Xem mẫu
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề an toàn thực phẩm, sức khỏe và bảo vệ môi trường luôn được
coi trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Để giải quyết vấn đề thực phẩm
sạch và giàu dinh dưỡng, việc tăng cường sử dụng nấm ăn trong khẩu phần
ăn hàng ngày của con người đang là một giải pháp hữu hiệu. Sản phẩm nấm
ăn đặc biệt tốt với sức khoẻ người sử dụng, an toàn và chứa đầy đủ các chất
dinh dưỡng cần thiết cho con người. Đặc biệt, nghề nuôi trồng nấm đã mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho người lao động, tận dụng lao động phổ thông lúc
nông nhàn, sử dụng nguồn phế phụ phẩm nông lâm nghiệp góp phần bảo vệ
môi trường sống, phế liệu sau nuôi trồng nấm có khả năng tái tạo đất, làm
phân bón rất tốt cho cây trồng [4]. Một trong những nấm ăn đã được nuôi
trồng ở nhiều nước trên thế giới từ lâu là nấm sò(Pleurotus ostreatus). Nấm
sò chứa nhiều protein, vitamin và các axit amin có nguồn gốc thực vật, để hấp
thụ cho cơ thể con người. Đặc biệt với hàm lượng protein chiếm tới 3343%.
Nấm sò hoàn toàn có thể thay thế lượng đạm từ thịt, cá có nguồn gốc từ động
vật. Do đó, nấm sò còn được gọi là thịt chay hay thịt sạch khi được sử dụng
như nguồn cung cấp protein chủ yếu qua các bữa ăn.
Ở Việt Nam, nghề nuôi trồng nấm sò đã chứng minh được hiệu quả
trong thực tiễn. Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm cũng đã được các Sở Nông
nghiệp, Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ của các tỉnh như Thái
Nguyên, Nam Định, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh, Lào Cai, Tuyên
Quang, Phú Thọ…, một số tỉnh phía nam chú trọng phát triển, phổ biến và
nhân rộng cho người dân từ khoảng 15 năm trở lại đây [3], [15]. Tuy nhiên,
một trong những công việc mà người nuôi trồng nấm sò hiện nay chưa chủ
động thực hiện được hoặc thực hiện chưa hiệu quả là công tác nhân giống
nấm. Vì vậy, để góp phần thuận lợi cho công tác nhân giống nấm sò cấp I tại
Phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại
1
học Hùng Vương, đề tài: “Ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng
đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ sợi của giống nấm sò Pleurotus
ostreatus” đã được lựa chọn thực hiện.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được ảnh hưởng của một số nhân tố dinh dưỡng như nguồn
cacbon, nguồn nitơ và nguồn khoáng đến khả năng sinh trưởng phát triển hệ
sợi của giống nấm sò P. ostreatus trong điều kiện hiện tại của PTN Công
nghệ Sinh học, Khoa Nông Lâm Ngư, Trường Đại học Hùng Vương, từ đó
lựa chọn được điều kiện dinh dưỡng thích hợp nhất sử dụng trong nhân
giống nấm sò cấp I.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị khoa học
trong việc thực hiện nhân giống nấm sò cấp I bằng hệ sợi, giúp cho người
dân và các cơ sở sản xuất có nhu cầu sản xuất giống nấm sò cấp I có được
các căn cứ khoa học để thực hiện công tác nhân giống nấm sò cấp I tại cơ sở
đạt hiệu quả cao.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp chủ động nguồn
giống nấm sò cấp I phục vụ cho việc nhân giống nấm sò cấp II và cấp III, từ
đó cung cấp chủ động nguồn giống trong nuôi trồng nấm sò đại trà.
2
PHẦN II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò
2.1.1. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò trên
thế giới
Từ xa xưa, con người đã biết dùng nấm làm thức ăn và làm thuốc. Từ
thời hoàng đế La Mã cổ đại, nấm đã được sử dụng trong các buổi yến tiệc
của nhà vua. Ở Châu Âu việc nuôi trồng nấm ăn đã được mô tả từ thế kỷ thứ
III. Nấm phần lớn có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng trong đời sống, cũng
như trong nền kinh tế và trong nghiên cứu khoa học. Trên thế giới đã xác định
được gần 2000 loài nấm ăn và nấm dược liệu. Trong số đó, trên 80 loài nấm
đã được nghiên cứu công nghệ nuôi trồng nhân tạo.
Nấm sò (P. ostreatus) là một loài nấm ăn được trồng lần đầu ở Đức để
ăn trong thế chiến lần thứ nhất. Năm 1970, nấm sò mới được nuôi trồng đại
trà phổ biến trên thế giới. Cho đến nay, nghề nuôi trồng nấm ăn và nấm dược
liệu đã lan rộng sang nhiều nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đóng góp
tỷ lệ không nhỏ vào nền kinh tế của các nước như: Mỹ, Pháp,... đặc biệt là
các nước khu vực Bắc Mỹ và Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan,
Ấn Độ...
