Xem mẫu

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài " Văn bia lăng các vua Nguyễn " 1
  2. MỤC LỤC A - MỞ ĐẦU ......................................................................................................4 1. Mục đích và ý nghĩa đề tài ...............................................................................4 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................6 5. Kết cấu đề tài ...................................................................................................7 Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn ..........................................7 Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn ...............................................7 Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn ............................................7 B - NỘI DUNG ...................................................................................................9 2.1.1. Văn bia triều Nguyễn ............................................................................... 29 2.1.2. Văn bia lăng các vua Nguyễn ...................................................................33 Hình 1: Bia lăng Gia Long .............................................................................. 36 Hình 2: Bia lăng Minh Mạng .......................................................................... 37 Hình 3: Bia lăng Thiệu Trị .............................................................................. 37 Hình 4: Bia lăng Tự Đức ................................................................................. 38 Hình 5: Nhà bia lăng Đồng Khánh .................................................................39 Hình 6: Nhà bia lăng Khải Định .....................................................................39 2.2.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 39 2.2.2. Phiên âm ..................................................................................................42 Ngự chế thánh đức thần công bi ký....................................................................42 Hiếu tử tự Hoàng đế, thần Hạo cẩn chí .............................................................. 43 2.2.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 43 CHÚ THÍCH: ..................................................................................................47 2.3.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 51 2.3.2. Phiên âm ..................................................................................................59 Ngự chế thánh đức thần công bi kí ....................................................................59 2.3.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 65 Ngự chế bài văn bia ghi đức thánh công thần .................................................... 65 CHÚ THÍCH: ..................................................................................................72 2
  3. 2.4.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 73 2.4.2. Phiên âm .................................................................................................81 Xương Lăng thánh đức thần công bi ..................................................................81 2.4.3. Dịch nghĩa ............................................................................................... 87 Bia thánh đức thần công ở Xương Lăng ............................................................ 87 CHÚ THÍCH....................................................................................................95 2.5.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................... 97 2.5.2. Phiên âm ................................................................................................ 109 Khiêm cung kí ................................................................................................. 109 2.5.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 118 Bài kí ở Khiêm Cung ....................................................................................... 118 CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 130 2.6.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 134 2.6.2. Phiên âm ................................................................................................ 137 Tư Lăng thánh đức thần công bi ...................................................................... 137 2.6.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 139 Bia thánh đức thần công ở Tư Lăng ................................................................. 139 CHÚ THÍCH: ................................................................................................ 142 2.7.1. Nguyên văn chữ Hán ............................................................................. 143 2.7.2. Phiên âm ................................................................................................ 147 Hiếu tử tự Hoàng đế thần Điển cẩn chí. ........................................................... 149 2.7.3. Dịch nghĩa ............................................................................................. 149 Bia đức thánh công thần ở Ứng lăng ............................................................... 149 3.1. Giá trị lịch sử ............................................................................................ 153 3.2. Giá trị văn học .......................................................................................... 157 3.3. Giá trị mỹ thuật......................................................................................... 159 3.4. Giá trị về ngôn ngữ và chữ viết ................................................................. 161 C - KẾT LUẬN ............................................................................................... 163 Đường vô xứ Huế quanh quanh ....................................................................... 163 D - PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................ 166 Hình 1: Cổng chính đi vào điện Minh Thành (lăng Gia Long) .................. 166 3
  4. Hình 3: Voi và ngựa đá ở sân chầu (lăng Gia Long).................................... 167 Hình 7 : Bi đình lăng Thiệu Trị .................................................................... 170 Hình 9: Đường dẫn vào Hồng Trạch Môn ................................................... 172 Hình 11: Cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp bên cạnh hồ Lưu Khiêm .................. 173 Hình 13: Hồ Lưu Khiêm với Xung Khiêm Tạ và ......................................... 175 Hình 15: Một góc sân chầu nhìn từ phía sau (lăng Đồng Khánh) ............... 177 Hình 17: Lăng Khải Định nhìn từ phía trước .............................................. 179 Hình 18: Hoa văn và nghệ thuật trang trí trên tường (lăng Khải Định)..... 180 I. SÁCH .......................................................................................................... 180 II. BÁO - TẠP CHÍ ....................................................................................... 181 III. TỪ ĐIỂN – TỰ ĐIỂN ............................................................................. 182 Hueá, thaùng 5 naêm 2010 .............................................................................. 183 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ........................................... 184 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN .............................................. 185 MỤC LỤC...................................................................................................... 187 A - MỞ ĐẦU 1. Mục đích và ý nghĩa đề tài Cố đô Huế, một trong những trung tâm văn hóa, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một quần thể di tích sánh hàng với những kì quan thế giới. Với diện tích không lớn nhưng Huế với vẻ độc đáo vĩ đại riêng của 4
  5. mình như “bục đứng của một nhạc trưởng giữa một giàn giao hưởng không gian bất tận” [24,tr177]. Thiên nhiên nơi đây có vẻ hấp dẫn lạ kì: núi xuống tận bình nguyên, biển vào sâu thành đầm phá, đồi thông xanh lặng lẽ đối điện với đô thị ồn ào, náo nhiệt, những ngọn đồi như đang ngủ giấc ngàn thu, dòng sông Hương cứ êm đềm chảy ... Vượt qua con sông này là vùng lăng mộ của các đế vương- nơi an nghỉ của những con người một thời đầy quyền lực. Sự hòa điệu giữa những nét cổ kính mang dấu ấn dân tộc với những nét hiện đại của nền văn minh mới đã mang đến cho Huế một hơi thở vừa quen vừa lạ làm say đắm lòng người. Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu của công cuộc đổi mới, sức sống của mảnh đất này dường như trỗi dậy và bừng cháy. Những giá trị văn hóa truyền thống được đánh thức, đặc biệt là các di tích lăng tẩm đế vương. Đó là sự sáng tạo góp sức của chính những con người Huế và cả những người quan tâm đến nền văn hóa Huế. Huế hôm nay và mai sau mãi mãi là một bài thơ đô thị, là kho sử liệu quý giá cần được nghiên cứu và phát huy. Với hơn ba năm sống trên đất cố đô đầy huyền thoại, chúng tôi cảm thấy mình cần phải làm gì đó để góp phần vào sức sống đang trỗi dậy của cố đô, của nền văn hóa phi vật thể đang ngày càng chứng tỏ giá trị và sức cuốn hút của mình. Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn và các văn bia ở đó đã thực sự thu hút sự chú ý của những người học ngành Hán Nôm như chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này. Đây không chỉ là cơ hội để chúng tôi làm quen với công tác nghiên cứu khoa học mà còn là dịp để ứng dụng những điều đã học vào thực tế. Chúng tôi hy vọng rằng, kết quả của đề tài này sẽ là góp phần vào việc nghiên cứu, đánh giá giá trị văn hóa của Huế ngày càng chính xác và phong phú hơn. 2. Lịch sử vấn đề Huế vốn là nơi giao thoa của hai nền văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh. Nói đến văn hóa Huế, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn diện và xuyên suốt tiến trình lịch sử bởi vì văn hóa Huế có một truyền thống lâu đời. Nhưng ngày nay, khi nhắc đến các di tích lịch sử ở Huế, người ta thường nghĩ ngay đến lâu đài, cung điện, lăng tẩm, thành quách...Bởi vì đây là một quần thể di tích đồ sộ và nhờ có quần thể di tích này mà Huế trở nên nổi tiếng, được vinh danh là di sản văn hóa 5
  6. nhân loại. Đặc biệt lăng tẩm của các bậc đế vương trong mắt của du khách và các nhà nghiên cứu lịch sử- văn hóa luôn gợi cho chúng ta sự tò mò. Các công trình nghiên cứu về các lăng vua có thể nói là rất nhiều. Có những công trình nghiên cứu mang tính khái quát như “Lăng tẩm Huế- một kì quan” và “Kiến trúc cố đô Huế” của Phan Thuận An, “Quần thể di tích Huế di sản Việt Nam” của Thái Công Nguyên; Có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về một lăng như tác phẩm “lăng của hoàng đế Minh Mạng” của Mai Khắc Ứng...Đó là chưa kể đến các bài nghiên cứu trên các tạp chí như: “Lăng Gia Long” trên tạp chí BAVH tập X năm 1923, “Lăng Minh Mạng”- BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia trên lăng Gia Long- BAVH tập X năm 1923, bản dịch bài văn bia của lăng Minh Mạng - BAVH tập VII, bản dịch bài văn bia lăng Tự Đức trên tạp chí sông Hương số 46 (T4-1991)...Nhìn chung, đề tài chúng tôi đang nghiên cứu chưa phải là sự mới mẻ trong công tác nghiên cứu lăng tẩm ở Huế, nhưng mục đích của đề tài là sự tổng hợp lại có hệ thống những văn bia hay còn gọi là “thánh đức thần công bi” ở các lăng vua Nguyễn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Lịch sử với những thăng trầm của nó đã giữ lại cho hậu thế những gì cần giữ lại và xóa đi những cái không cần thiết. Đó cũng giống như trong mười ba đời vua sau chỉ có 7 lăng tẩm của các vua Nguyễn vẫn còn giá trị và đang tồn tại. Trong đề tài này, đối tượng được nghiên cứu là các “thánh đức thần công bi” ở sáu khu lăng tẩm. Đó là Thiên Thọ lăng của vua Gia Long, Hiếu lăng của vua Minh Mạng, Xương lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức, Tư Lăng của vua Đồng Khánh và Ứng lăng của vua Khải Định. Phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài thực địa nên sự cần thiết của nó là bản nguyên văn chữ Hán của bài văn bia và phần dịch nghĩa. Phạm vi đề tài không nằm ngoài sự khảo sát và đánh giá về cả nội dung và hình thức của các bài văn bia. 4. Phương pháp nghiên cứu Cũng như các công trình nghiên cứu khác, phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là công tác điền dã, thu thập và xử lí tài liệu. Các phương pháp cụ thể như sau: 6
  7. - Khảo sát thực địa: chúng tôi tiến hành ghi chép, đối chiếu, chụp ảnh 6 văn bia lăng vua Nguyễn hiện còn ở Huế - Thu thập tài liệu: chúng tôi tiến hành thu thập những tài liệu như sách báo, tạp chí, các tư liệu liên quan đến các lăng và văn bia của các lăng, sau đó tra cứu, đối chiếu và xử lí nguồn tài liệu ấy. Sau đó, có sự tổng hợp đánh giá chung về nội dung và hình thức nghệ thuật của văn bia các lăng vua Nguyễn. Từ đó, rút ra những kết luận và đề xuất ý kiến góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại di sản văn hóa này. 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chúng tôi được chia làm 3 chương Chương 1: Giới thiệu chung về các lăng vua Nguyễn Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát về các lăng Thiên Thọ Lăng, Hiếu Lăng, Xương Lăng, Khiêm Lăng, Tư Lăng và Ứng Lăng với các nội dung như vị trí địa lý, quá trình xây dựng, vị trí của mỗi lăng trong di sản văn hóa Huế. Chương 2: Khảo sát văn bia lăng các vua Nguyễn Đây là phần trọng tâm của đề tài khóa luận. Chúng tôi tiến hành khảo sát 6 bài văn bia ở 6 lăng đã nêu theo thứ tự thời gian và được trình bày theo thứ tự :nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, chú thích. Chương 3: Giá trị của văn bia các lăng vua Nguyễn Trong chương này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu giá trị của các văn bia bởi giá trị của nó ở rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về mặt lịch sử, văn học, thẩm mỹ...Đồng thời, đề xuất những ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại di sản văn hóa này. Mặc dù đã rất cố gắng và được thừa hưởng thành quả của người đi trước nhưng khóa luận cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quý thầy cô chỉ bảo thêm để khóa luận được hoàn chỉnh hơn. 7
  8. 8
  9. B - NỘI DUNG CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC LĂNG VUA NGUYỄN 1.1. Lăng vua Gia Long Lăng vua Gia Long hay còn gọi là lăng Thiên Thụ 天 授 陵 (hoặc Thiên Thọ) ở địa phận xã Định Môn 定 門, phủ Thừa Thiên nay là xã Thiên Thọ 天 授, huyện Hương Trà 香 茶, tỉnh Thừa Thiên Huế 承 天 化, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 20 km. Lịch sử xây dựng lăng rất phức tạp vì đây không chỉ có lăng vua Gia Long mà còn có lăng của nhiều người thân của vua bao gồm lăng Trường Phong của chúa Nguyễn Phúc Chú, lăng Quang Hưng của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc Tần, lăng Vĩnh Mậu của một bà vợ chúa Nguyễn Phúc Thái, lăng Thoại Thánh của mẹ vua Gia Long, lăng Hoàng Cô của Thái trưởng Công chúa Long Thành (chị ruột vua Gia Long), lăng Thiên Thọ Hữu của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ thứ của vua Gia Long và là sinh mẫu của vua Minh Mạng) và lăng Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ chính của vua Gia Long). Quần thể lăng tẩm này có chu vi đến 11.234,40m [20,tr.177] và được xây dựng vào những thời điểm khác nhau. Ngay cả lăng của vua và chính hậu cũng không phải xây cùng một thời điểm mà xây kéo dài nhiều năm dưới ba đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị. Vào năm 1814, sau khi người vợ chính của vua Gia Long là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu mất, nhà vua bàn với đình thần về việc làm một hiệp lăng để song táng hai người về sau vào một chỗ theo lệ “càn khôn hiệp đức”. Lê Duy Thanh, Tống Phúc Lương và Phạm Như Đăng là những người xem đất và lựa chọn. Ngày 18-5-1814, việc xây lăng được tiến hành, bao gồm 300 người trong các đội quân Sanh Thiết, 274 người trong các đội thủy quân và dân làng Phú Bài. Theo thuật phong thủy mà nói thì lăng Gia Long ở vào vị trí hết sức thuận lợi. Khi đứng sau tẩm và thẳng trên trục của nó ta thấy xa xa có một ngọn núi tròn trịa, trên đầu có chòm cây thông mọc rải rác, đó chính là Thiên Thọ Sơn. Đây là ngọn núi cao nhất trong vùng. Ngoài ra ở bên trái có 14 ngọn là Thanh 9
  10. Sơn, Ất Sơn, Diên Sơn, Bình Sơn, Bảo Sơn, Yên Sơn, Hưng Sơn, Hòa Sơn, Xuân Sơn, Phương Sơn, Cẩm Sơn, Nhân Sơn, Mậu Sơn và Đại Tượng. Bên phải lăng cũng có 14 ngọn núi, đó là các ngọn: Bạch Sơn, Ngọc Sơn, Thạch Bàn, Thịnh Sơn, Bích Sơn, Trinh Sơn, Kim Sơn, Lẫm Sơn, Tam Bút, Trấn Sơn, Thụy Sơn, Thuận Sơn, Đoài Sơn và Mỹ Sơn. Phía sau lăng còn có các núi Bắc Sơn, Hùng Sơn, Quý Sơn, Thành Sơn, Tiểu tượng(1). Các ngọn núi này đều có tên với ý nghĩa báo điềm lành. Vùng vườn lăng được bao quanh bởi hai dòng suối: dòng thứ nhất tụ hợp tất cả những dòng nước chảy từ bên trái lăng xuống, tạo thành một khúc quanh chạy ngang trước tẩm mộ, tại đây có mở rộng ra bằng cách tạo thành một hồ bán nguyệt và chảy đến trước điện Minh Thành thì bẻ quanh trở lại tạo nên một khúc ngoặt đột ngột để chảy thẳng đến lăng thứ hậu vua Gia Long; dòng nước tiếp tục chảy đến một cái hồ vuông, trước lăng của thân mẫu vua Gia Long và đến trước tháp mộ của Thái Trưởng công chúa, chị của nhà vua, như vậy hồ nầy đã kết nối mọi người trong gia đình với nhau. Hồ này được gọi là Hồ Dài. Còn hồ thứ hai được gọi là “Suối Trường Phong”, phát nguyên từ Nhuệ Sơn, chảy quanh núi Thiên Thọ, chạy dọc về phía bên phải, theo lăng Trường Phong tạo thành hình bán nguyệt trước lăng rồi hợp lưu với Hồ Dài. Không một suối nào đâm thẳng trước mặt lăng mà chảy bao quanh lăng. Lăng Gia Long không có vòng la thành bao quanh, các lâu đài đình tạ cũng không có, “nó đơn giản và hoành tráng như cuộc đời một võ tướng” [1,tr.176]. Các công trình kiến trúc hầu như không sơn son thếp vàng và chạm trổ tinh xảo. Điện Minh Thành 明 成 殿 xây trên Bạch Sơn, nơi thờ vua và chính hậu cũng không trang trí rườm rà. Đáng chú ý là các con rồng đều đắp bằng vôi gạch chứ không được chạm bằng đá như các lăng về sau. Phía trước làm bái đình 7 cấp xây bằng đá núi, mỗi cấp có 3 bệ đá, 6 lan can hình rồng uốn, tả hữu tường gạch. Trước bái đình là sân ngoài có 4 tượng viên biền đứng hầu bằng đá, tượng 6 thị vệ đá, ngựa đá, voi đá 2 con. Có các cột trụ xây gạch để giới hạn vùng đất cấm của lăng ở xung quanh khu lăng, ngày xưa có 85 cột, vào năm 1859, chỉ còn (1) Theo BAVH, tập VII, trang 346 và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 13, quyển 216, phần lăng tẩm, trang 321-322. Còn theo Đại Nam thực lục tập I thì có đến 36 ngọn với những tên gọi khác với những tên núi vừa nêu ở trên. 10
  11. 42 cột, ngày nay đa số đều bị hư hỏng, còn lại khoảng chục cột .  Bi đình 碑 停 được xây dựng trên núi Thanh Sơn và nhìn chung đơn giản hơn so với các nhà bia khác. Trên trần nhà bia cũng như các cột nhà bia hiện nay được nâng cấp trùng tu lại, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Ngoài ra, bi đình được trùng thiềm lợp ngói phẳng, chung quanh xây tường, trước xây bệ gạch 9 cấp, tả hữu lan can rộng. Bia đá được dựng trong bi đình cao 2,8m, rộng 1,52m, chân dài 1,88m, cao 0,8m, chữ bia khắc theo kiểu chữ chân phương. Trước đây, tấm bia này bị nứt, chữ trên văn bia không nhìn thấy rõ và đa phần bị mất, nay bia đã được tu sửa. Mặt bia được quét vôi trắng. Những họa tiết trên mặt bia tuy không giữ được hiện trạng xưa nhưng không mất hẳn. Trước đây, tấm bia toàn bộ đều bằng đá cẩm thạch màu xám hơi xanh, trang trí những hình chạm trổ thanh nhã. Nay toàn bộ văn bia là màu trắng của vôi lẫn với màu của vật liệu xi-măng. Những họa tiết trên bia có nhiều điểm khác biệt so với các văn bia khác. Trên trán bia là hình một con rồng lớn với nhiều họa tiết mây uốn lượn rất đẹp. Phía trên của thân bia là hình hai con rồng nhỏ quay đuôi về phía mặt trời; hai dọc bên thân bia, mỗi bên có hai con rồng và hai con giao xen kẽ nhau, hai con quay đầu lên và hai con quay đầu xuống; phía dưới của thân bia, giữa là hình hoa văn nhiều đỉnh núi. Ngoài ra, ở thân bia còn có sự phối trí của nhiều hình hoa văn cây lá với nhiều hình thức trang trí khác nhau. Hai tai bia được chạm hình hoa văn lớn. Hai nách bia có độ rộng và dày gần bằng tai bia, được chạm ở mỗi bên hình một con rồng nhỏ. Chân bia ở phần trên cùng được trang trí hình các hoa văn liên tiếp; phần giữa có 3 hình hoa văn cây lá tròn; bên dưới lại có hình một đầu rồng; dưới cùng của chân bia ở mặt trước và sau có 3 hình hoa văn cây lá; hai mặt bên của chân bia cũng có 3 họa tiết như vậy. Đó là toàn bộ họa tiết trang trí ở mặt trước của tấm bia. Mặt sau hoàn toàn trống trừ hai tai bia và hai nách bia có họa tiết như ở mặt trước. Nếu so với các bi đình khác, văn bia ở lăng Gia Long được dựng ở nơi thoáng đãng, bốn phía có 4 cửa lớn thông ra ngoài, đó là chưa kể các ô cửa sổ. Bài văn trên bia do vua Minh Mạng ngự chế vào ngày Bính thìn tháng 7 năm Minh Mạng nguyên niên, nhằm ngày 10 tháng 8 năm 1820. 1.2. Lăng vua Minh Mạng 11
  12. Khu đất mà ngày nay xây dựng lăng Minh Mạng là khu đất sau nhiều lần lựa chọn mới được chấp nhận. Bởi theo quan niệm trong triết học phương Đông- Kinh dịch, khi chết chôn ở một chỗ đất êm ả, trong lành thì sẽ “kết” và ảnh hưởng đến hạnh phúc thịnh vượng của con cháu đời sau thuộc dòng. Cho nên, các vua chúa nhà Nguyễn thường coi trọng ngôi đất được chọn làm sinh phần. Vào năm Minh Mạng thứ 7 (tức năm 1826), nhà vua mới 35 tuổi đã sai các quan giỏi địa lý trong triều lập thành từng nhóm đi coi đất để chuẩn bị xây lăng cho mình. Sau nhiều lần lựa chọn với các nhóm như nhóm Nguyễn Văn Bảng, nhóm Khâm Thiên Giám, nhóm Nguyễn Xuân Thục...không thống nhất và có nhiều ý kiến khác nhau, mãi đến năm Canh tý (1840), ông Lê Văn Đức, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư bộ công kiêm quản Hàn lâm viện, sau nhiều năm tìm kiếm đã chọn được một ngôi đất nằm bên triền phía Đông núi Cẩm Kê. Tháng 4-1840, trên đường từ lăng Thiên Thọ trở về ngã ba Bằng Lăng, thuyền ngự dừng lại trước thôn La Khê, làng An Bằng, nhà vua nói với các vị đại thần: “ Núi này phong thủy rất tốt, từ trước chưa ai tìm ra, nay mới xem được chỗ đất ấy, thật đáng vui mừng” [11,tr176] và đổi tên vùng núi Cẩm Kê thành ra Hiếu Sơn. Vua sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám thành vệ lên tiến hành việc khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ La thành, bửu thành, điện, lầu, đình, tạ, đường viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa...Xem xong nhà vua rất đắc ý. Lăng được khởi công xây dựng vào ngày Đinh sửu tháng 7 năm Canh tý. Nhưng sau đó bị ngập mưa nên hoàng đế phải cho dừng công việc đến tháng 9 mới giao cho Bộ công huy động binh điền trở lại công trường. “Công việc ở núi Hiếu trước đây phải bắt dương binh làm, nhưng ta nghĩ, khi ấy đương tiết gặp mưa, đã chuẩn cho cuối tháng nghỉ việc nên hôm trước đã cho về cả. Xét ra thành bao ấy rất quan trọng mà công trình xây đắp không phải mươi ngày mà xong được. Tất cả phải dự định khơi đào trước để thành thể thế thì sau này mới làm có thể đỡ khó nhọc đôi chút, huống chi nơi ấy là núi cao, nếu có mưa ngập cũng không quản ngại. Vậy phải ra quản vệ một người, suất đội bốn người, biền binh 200 người, cứ theo bọn Khâm Thiên, Giám thành chỉ bảo, ở 12
  13. chính giữa nơi thành bao núi ấy liều lượng nhà xưởng ở trên rồi ra công khai đào, dài 5 trượng, ngang dưới 3 trượng, sâu một trượng hoặc 7,8 thước. Nếu khi còn khô ráo thì đào sâu dần, nếu có mạch nước ở núi chảy ra thì tùy thế khơi một cái ngôi nhỏ để khi thấm nước chảy thông ra núi cốt cho khô ráo sạch sẽ. Về việc phát quản vệ cho đến binh đinh, định cứ một tháng thay đổi một lần [11;tr176]. Bốn tháng làm việc thổ mộc, đã xây dựng được phần lớn vòng la thành và giải quyết xong mặt bằng đến ngày 21 tháng Chạp năm Canh tý (1840), vua Minh Mạng qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, ngày Bính thìn tháng 2 năm Tân sửu (1841) cho trực tiếp xây dựng sơn lăng. Khu lăng có một chiều sâu hun hút (từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 m).Vòng La thành tuy cao nhưng cũng không hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở xa xa bên ngoài. Đứng ở cầu Hữu Bật nhìn về phía nam, cảnh vật núi non cây cỏ in bóng xuống đáy hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc. Bên trong La thành, hơn 40 công trình lớn nhỏ được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống như tình trạng xã hội đương thời, một xã hội được tổ chức theo chính sách trung ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng Nho học đến mức tối đa. Bố cục kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của vua Minh Mạng. Bửu thành 保 城 xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy. Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng. Càng vào sâu, mật độ kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng khôn khéo lợi dụng được thế đất và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc. Điện Sùng Ân 崇 慇 殿 là một công trình ghép hai ngôi nhà rường lại với nhau tạo thành một không gian đồng nhất. Nhà trước thường gọi là tiền điện hay chính tích. Tiền tích gồm năm gian hai chái đơn. Chính tích hai gian ba chái kép. Điện Sùng Ân là nơi để thờ cha mẹ vua, là một công trình chính ở Hiếu lăng cho 13
  14. nên, ở đây có bộ vì chồng sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Hai bên điện là Đông phối điện và Tây phối điện, là ngôi nhà phối thuộc của điện dùng để văn võ bá quan túc trực mỗi khi có việc phải lên lăng. Phía sau điện Sùng Ân là Hoàng Trạch Môn 黃 宅 門, đó là giới hạn kết thúc khu thành vuông của điện, mở ra không gian thứ ba. Và, lớp mái ở đây được nâng bởi các dải cổ diềm có chia nhiều ô. Minh Lâu 明 婁 cách Hoàng Trạch Môn bởi một hồ sen, hai bên có cầu Tả phụ và Hữu bật xuống thấp gần mặt nước hồ Trường Minh 長 明 湖 nên càng gây ấn tượng lồng lộng xa vời. Từ sau sân Minh Lâu tiếp nối sân đầu cầu được liếp bằng đá Thanh. Thật ra, đây là một con đường đá vắt qua hồ Tân Nguyệt 津月湖 để vào Bửu thành. Hai đầu có hai bộ cửa đồng trụ gọi là Phương Môn 方 門và Nghi Môn 儀 門. Qua một khoảng sân là núi Bửu Thành 保 城 山, thi hài vua được quàng ở đây. Đó là tất cả kết cấu, bố cục toàn thể lăng Minh Mạng. Nó được bao bọc bởi hai hồ bán nguyệt hai bên cây cối xanh tươi bốn mùa tạo nên sự thoáng mát và uy nghi. Tất cả mọi bệ đá ở tầng cấp đều có rồng chầu hổ phục, các kèo và mái uốn lượn đầu rồng mang phong cách Á Đông. Đặc biệt, ở tất cả các công trình đều được trang trí hoa quả và thơ ở đầu vách theo từng ô. Nhìn chung, kiến trúc lăng Minh Mạng có một sự uy nghi, bề thế. Nó hấp dẫn mọi người bởi phong cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp và hài hòa, nhất là vào buổi chiều tà từ trên lăng nhìn xuống Hương Giang, quả thật rất dịu êm và thoải mái.  Về tấm bia “thánh đức thần công” thì được xây trong một gian nhà có mái chồng lợp ngói lưu ly vàng, nền lát gạch hoa, trước sau đều một bệ đá có 3 cấp, tả hữu lan can rồng. Bia đá thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 1,96m và cao 1,08m, chữ bia mạ vàng. Bia được khắc chữ cả hai mặt trước sau và đều được trang trí. Trán bia là hình một con rồng mây lớn được trang trí cân đối và đẹp. Thân bia ở trên là hình “lưỡng long triều nguyệt”, dưới cũng là hình rồng nhưng hướng về đỉnh núi. Dọc hai bên thân bia được trang trí bằng họa tiết hình rồng, xen kẽ là họa tiết mây uốn lượn xung quanh. Chân bia cũng là sự phối hợp 14
  15. giữa họa tiết dây lá ở trên, dưới chân và hình rồng ở giữa. Nhà bia đặt gần sân chầu, có hai cửa lớn, một thông với sân chầu, một thông ra Hiển Đức Môn. Trần bia phẳng, không có nhiều họa tiết cầu kì; toàn bộ nhà bia được trùng tu, sơn son thiếp vàng rất rực rỡ. Nếu so sánh nhà bia này với nhà bia lăng Gia Long thì gần giống nhau. Còn so với các nhà bia được xây dựng sau này như nhà bia lăng Tự Đức, nhà bia lăng Khải Định... thì nhà bia này vẫn mang lối kiến trúc cũ, không có sự mới lạ mang dáng dấp hiện đại như các nhà bia về sau. 1.3. Lăng vua Thiệu Trị Sau khi ở trên ngai vàng 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11- 1847 giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân” [11,tr176]. Sau khi vua cha băng hà, vua Tự Đức liền cho các thầy địa trong triều đi coi đất để xây lăng. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh 居正社 huyện Hương Thủy 香水縣, cách Kinh thành không xa như hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó, núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo 順道山 và lăng ấy được gọi là Xương Lăng 昌陵. Vào ngày 11-2-1848, vua Tự Đức sai một võ tướng đại thần trong triều là Vũ Văn Giai 武文解, sung chức đổng lý, đứng ra coi sóc công tác kiến trúc lăng. Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần ông phải báo cáo về cho vua biết công việc xây lăng đã tiến hành đến đâu. Đồng thời làm theo lời trối trăn của vua cha, vua Tự Đức cũng căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như trên lăng Minh Mạng, còn việc kiến trúc các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Toại đạo 隧道, tức là đường hầm ngầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, 15
  16. được xây vào ngày 24-3-1848. Số binh lính và thợ thuyền do triều đình huy động lên đây làm việc rất đông, cho nên, chỉ sau 3 tháng thi công, các công trình kiến trúc chính trong lăng đã làm xong. Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5-1848, có đoạn nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm cáo hoàn thành”. Ngày 14-6-1848, tức là 10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã dặn là phải làm lăng như thế nào cho “kiệm ước”, không nên “lao phí đến tài lực của binh dân”, và rồi trong bài văn bia ở Xương Lăng vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng “lời vàng ngọc ấy văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy lên xem thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn. Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long An trong cung Bảo Định (ở bờ bắc Ngự Hà), mãi đến gần 8 tháng sau mới đưa lên an táng ở lăng. Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” 聖德神功 với bài ký do vua Tự Đức viết thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19-11-1848 mới được dựng. Như vậy, từ ngày bắt đầu (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng. Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng một khác nữa của những người trong gia đình nhà vua. Nằm chếch chếch ở phía trước là lăng Hiếu Đông của mẹ vua (bà Hồ Thị Hoa). Gần phía sau bên trái là Xương Thọ Lăng của vợ vua (bà Từ Dũ). Và không xa phía trước bên trái là khu lăng “tảo thương” 早殤, trong đó có nhiều ngôi mộ của các con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ (tảo thương nghĩa là chết sớm). Như vậy nhiều thành viên trong gia đình nhà vua đã được an táng quây quần bên nhau. Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có hai lăng Gia Long và Minh Mạng mà thôi. Khi còn tại vị, vua Thiệu Trị đã tham khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu. 16
  17. Ngày nay, mới nhìn qua, người ta dễ có cảm tưởng rằng lăng Thiệu Trị đơn sơ, nhưng nếu xét kỹ, chúng ta sẽ thấy các nhà kiến trúc bấy giờ đã có một ý thức cao khi thiết kế, xây dựng, và các công trình không kém phần dồi dào và bề thế. So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, khu lăng thứ ba này ở tại một địa điểm gần hơn đối với kinh thành. Về bố cục các công trình kiến trúc trên mặt bằng tổng thể, nếu lăng Minh Mạng đã ghép ba trục của lăng Gia Long lại làm một trục duy nhất, thì lăng Thiệu Trị lại dung hòa hai mô thức trên bằng cách thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm (khu vực điện thờ) nằm bên trái. Hai trục cách nhau chừng 100m. Nói cách khác, các nhà kiến trúc lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữa của lăng Minh Mạng (điện thờ) đặt riêng ra một bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và mấy cái hồ bán nguyệt thì giống ở lăng Minh Mạng. Lăng Thiệu Trị khác lăng vua cha ở chỗ không xây La thành, nhưng lại giống lăng Gia Long trong việc lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành bao la hùng vĩ này, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo 順道 gần trước mặt lăng là cả một vùng đất bằng phẳng với cây cỏ xanh tươi và ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim. Về phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn thủy chi giao” 山水之交. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng chừng 1km, bên phải có đồi Vọng Cảnh 望景山, bên trái có núi Ngọc Trản 玉琖 chầu về trước lăng theo vị thế “tả thanh long hữu bạch hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, trong khi động Bàu Hồ ở gần hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đắp một mô cao lớn để làm “hậu chẩm” cho lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có ba chiếc hồ bán nguyệt là hồ Điện, hồ 17
  18. Nhuận Trạch 潤 澤 湖 và hồ Ngưng Thúy 凝 翠 湖, cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên 水 仙 湖chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi. Như vậy ta thấy thiên nhiên và kiến trúc ở lăng Thiệu Trị liên quan với nhau một cách mật thiết. Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la. Xét về phương diện trang trí mỹ thuật, các nghệ nhân bấy giờ đã thể hiện nhiều hình ảnh và thơ văn lên trên mặt gỗ và mặt đá ở điện Biểu Đức 表德殿, Bi Đình 碑 停, Bái Đình 拜 停... bằng những đường nét chạm khắc khá sâu và sắc cạnh để tạo ra được những hình khối nổi rõ. Nghệ thuật trang trí bằng men pháp lam cũng được sử dụng nhiều trong lăng này, nhất là tại khu vực điện thờ.  Bia “thánh đức thần công” ở lăng vua Thiệu Trị được dựng trong một gian được lợp ngói lưu ly, trước sau có 1 bệ đá đều 11 cấp, lan can hình rồng uốn. Nhà bia ở đây hiện nay đang bị xuống cấp trầm trọng, chỉ còn tấm bia là nguyên vẹn. Bia thân cao 2,88m, rộng 1,52m, chân dài 2,16m, cao 0,92m, có nhiều họa tiết đặc trưng. Trán bia vẫn là hình rồng mây lớn với những họa tiết sóng mây nhẹ nhàng. Phần trên của thân bia là hình “lưỡng long triều nguyệt”; hai dọc thân bia mỗi bên có 3 con rồng; bên dưới là hình hai con rồng hướng về đỉnh núi có hình mặt trời ở trên; thân bia cũng có sự pha trộn các họa tiết dây lá khác giống như các tấm bia còn lại. Hai tai bia và hai nách bia được chạm một con rồng nhỏ. Chân bia có họa tiết dây lá dài lẫn ngắn xen kẽ nhau, giữa lại có họa tiết ô vuông nối liền từng cặp rất mới lạ, bên dưới chân bia vẫn là hình “lưỡng long triều nguyệt”, ở các góc cột chân bia còn có các họa tiết mây. Mặt sau của tấm bia hoàn toàn trống. Bài văn bia khắc trên bia do vua kế nhiệm là Tự Đức ngự chế, vẫn còn nguyên nét, được khắc lặn, chữ khắc đẹp và có pha một chút nét chữ thảo. 1.4. Lăng vua Tự Đức Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ 18
  19. xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng 陽 春 上 社, tổng Cư Chánh 居 正 總 (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế). Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan. Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm cung ký) . Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng 謙 陵. Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm 降 謙 山 ở phía trước làm tiền án, núi Dương Xuân 陽春 山làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm 流 謙 湖 làm yếu tố minh đường. Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy 19
  20. góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm 務 謙 門 đi qua trước Khiêm Cung Môn 謙 宮 門 rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh. Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến rũ của mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của một người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng... Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ sơn thần, du khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”, “tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm 並 謙 島 với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ 沖 謙 榭 và Dũ Khiêm Tạ 愈 謙 榭, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm 循 謙, Tiễn Khiêm 踐 謙 và Do Khiêm由 謙 bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông bạt ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên, mộng ảo ngay giữa chốn đời thường. Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm 和 謙 殿 để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm 法 謙 và Lễ Khiêm 禮 謙 dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm 良 謙 殿, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ 20
nguon tai.lieu . vn