mua và bán.
Khi đó giá cả chứng khoán có thể được sử dụng để ước lượng giá trị doanh nghiệp vì
chỉ phản ánh cung cầu thuần túy.
Giá cả chứng khoán trên thị trường hoàn hảo là sự đánh giá của thị trường về khả
năng sinh lời của doanh nghiệp: nhà đầu tư bỏ tiền mua cổ phiếu để đánh đổi lấy các
khoản lợi tức cổ phần trong tương lai (ở đây một cổ phiếu xem như tương đương với
một cổ phần).
Khi đó giá trị thực của một cổ phiếu
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
Vn : giá trị bán lại cổ phiếu vào năm thứ n
D1, D 2 , . . D n : lợi tức cổ phần dự kiến năm thứ 1, năm thứ 2,.., năm thứ n
Nếu D1 = D2 =.. .= Dn thì:
Cho n :
Tỷ số được gọi là tỷ số giá lợi nhuận (PER), bằng nghịch đảo của tỷ suất hiện tại
hóa (i) PER=
PER phản ánh mối quan hệ giữa giá giao dịch cổ phiếu trên thị trường với số lợi
nhuận mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư.
PER sẽ tăng cao khi triển vọng gia tăng lợi nhuận hàng năm của công ty càng cao và
mức độ rủi ro đối với lợi nhuận càng thấp.
Khi PER của công ty này có giá trị cao hơn so với công ty khác, chứng tỏ công ty đó
được thị trường đánh giá là có triển vọng gia tăng lợi nhuận cao hơn.
Phương pháp xác định
Giá trị DN = Lợi nhuận thuần dự kiến x PER
Trong đó tỷ số PER của những công ty lớn được niêm yết thường xuyên trên thị
trường chứng khoán, kể cả PER trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành có chứng
khoán được giao dịch trên thị trường này đều phải sử dụng PER của thời kỳ trước để
tính giá trị doanh nghiệp ở thời điểm hiện hành
Phương pháp này có ưu điểm
Được sử dụng khá phổ biến tại các nước đã xây dựng và phát triển được thị trường
chứng khoán do phương pháp này cho phép ước lượng nhanh chóng giá trị của doanh
nghiệp, giúp nhà đầu tư tối thiểu ra quyết định kịp thời trong hoạt động giao dịch.Bản
chất của phương pháp PER là sử dụng giá trị thị trường, có nghĩa là dùng phương pháp
so sánh trực tiếp để ước lượng giá trị doanh nghiệp. Nếu thị trường chứng khoán hoạt
động ổn định, các yếu tố đầu cơ giảm thiểu ở mức thấp nhất thì phương pháp này sẽ
trở nên rất thông dụng.
Lê Thanh Tùng 17
- Nhược điểm
Mang nặng tính kinh nghiệm, không có cơ sở lý thuyết rõ ràng
Không giải thích được vì sao cũng là một đồng lợi nhuận nhưng thị trường sẵn sàng
trả cao/thấp hơn ở doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác.
Không đưa ra được những cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá về khả năng
tăng trưởng và rủi ro tác động đến giá trị doanh nghiệp.
1.4. Quy trình đánh giá giá trị doanh nghiệp
Quy trình đánh giá này được xây dựng nhằm giúp các nhà phân tích có thể hình
dung được toàn bộ nội dung cần phải làm khi đánh giá giá trị của một doanh nghiệp.
Quy trình đánh giá có thể được miêu ta qua sơ đồ sau:
Theo sơ đồ trên, các bước đi và những nội dung công việc chủ yếu của từng
bước cụ thể:
Bước 1: Đánh giá môi trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp.
Mục tiêu đánh giá: Việc đánh giá các yếu tố môi trường và năng lực nội tại của
doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin để xây dựng các giả thuyết về dòng tiền và
đánh giá độ mạo hiểm khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
- PGS.TS Đặng Ngọc Hùng Kế toán định giá doanh
nghiệp
Yêu cầu đánh giá: Phải chỉ ra được những cơ hội thuận lợi và những nguy cơ đe dọa
từ môi trường kinh doanh. Đánh giá các điểm mạnh điều yếu của doanh nghiệp và các
khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự tác động của yếu tố môi trường.
Nội dung đánh giá: Đánh giá đủ 8 yếu tố môi trường: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã
hội, kỹ thuật công nghệ, khách hàng, người cung cấp, các hãng cạnh tranh và mối
quan hệ với các cơ quan nhà nước.
Phương pháp đánh giá: Việc đánh giá được thực hiện qua 2 bước
+ Thu thập thông tin: việc thu thập được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau như
chính sách của nhà nước, các đơn vị khác,…
+ Lựa chọn phương pháp đánh giá: Phương pháp thường được dùng là phương pháp
xếp hạng cho điểm hay còn gọi là phương pháp chuyên gia.
Bước 2: Xây dựng giả thiết về dòng tiền mong đợi và đánh giá độ mạo hiểm của đầu
tư.
Xem xét các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư và từ đó đưa ra các giả
thiết về sự phát sinh dòng tiền.
Mô hình hóa độ mạo hiểm và lựa chọn kỹ thuật xử lý rủi ro.
Bước 3: Đánh giá giá trị doanh nghiệp
Trên cơ sở yêu cầu của việc sử dụng thông tin đầu ra sau khi đánh giá doanh nghiệp
mà người ta sử dụng phương pháp đánh giá thích hợp để cho kết quả như mong muốn.
Lê Thanh Tùng 19
- Chương II: thực trạng xác định giá trị tài sản tại
công ty cổ phần chứng khoán FPT
2.1. Tổng quan về công ty cổ phần chứng khoán FPT
2.1.1 Lịch sủ hình thành phát triển của công ty
CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN FPT (tên viết tắt: FPTS) – thành viên
của Tập đoàn FPT được cấp phép thành lập và hoạt động theo Giấy phép của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước cấp ngày 13/7/2007, với các nghiệp vụ kinh doanh: Môi giới
chứng khoán; Tự doanh chứng khoán; Tư vấn đầu tư chứng khoán; Lưu ký chứng
khoán và Bảo lãnh phát hành chứng khoán. Công ty có trụ sở đặt tại tầng 2, tòa nhà 71
Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội với vốn điều lệ là 200 tỷ đồng.
nguon tai.lieu . vn