Xem mẫu
- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
"Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương,
huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế"
1
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ............................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................5
5. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................5
NỘI DUNG ........................................................................................................6
Chương 1............................................................................................................6
MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG
VĂN KHẮC Ở XÃ ............................................................................................6
1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương ..............................................6
1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương................................................6
1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương ............... 10
1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương ................................ 10
Chương 2.......................................................................................................... 14
SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ ................. 14
THUỶ DƯƠNG ............................................................................................... 14
2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng........................................................... 14
2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng ............................................................ 14
2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa ..................................................................18
2.2.1. Chùa Diệu Viên ............................................................................. 18
2
- MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Chữ Hán là thứ chữ viết gắn liền với dân tộc Việt Nam ta từ buổi đầu của
nền độc lập. Với ý thức tự cường xây dựng một nhà nước vững mạnh và chống
lại mọi âm mưu đồng hoá của các triều đại phong kiến phương bắc, ông cha ta đã
sử dụng chữ Hán và đưa nó trở thành hệ thống chữ viết chính thức của mình
trong suốt cả ngàn năm lịch sử. Ngày nay, với tinh thần xây dựng một nền văn
hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta không còn dùng đến chữ Hán nữa.
Nhưng một nền văn hoá mới không có nghĩa là bỏ qua mọi giá trị tốt đẹp mà ông
cha đã tạo dựng từ cả ngàn năm về trước mà phải giữ gìn và kế thừa những vốn
quý đó. Chính vì vậy, bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm là một việc làm rất
cần thiết.
Kho tàng tư liệu Hán Nôm trên đất nước ta hiện nay rất đa dạng và phong
phú, từ những pho tư liệu khoa học-hành chính của các triều đại phong kiến cho
đến những văn bản được ghi chép trên giấy tồn tại trong dân gian. Đặc biệt nhất
phải kể đến mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình kiến trúc văn hoá
truyền thống. Bởi vốn tư liệu ở đây thể hiện rõ nét nhất về nguồn cội, về quê
hương đất nước, về phong tục tập quán và đời sống văn hoá của con người. Vì
vậy muốn hiểu rõ về những cái đó ta phải nắm được những giá trị nội dung mà
người xưa đã gửi gắm. Những câu đối hay những bức hoành phi trên những đền
chùa, miếu mạo không chỉ là những tâm tư tình cảm và tấm lòng của con người
mà nó còn chứa đựng những giá trị thẩm mỹ, mang đậm dấu ấn bản sắc văn hoá
dân tộc. Trải qua thời gian cùng sự bào mòn của những yếu tố ngoại cảnh và cả
sự thiếu quan tâm của con người thì vốn tư liệu này ngày càng bị mai một. Bởi
vậy bên cạnh xây dựng một nền văn hoá mới phải có sự quan tâm bảo tồn và phát
huy vốn di sản văn hoá của dân tộc mà cha ông đã dày công tạo dựng. Đằng sau
những câu chữ đó là cả tiếng lòng của tổ tiên từ ngàn xưa vọng tới, nhắc nhở
chúng ta về cội nguồn xa xưa của dân tộc và là nền tảng vững chắc để tiến tới
tương lai. Vì vậy việc giữ gìn và phát huy vốn di sản Hán Nôm là một trách
3
- nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mọi người. Đề tài "Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại
xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế" không chỉ hoàn
thành một khoá luận của sinh viên trong những năm đại học mà còn mong muốn
góp phần giữ gìn vốn di sản văn hoá của dân tộc, đóng góp một chút công sức
của mình vào sự phát triển chung của xã hội và đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, hầu như ở địa phương nào trên phạm vi cả nước cũng có một
lượng tư liệu Hán Nôm rất lớn cả về các văn bản chép tay cũng như mảng văn
khắc. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương có kho tàng di sản Hán
Nôm phong phú và đa dạng bậc nhất. Ngoài các sách vở, tàng thư của triều đình
phong kiến còn có mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình đền đài, cung
điện, lăng tẩm... và cả mảng văn khắc trên các công trình kiến trúc văn hoá trong
dân gian. Trong những năm gần đây đã có nhiều nhà nghiên cứu tiến hành khảo
sát, sưu tầm và tuyển dịch nhưng do lượng nhiều người ít nên mới chỉ thực hiện
được một phần nào đó ở những địa bàn lân cận. Xã Thuỷ Dương huyện Hương
Thuỷ là một vùng đất có bề dày về lịch sử và văn hoá, nơi đây tồn tại một lượng
văn khắc Hán Nôm dân gian rất lớn và đa dạng về chủng loại nhưng chưa được
sưu tầm có hệ thống trên toàn bộ địa bàn xã, mà mới chỉ có những cuộc sưu tầm
và tuyển dịch riêng về văn bia. Tấm văn bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý
tộc thủy tổ mộ bi kí" ở nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý, đã được nhà nghiên
cứu Trần Đại Vinh sưu tầm và tuyển dịch trong cuốn văn bia và văn chuông Hán
Nôm dân gian Thừa Thiên Huế do nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006.
Còn mảng văn khắc phong phú còn lại chưa được ai thực hiện. Vì vậy với đề tài
này chúng tôi đã khảo sát một cách hệ thống, cụ thể mảng văn khắc Hán Nôm
trên toàn bộ địa bàn xã Thuỷ Dương và tìm hiểu những giá trị nội dung nghệ
thuật chứa đựng trong đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
- Trong quá trình thực hiện đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đó
là văn khắc Hán Nôm tức là các chữ Hán-Nôm được khắc, nề trên các chất liệu
cứng như vữa xây, gỗ, đá, kim loại... Còn phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn
bộ khu vực xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài phải trải qua điền dã thực tế mới có thể trực tiếp tiếp cận với
nguồn tư liệu và tiến hành khảo sát, sưu tầm, phiên dịch. Sau khi thu thập toàn bộ
nguồn tư liệu mới có thể tiến hành sắp xếp, phân loại, đồng thời tham khảo các
cách làm của những người đi trước để có thể thực hiện đề tài một cách có hệ
thống, cuối cùng là phiên âm và dịch nghĩa toàn bộ nguồn tư liệu. Để dễ dàng
hơn trong cách hình dung hệ thống văn khắc trên tất cả các di tích, phần hoành
phi, đại tự được đóng khung (kể cả lạc khoản); phần phiên âm được in nghiêng
và phần dịch nghĩa được in thường. Phần câu đối chữ Nôm chúng tôi chỉ ghi lại
phần phiên âm ra quốc ngữ. Tất cả đều được sắp xếp giống như thực tế, các
hoành phi câu đối được xếp từ ngoài vào trong theo đúng như hệ thống kiến trúc.
Những phần chữ bị hư và mất nét chúng tôi vẫn đưa vào và để thành dấu chấm
hỏi.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài có ba chương nội dung
chính:
Chương 1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương và hiện trạng văn khắc ở
xã
1.1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương
1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thuỷ Dương
1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội xã Thuỷ Dương
1.2. Hiện trạng văn khắc tại xã Thuỷ Dương
Chương 2. Sưu tầm và tuyển dịch văn khắc chữ Hán tại xã Thuỷ Dương
2.1. Văn khắc ở đình
5
- 2.2. Văn khắc ở chùa
2.3. Văn khắc ở miếu, lăng
2.4. Văn khắc ở nhà thờ
Chương 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương
3.1. Giá trị nội dung
3.2. Giá trị nghệ thuật
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG
VĂN KHẮC Ở XÃ
1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương
1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương
Thủy Dương là một xã nằm ở phía nam thành phố Huế, phía đông giáp xã
Thuỷ Phương; phía tây giáp xã Thuỷ Bằng của huyện Hương Thuỷ và các
phường: An Đông, An Tây của thành phố Huế; phía nam giáp xã Thuỷ Bằng;
phía bắc giáp xã Thuỷ Thanh. Xã Thủy Dương cách trung tâm thành phố Huế
4km, có đường quốc lộ và đường sắt bắc nam đi qua và là vùng kinh tế trọng
điểm của địa bàn huyện Hương Thủy. Toàn xã có diện tích 1.249,8 ha, xã chia
làm 5 thôn trong đó có một thôn ở vùng gò đồi, gồm 2.310 hộ và 11.640 nhân
khẩu.
Cũng như bao địa phương khác ở xứ Thuận Hoá xưa, xã Thuỷ Dương cũng
được hình thành từ những cuộc nam tiến của người Việt mà cụ thể ở đây là cuộc
nam chinh thảo phạt Chiêm Thành diễn ra dưới thời Lê Thánh Tông năm 1470,
mặc dù mảnh đất Thuận Hoá đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt từ rất lâu trước đó.
Ta biết rằng sau cuộc kháng chiến thần thánh đánh đuổi quân Mông Nguyên xâm
lược thì uy tín và danh tiếng của Đại Việt ngày một lẫy lừng, các nước láng giềng
đều mong muốn được kết thân hoà hiếu. Vua Trần Nhân Tông sau giai đoạn lãnh
6
- đạo kháng chiến giành thắng lợi đã nhường ngôi cho thái tử Thuyên lui về làm
Thái thượng hoàng và bắt đầu cuộc đời tu hành truyền đạo. Tháng 3 năm Tân
Sửu (1301), trong một lần dạo chơi sang Chiêm, thấy tướng mạo và cốt cách đĩnh
đạc của vua Chiêm Thành (chính là thái tử Harijit, người chỉ huy quân Chiêm
đánh bại quân Mông Nguyên xâm lược), Thượng hoàng đã hứa gả con gái út của
mình là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (Jaya Simhavar man). Bởi vậy, năm
Bính Ngọ (1306), sau khi nhận nhiều thứ lễ vật gồm hương quý và vàng bạc cầu
hôn, vua Anh Tông gả Huyền Trân cho Chế Mân. Chế Mân liền đem hai châu Ô
và Rí làm sính lễ và phong Huyền Trân làm hoàng hậu. Khi công chúa đã về
Chiêm thì người dân hai châu Hoan Ái (Thanh Nghệ) nối nhau vào tiếp nhận
vùng đất mới. Các vùng đất này được Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và
Hoá Châu, (Nay thuộc vùng từ nam Quảng Trị đến bắc Quảng Nam) lãnh thổ Đại
Việt ở phía nam đã vươn tới sông Thu Bồn. Tuy nhiên nhân dân các thôn La
Thuỷ, Tác Hồng và Đà Bồng không theo, triều đình liền cử Đoàn Nhữ Hài vào
phủ dụ dân chúng, chọn số trong số người Chăm ở địa phương ra làm quản lý,
cấp ruộng đất và tha thuế trong ba năm để thu phục lòng dân ở vùng đất mới.
Nhưng mới về Chiêm chưa được bao lâu và cũng mới vừa sinh hạ thái tử thì vua
Chiêm đột ngột qua đời, theo tục lệ bản quốc khi vua chết thì hoàng hậu cũng
phải lên giàn hoả thiêu để chết theo. Nhận được tin, do thương em gái nên vua
Anh Tông đã sai Đỗ Khắc Chung là quan Nhập nội hành khiển Thượng thư tả
bộc xạ và An phủ sứ Đặng Văn sang Chiêm tìm cách cứu công chúa và đưa thái
tử Chiêm về nước. Sau khi cứu được công chúa, người Chiêm vô cùng tức giận
vì vậy vua Chiêm mới là Chế Chí không phục nhà Trần, có ý đòi lại đất đã dâng,
liên tiếp đem quân quấy rối và đòi lại hai châu Ô, Rý. Năm 1311, vua Anh Tông
thân chinh thảo phạt Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Chí lượng sức mình
không thắng nổi bèn quy hàng. Anh Tông lập làm vương nhưng lại giam lỏng ở
trong nước mình, lại phong cho em trai Chế Chí tước hầu để trông coi nước
Chiêm. Hai năm sau, Chế Chí chết trên đất Đại Việt. Từ đó quan hệ Việt Chiêm
căng thẳng đưa tới những cuộc chiến tranh Việt Chiêm quy mô lớn (13 cuộc) mà
nổi bật nhất là dưới thời vua Chiêm Chế Bồng Nga. Đến thời Hồ, vẫn có những
7
- cuộc chiến tranh quy mô giữa hai nước. Thuận Hoá là vùng biên giới tiếp giáp
với nước Chiêm và mỗi lần Đại Việt nam chinh đều đóng quân trên vùng đất này
nên nơi đây trở thành chiến trường giao tranh ác liệt, nhân dân bị ảnh hưởng bởi
chiến tranh tàn phá rồi phu phen tạp dịch nên cuộc sống rất khổ sở. Do đó, điều
lưu ý ở đây theo tiến sỹ Song Jung Nam là "Ngoài chuyện gả Huyền Trân công
chúa cho vua Champa để nhận hai châu Ô- Rý, sau đó, thời nhà Trần "không
nhận được một tấc đất nào từ Champa", mà còn "vài lần phải lâm vào thế tự vệ".
Đến thời Hồ khi quân Minh sang xâm lược nước ta, đặt ách thống trị lên toàn
bộ đất nước. Tướng Minh lúc ấy là Trương Phụ lấy được cả Thuận Hóa và Tân
Bình liền làm sổ ghi chép số dân đinh ở hai châu này, đặt quan cai trị và để quân
binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi
nghĩa, nhận thấy Thuận Hoá là nơi trọng yếu nên rất chú ý xây dựng nơi đây
thành một vùng chiến lược quan trọng. Tháng 7 mùa thu năm Ất Tị (1425), Bình
Định Vương sai tư đồ Trần Hãn và thượng tướng Lê Nỗ đem hơn ngàn quân đi
tuần các xứ Tân Bình và Thuận Hoá rồi hội quân với Lê Ngân gồm 70 chiến
thuyền từ Nghệ An vào, các đạo quân tề tựu đông đủ, thuỷ bộ phối hợp với nhau
tấn công thành. Đại quân đi đến đâu liền được nhân dân một lòng hưởng ứng và
quy thuận. Trong cuộc kháng chiến trường kì chống quân Minh giành lại nền độc
lập dân tộc, nhân dân Thuận Hoá đóng góp rất nhiều công sức.
Sang thời Lê, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành tương đối giao
hảo. Nhưng đến năm 1470 mối quan hệ này lại bắt đầu căng thẳng, vua Chiêm là
Trà Toàn (Pau Kubah, em trai của Trà Duyệt), Trà Duyệt chết thì ngôi thuộc về
Trà Toàn. Trà Toàn là người hung hãn, hoang dâm, không được lòng người và
rất tự phụ. Trà Toàn do đó không có ý thần phục Đại Việt, cho quân lính gây hấn
cướp phá Hoá Châu và vượt biển sang cầu viện Trung Quốc. Lúc này, Đại Việt
đang trong giai đoạn hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử dưới sự trị vì anh minh
của vua Lê Thánh Tông. Là một người văn võ song toàn, sáng suốt và quyết
đoán, Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt Chiêm Thành. Một mặt sai sứ sang
Tàu trình bày rõ ràng việc làm của Trà Toàn với Minh Hiến Tông (Chu Kiến
Thâm) một mặt tự thống lĩnh đại quân gồm 20 vạn vào đánh Chiêm Thành. Khi
8
- đại quân đã tiến đến Thuận Hoá vua cho tập dượt ngày đêm để chắc phần chiến
thắng, bèn xuống chiếu cho vệ quân ở Thuận Hoá ra biển thi thuỷ chiến; lại hạ
lệnh cho Nguyễn Vũ là người ở địa phương vẽ nộp đồ bản về những nơi hiểm
yếu. Vua còn soạn "sách lược bình Chiêm" ban phát cho tướng sĩ các doanh. Về
phía Chiêm, Trà Toàn sai em đưa sáu tướng cùng quân lính bí mật kéo đến sát
doanh trại vua. Vua biết được bèn sai Lê Hy Cát đem thuyền vượt biển lẻn vào
cửa Sa Kỳ lập đồn luỹ để chặn đường về của quân Chiêm, còn vua dẫn thuỷ quân
ra biển kéo cờ và đánh trống để tăng cường thanh thế, lại sai Nguyễn Đức Trung
dẫn quân bộ đi sát chân núi. Quân Chiêm trông thấy thanh thế quân Đại Việt sợ
hãi mà bỏ chạy toán loạn về thành Chà Bàn. Quân của Lê Hy Cát có nhiệm vụ
chặn đường về của giặc đã tung ra ngăn đánh. Nhà vua đóng ở cửa biển Thái
Cần, đốc quân sĩ dốc đánh, chém hơn 300 tên và bắt sống hơn 60 tên, Trà Toàn
sợ hãi dâng biểu xin đầu hàng. Nhà vua lại dẫn quân vào đánh thành Thi Nại,
chiếm xong lại tiến đến đánh thành Đồ Bàn. Nhằm ngày 1 tháng 3 năm 1471,
quân Đại Việt phá vỡ thành, Trà Toàn bị vệ quân Thuận Hoá bắt sống và dẫn đến
trước mặt vua, vua Lê Thánh Tông không giết mà còn phủ dụ, lại cho ở ngoài ty
trấn điện. Có một bại tướng Chiêm là Bô Trì Trì sợ vua còn đánh tiếp nên đã xin
thần phục và triều cống. Vua Thánh Tông một mặt sát nhập miền bắc nước
Chiêm từ đèo Hải Vân đến tận bắc Phú Yên vào bản đồ Đại Việt, một mặt không
muốn tiến đánh thêm nữa bèn nghĩ kế làm cho nước Chiêm tự suy yếu bằng cách
chia nước Chiêm thành ba nước nhỏ do ba vua đứng đầu. Như vậy, qua cuộc nam
chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1470 đã đem về cho Đại Việt thêm nhiều
mảnh đất mới, biên giới phía nam Đại Việt đã tới tận núi Đá Bia thuộc Phú Yên.
Vua có cho khắc bia ma nhai trên đỉnh núi để kỉ niệm chiến thắng và phân định
ranh giới. Do đó Thuận Hoá không còn là vùng biên cương phía nam của đất
nước nữa, từ đây mảnh đất này đi vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Nhân dân
ổn định cuộc sống và bắt đầu khai canh lập ấp để định cư lâu dài. Điều đặc biệt ở
đây đó chính là 12 vị tổ khai canh tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ đều là
những võ quan nhỏ gốc người miền bắc, từng giữ chức đội trưởng dưới thời Lê
Thánh Tông. Khi chiến tranh kết thúc, họ ở lại Thuận Hoá để chiêu vời những
9
- lưu dân xiêu dạt về khai khẩn những vùng đất hoang, lập nên làng mới trong đó
có làng Thanh Thuỷ, tiền thân của xã Thuỷ Dương.
1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương
Từ bến xe phía nam thành phố Huế đi xuống khoảng hai cây số, qua cây cầu
vượt Thuỷ Dương ta đã chính thức đi vào địa phận xã Thuỷ Dương thuộc huyện
Hương Thuỷ. Từ hai bên con đường quốc lộ chạy thẳng về nam chính là địa bàn
dân cư của xã. Đây là một địa bàn có nhiều đơn vị kinh tế và một trong những
trung tâm của huyện Hương Thuỷ nên đã tạo cho xã Thuỷ Dương một bộ mặt
mới mẻ. Bên cạnh những ngành nghề kinh tế đang hoạt động, cư dân trong xã
không chỉ đơn thuần làm nông nghiệp mà xen lẫn vào đó là các hoạt động dịch
vụ khác cụ thể là: lao động nông nghiệp chiếm 19,1%, CN-TTCN-XD 26,7%, lao
động dịch vụ chiếm 29,6%, CB-CNV và lao động khác chiếm 24,6%. Mạng lưới
giao thông đi lại giữa các vùng miền và giữa các xã rất thuận lợi, có nhiều đơn vị
kinh tế lớn đóng trên địa bàn. Trên địa bàn hiện có 1 HTX nông nghiệp, 1 quỹ tín
dụng nhân dân, 2 trường tiểu học, 1 trường THCS, 1 trường mầm non. Trong
những năm qua đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Thủy Dương đã phấn đấu
xây dựng, tập trung đầu tư, chuyển đổi ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, đẩy
nhanh tốc độ đô thị hóa với nhiều công trình có giá trị lớn, cơ sở hạ tầng kĩ thuật
hiện đại, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống vật chất tinh thần của
người dân được nâng lên, quốc phòng an ninh được giữ vững. Từ ngày 9 tháng 2
năm 2010, xã Thuỷ Dương đã chính thức trở thành phường Thuỷ Dương theo
Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc thành lập thị xã
Hương Thủy và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương
Chữ Hán là phương tiện chuyển tải thông tin rất hữu hiệu và mang đầy đủ nét
văn hoá đặc sắc ở các dân tộc trong vòng văn hoá chữ Hán nói chung và Việt
Nam nói riêng. Đây là một trong những hệ thống chữ viết được dùng lâu đời trên
10
- thế giới. Xưa kia chưa có giấy, bút và mực, người Trung Hoa cổ đại khắc chữ
trên mai rùa, xương thú vật hay vỏ cây… vì thế được gọi là giáp cốt văn, đây
chính là một hình thức của văn khắc và nó được ra đời từ rất sớm. Đến thời kỳ
sau này khi người Trung Hoa phát minh ra giấy, bút lông và mực nên đã tạo nên
sự vượt trội cũng như tiện lợi hơn về cách ghi chép và truyền tải thông tin của
chữ Hán, hình thức văn viết ghi chép trên giấy đã ra đời. Nhờ có giấy mà chữ
Hán trở nên đắc dụng và phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so với chữ khắc trên
mai rùa và xương thú nên đã tồn tại cho đến tận ngày nay. Không gian ảnh hưởng
của nó không chỉ bó hẹp trong đất nước Trung Quốc mà còn lan ra cả những
nước xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Nhưng nói như vậy
không phải là văn khắc không còn tồn tại và phát triển mà ngược lại, văn khắc
vẫn phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Văn khắc vẫn tồn tại song song với văn viết
ghi chép trên giấy, có điều là chất liệu khắc đã được thay đổi. Trước kia văn khắc
chỉ xuất hiện trên mai rùa và xương thú thì nay được khắc bằng dao, đục, dũa
hay nề trên các chất liệu mới có độ bền và mang tính thẩm mỹ cao như vữa xây,
đá, kim loại, gỗ hay gốm... Từ đây văn khắc không chỉ chuyển tải nội dung thông
tin mà còn là một hình thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá bởi tuyệt đại đa
số nó được thể hiện trên các bức hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia và văn
chuông… Tất cả đều được gắn với những công trình kiến trúc văn hoá, tôn giáo
và tín ngưỡng ở cả cung đình lẫn trong dân gian, mang trong mình sự thiêng
liêng và trân trọng của mọi tầng lớp. Đặc biệt, do văn khắc được thực hiện trên
các chất liệu bền chắc nên nó vượt trội hơn ở việc bảo lưu nguyên bản nội dung
thông tin tốt hơn rất nhiều so với văn viết chép trên giấy. Và có thể khẳng định
rằng nếu như không có văn khắc thì không có chữ Hán trên những công trình
kiến trúc văn hoá truyền thống, mà không có chữ Hán ở những công trình đó thì
tất cả dường như không có hồn và nét độc đáo trong văn hoá nữa.
Xã Thuỷ Dương cũng là một vùng trọng điểm văn hoá ở Hương Thuỷ nói
riêng và Thừa Thiên Huế nói chung. Văn khắc Hán Nôm dân gian Huế cũng bao
gồm các văn bản Hán Nôm nhưng nó không phải thuộc loại cung đình và sơn
môn, đó là các thể tài: hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia, văn chuông... Mảng
11
- văn khắc này trên địa bàn xã rất phong phú và bao gồm nhiều chủng loại, nhiều
nhất phải kể đến câu đối và hoành phi, đại tự. Một điều đặc biệt là những công
trình kiến trúc trên địa bàn xã từ nhà thờ họ cho đến đền chùa hay miếu mạo hầu
hết mới được đại trùng tu lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng văn khắc đều
đầy đủ, đa dạng và rõ ràng, ít bị thời gian và điều kiện ngoại cảnh làm hư hỏng,
mờ nhạt. Nhưng cũng lý do này mà việc sưu tầm lại trở nên khó khăn hơn bởi ở
những công trình mới, những người quản lý không cho tiếp xúc với nội điện vì lý
do "Sợ mất cắp đồ thờ có giá trị và ảnh hưởng đến sự linh thiêng của tổ tiên dòng
họ" (phải kể đến ở đây là nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý và chùa Hoa
Nghiêm)
Phần văn khắc trên đá, trên địa bàn xã chỉ có một tấm bia duy nhất là tấm văn
bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí" ở quần thể nhà thờ
và lăng mộ họ Lê, Thúc, Bá, Trọng, Quý. Tấm bia này khắc năm 2000, có nhà
bia bảo vệ, bia nhỏ, gồm 432 chữ. Chữ Hán được khắc theo lối chữ chân phương,
rõ ràng, sắc nét, ngôn ngữ gần với ngôn ngữ hiện đại. Cả hai mặt của bia đều
được khắc chữ: mặt dương khắc chữ Hán và mặt âm khắc bản dịch bằng chữ
quốc ngữ. Nội dung chủ yếu giới thiệu và ca ngợi về ngài thuỷ tổ của dòng họ.
Vì bia dựng vào thời hiện đại nên không có phần hoa văn cũng như các trang trí
theo kiểu truyền thống. Bia cũng không được đặt trên lưng rùa mà chỉ dựng trên
đế bia hình khối chữ nhật đúc bằng xi măng, đây cũng là một đặc điểm của văn
bia dân gian Huế. Tấm văn bia này đã được nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh tuyển
dịch trong cuốn "Văn bia và văn chuông Hán Nôm dân gian Thừa Thiên Huế" do
nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006, trang 307.
Phần văn khắc trên chất liệu kim loại chỉ có trên chuông đồng, không có văn
khắc trên khánh và thạp. Chuông là một pháp khí rất quan trọng, là thứ đứng đầu
bát âm và có thể nói là không thể thiếu được trong văn hoá tín ngưỡng Á đông,
đặc biệt là ở chùa. Khi dựng chùa xong thì phải có chuông, đã có chuông ắt phải
có bài văn khắc lên để kỉ niệm. Thông thường là ghi tên các thiện nam tín nữ đã
có công đức xây dựng nên chùa hay ghi bài minh chuông để nguyện cầu. Trên
địa bàn xã hiện nay có năm cái ở ba ngôi chùa: một chiếc ở chùa Nam Sơn, hai
12
- chiếc ở chùa Diệu Viên, một chiếc ở chùa Hoa Nghiêm và một chiếc ở chùa
Đông Hải. Về nội dung thì cả năm chuông đều có nội dung câu chữ hầu hết giống
nhau, đó là đều khắc bài minh chung và văn chung, chỉ khác tên chùa và ngày
đúc. Riêng chuông chùa Đông Hải ghi những thông tin về chuông như năm đúc,
làng xã đúc và trọng lượng của chuông.
Phần câu đối, hoành phi, đại tự chiếm số lượng lớn nhất, có giá trị nhiều mặt
cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Mảng văn khắc này hầu hết được khắc trên
gỗ và nề trên vữa, văn khắc trên gỗ chủ yếu ở nội điện và văn khắc (nề) trên vữa
chủ yếu ở ngoài trời. Nó xuất hiện hầu hết trong những công trình kiến trúc văn
hoá và được bảo lưu khá nguyên vẹn. Những hoành phi câu đối là phần không
thể thiếu được bởi nó không chỉ chứa đựng những nội dung tốt đẹp mà còn là cả
một nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao, cả hai kết hợp tạo nên nét cổ kính, trang
nghiêm và tĩnh lặng. Như đã trình bày ở trên do những công trình kiến trúc trên
địa bàn xã hầu hết mới được sửa sang lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng
văn khắc đều đầy đủ, đa dạng và rõ ràng. Còn lại một số công trình khác do điều
kiện thời tiết và thời gian tác động làm cho những chữ đều mờ nhạt, mất nét
không còn đọc rõ được. Chùa Đông Hải là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất: chữ
viết nề trên trụ biểu và ở cả miếu chùa qua sự bào mòn của mưa nắng đã bị rêu
phong bám mọc và vảy lóc, mất hẳn hết chữ không còn đọc được. Một khó khăn
nữa trong việc sưu tầm và ghi chép là do chữ Hán được khắc trên các công trình
trong dân gian do đó tự dạng một số chữ được viết theo kiểu cách khác biệt
không thể đoán ra được kể cả dựa vào mạch câu văn. Những chữ này lại không
hề có trong từ điển hay phần mềm vi tính chữ Hán. Một số chữ có tự dạng giống
nhau bị viết nhầm chữ này thành chữ kia (như chữ mao và chữ thủ). Hay như một
số chữ bị viết sai nét do những người thợ nề không biết chữ Hán mà chỉ đồ theo
khuôn mẫu có sẵn, trải qua thời gian và qua nhiều người nên chữ đó bị biến dạng,
không còn đúng nét của chữ Hán nữa.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khảo sát tại một ngôi đình,
năm ngôi chùa, chín ngôi miếu lăng và mười một nhà thờ họ với tổng số: văn bia
13
- 1 đơn vị, văn chuông 5 đơn vị, hoành phi và đại tự có 244 đơn vị và câu đối 267
đôi, trong đó có 6 đôi bằng chữ Nôm.
Chương 2
SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ
THUỶ DƯƠNG
2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng
2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng
Trụ biểu, mặt ngoài
清也若水靈也若仙鶴表琴亭玄光自在
水之有源木之有本祖功尊德終古長留
Thanh dã nhược thủy, linh dã nhược sơn, hạc biểu cầm đình huyền quang tự tại
Thủy chi hữu nguyên, mộc chi hữu bản, tổ công tôn đức chung cổ trường lưu.
Trong như nước, thiêng như núi, trụ biểu mái đình sáng tươi tự tại;
Cây có cội, nước có nguồn, công đức tổ tông lưu mãi muôn năm.
精靈得造化高清濯濯洋洋萬古猶流正氣
英秀對岑山香水煌煌赫赫千秋共拜神庥
Tinh linh đắc tạo hóa, cao thanh trạc trạc dương dương, vạn cổ do lưu chính khí;
Anh tú đối Sầm sơn, Hương Thủy hoàng hoàng hách hách, thiên thu cộng bái
thần hưu.
Thiêng liêng nhờ tạo hoá, thanh cao rực rỡ mênh mông, muôn thuở lưu truyền
chính khí;
Anh tú đối diện với đụn Sầm, Hương Thuỷ sáng trong mát mẻ, ngàn năm cùng
đội ơn che chở của Thần.
Mặt trong
14
- 清氣為天高彌來後箕尾托
水泉在地翰公南海榜碑靈
Thanh khí vi thiên, cao di lai hậu Cơ Vĩ thác;
Thủy tuyền tại địa, Hàn công nam hải bảng bi linh.
Khí lành là của trời, về sau lại càng cao như sao Cơ, sao Vĩ;
Suối nước tại đất, tiên Hàn Tương Tử ở biển nam linh thiêng ở bảng bia đây.
得一以靈滾滾清泉一脈
有三不朽巍巍岑嶺三峰
Đắc nhất dĩ linh, cổn cổn thanh tuyền nhất mạch;
Hữu tam bất hủ, nguy nguy sầm lĩnh tam phong.
Được một đã linh, cuồn cuộn một mạch suối trong lành;
Có ba bất hủ, nguy nga ba ngọn núi Sầm.
Bình phong, mặt trước
屏立清亭迎瑞氣
風來水面送奇香
Bình lập thanh đình nghênh thụy khí;
Phong lai thủy diện tống kì hương.
Bình phong đứng ở trước đình sáng đón mời khí lành;
Gió thổi tới mặt nước toả ra mùi hương lạ.
Bình phong, mặt sau
文武常班列
江山足護持
Văn võ thường ban liệt;
Giang sơn túc hộ trì.
Văn võ thường xếp bày;
15
- Non sông đủ hộ trì.
Tiền đường
清水上亭
丁酉年秋吉日造
Thanh Thủy Thượng đình
Đinh Dậu niên thu cát nhật tạo
Đình Thanh Thủy Thượng
Xây dựng ngày tốt mùa thu năm Đinh Dậu
物阜民康 清泉勝蹟 風淳俗美
Vật phụ dân khang Thanh tuyền thắng tích Phong thuần tục mỹ Dân giàu
vật tốt tươi Cảnh đẹp suối trong xanh Phong tục thuần hậu
tốt đẹp
Nội điện
德流光 享克誠 功則祀
Đức lưu quang Hưởng khắc thành Công tắc tự
Đức sáng lưu truyền mãi Hưởng sự thành kính Có công thì thờ phụng
護國庇民澤同香水潤
調元贊化功等象山高
Hộ quốc tí dân, trạch đồng Hương thủy nhuận;
Điều nguyên tán hóa, công đẳng Tượng sơn cao.
Bảo vệ nước che chở dân, ơn trạch thấm đẫm như sông Hương;
Điều nguyên chuyển hóa, công lao cao lớn sánh với núi Voi.
16
- 德其盛
Đức kỳ thịnh
Công đức thịnh
為德其盛矣
有功則祀之
Vi đức kỳ thịnh hỹ;
Hữu công tắc tự chi.
Việc làm công đức thật là thịnh;
Có công thì thờ phụng.
Nhà truyền thống
萬世師
Vạn thế sư
Người thầy của muôn đời
聖道千秋留越地
師傳萬世照南天
Thánh đạo thiên thu lưu Việt địa;
Sư truyền vạn thế chiếu Nam thiên.
Đạo của thánh nhân ngàn năm lưu ở đất Việt;
17
- Bậc thầy của muôn đời sáng mãi ở trời Nam.
岑嶺巍巍山錦鏽
清泉滾滾水文章
Sầm lĩnh nguy nguy sơn cẩm tú;
Thanh tuyền cổn cổn thủy văn chương.
Núi Sầm vời vợi ấy là núi tươi đẹp;
Suối trong xanh cuồn cuộn ấy là nước văn chương.
2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa
2.2.1. Chùa Diệu Viên
Đỉnh đồng
妙圓寺鼎
Diệu Viên tự đỉnh
Vạc chùa Diệu Viên
Nóc điện
大光明臧
phía trên
Đại Quang Minh tạng
Tạng Đại Quang Minh
18
- Nóc điện
phía dưới 大覺世尊
Đại giác thế tôn
Đại giác thế tôn
Bốn bài kệ trên tường mái
諸有聽徒來至此
或在地上或居空
常於人世起慈心
盡夜自身依法住
願諸世界常安隱
無邊福智蓋群生
南無罪業並銷除
迷離眾苦歸圓寂
天阿修羅餓鬼等
來聽法者應至心
使常存名各動行
世尊教
恆用戒看塗荃体
常持定服以資身
菩提妙法遍莊嚴
19
- 隨兩往生處常安樂
Chư hữu thính đồ lai chí thử,
Hoặc tại địa thượng hoặc cư không.
Thường ư nhân thế khởi từ tâm,
Tận dạ tự thân y pháp trụ.
Nguyện chư thế giới thường an lạc,
Vô biên phúc trí cái quần sinh.
Nam mô tội nghiệp tịnh tiêu trừ,
Mê ly chúng khổ quy viên tịch.
Thiên A tu la ngạ quỷ đẳng,
Lai thính pháp giả ứng chí tâm.
Sử thường tồn danh các động hành
Thế tôn giáo.
Hằng dụng giới khan đồ thuyên thể,
Thường trì định phục dĩ tư thân.
Bồ Đề diệu pháp biến trang nghiêm,
Tùy lưỡng vãng sinh xứ thường an lạc.
Có những con người tới nơi đây để nghe pháp,
Có kẻ ngồi ở trên đất, có kẻ ngồi ở trên cao.
Thường ở nơi nhân thế sẽ nổi lên lòng từ bi,
Chấm dứt bóng đêm tự thân dựa vào pháp mà an trú.
Mong cho các thế giới đều yên vui,
Phúc và trí vô biên phủ khắp muôn loài.
20
nguon tai.lieu . vn