Ngày nay, nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đã tự động hoá
hầu hết các khâu trong sản xuất nấm và sản phẩm nấm tạo ra được xuất
khẩu ra các nước khác trên thế giới hàng triệu tấn nấm mỗi năm như nấm
hương, nấm linh chi, nấm mỡ, nấm bào ngư (nấm sò)... Thông thường nấm
xuất khẩu được bảo quản tươi, hoặc ở dạng sản phẩm chế biến hoặc bào
3
chế thành trà và các loại thuốc quý... đã mang về một nguồn ngoại tệ khổng
lồ cho các nước này.
Nấm sò mọc trên các thân cây khô hoặc suy yếu tạo thành những tai
nấm xen kẽ nhau như hình bậc thang. Nấm sò được xem là một nấm dược
liệu do nó có chứa các hoạt chất sinh học như lovastatin có tác dụng
giảm cholesterol. Ngoài ra, đã có một số đề tài nghiên cứu về khả năng chống
ung thư của nấm sò do có sự hiện diện của lovastatin trong tai nấm, tập trung
ở phiến nấm và đặc biệt ở bào tử nấm. Nấm sò có hương thơm của hồi do
sự hiện diện của benzaldehyde. Nấm sò là một trong những loài nấm hoang
dã có thể nuôi trồng dễ dàng trên rơm rạ và các loại vật liệu khác. Trong số
các loài nấm ăn, nấm sò được nuôi trồng phổ biến, rộng rãi, sớm nhất và
thường có nhiều loại. Chúng thường mọc hoang trên thân gỗ, mọc đơn độc
hay mọc chồng lên nhau và nhiều loại khác nhau về màu sắc, hình dạng, khả
năng thích nghi với các điều kiện nhiệt độ, ít bệnh và rất dễ trồng. Nấm có
dạng phễu lệch, mọc đơn lẻ hay mọc thành cụm tập trung, bao gồm 3 phần:
mũ, phiến, cuống.
2.1.2. Nghiên cứu nghề nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu và nấm sò ở
Việt Nam
Ở Việt Nam từ xưa nhân dân ta đã biết thu hái nấm tự nhiên như
mộc nhĩ, nấm hương,… để làm thức ăn. Tuy nhiên mãi đến năm 1970 việc
nghiên cứu và phát triển sản xuất nấm ăn mới bắt đầu được thực hiện. Hơn
10 năm trở lại đây nghề trồng nấm mới được phổ biến ở các vùng nông thôn
và được xem là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao. Một số tỉnh miền bắc
như Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Giang, Thái
Nguyên,… đã có nhiều trang trại sản xuất và chế biến nhiều nơi hình thành
hợp tác xã nấm, sản phẩm nấm tiêu thụ và xuất khẩu đều có giá trị kinh tế
cao [12], [14].
4
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc, việc sản xuất nấm ăn và
nấm dược liệu được phát triển từ năm 2000 trở lại đây, nhất là sau khi triển
khai dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nấm hàng hóa” thuộc “Chương trình
nông thôn miềm núi giai đoạn 20052010”, trong đó Bộ Khoa học và Công
nghệ đầu tư với tổng kinh phí 4 tỷ đồng cho giai đoạn 20052007 [12].
Thực hiện chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
Bắc Giang đã xây dựng “Đề án phát triển sản xuất nấm giai đoạn 20072010”
với tổng kinh phí hơn 43,7 tỷ đồng , trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 6 tỷ đồng,
còn lại là vốn đối ứng của nhân dân. Riêng trong năm 2007, ngân sách tỉnh hỗ
trợ các địa phương trong vùng quy hoạch 1,35 tỷ đồng xây dựng 30 lán trại, 2
cơ sở chế biến nấm, đồng thời hỗ trợ giống cho hơn 1500 tấn nguyên liệu.
Đây là đề án có quy mô, mức hỗ trợ lớn nhất từ trước tới nay về phát triển
nghề trồng nấm trên địa bàn [6], [7], [15].
Hiện nay, nghề nuôi trồng nấm sò tại Tỉnh Phú Phọ đang được phát
triển mạnh. Đặc biệt năm 2011 tại xã Đồng Cam huyện Cẩm Khê Tỉnh
Phú Thọ đã thành lập nên hợp tác xã nuôi trồng nấm với quy mô lớn. Theo
chủ nhiệm hợp tác xã cho biết với diện tích hơn 2000 quy hoạch nuôi trồng
nấm sò và nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương rất thuận lợi cho nuôi
trồng nấm sò, trung bình mỗi tấn nguyên liệu cho thu từ 78 tạ nấm tươi cho
thu nhập từ 2025 triệu đồng. Đây là hướng phát triển mang lại hiệu quả kép.
Không những tận dụng được nguồn phế thải lớn từ nông nghiệp như rơm rạ,
mùn cưa… mà còn tạo ra một nguồn thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng, mang
lại lợi ích kinh tế cao, giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nhàn rỗi ở
nông thôn, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Hiện nay việc phát triển sản xuất nấm ở Việt Nam nói riêng, trên
thế giới nói chung đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đem lại nhiều
lợi nhuận cho người sản xuất, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân.
2.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu của nấm sò P. ostrearus
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn