Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN VĂN THÔNG SO SÁNH TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN VN THÔNG SO SNH SO SÁNH TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ LÀO Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 62 22 36 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính 2. PGS.TS. Lại Phi Hùng HÀ NỘI - 2009
  3. MỤC LỤC Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 7 4. Phương pháp nghiên cứu 8 5. Cấu trúc luận án 8 Chương 1: Tổng quan văn hoá - xã hội Việt Nam - Lào 10 1.1 Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào 10 1.1.1. Sơ lược lịch sử - xã hội nước Lào 10 1.1.2. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào 14 1.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông Nam Á 18 1.2.1. Về địa lý và tự nhiên 19 1.2.2. Văn hoá - tộc người 24 1.2.2.1. Mối quan hệ giữa các tộc người 24 1.2.2.2. Mối quan hệ văn hoá Việt Nam - Lào trong bối cảnh Đông Nam Á 29 1.2.2.3. Về ngôn ngữ 31 1.2.2.4. Về chữ viết 32 1.2.2.5. Phật giáo ở Việt Nam và Lào 33 Chương 2: So sánh nội dung tục ngữ Việt và tục ngữ Lào 39 2.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau 39 2.1.1. Tục ngữ Việt, Lào thể hiện nhận thức, trí thức về tự nhiên, thiên nhiên; 39 phản ánh quê hương, đất nước 2.1.1.1. Thể hiện nhận thức, trí thức về tự nhiên, thiên nhiên 39 2.1.1.2. Phản ánh quê hương, đất nước 43 2.1.2. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất, chăn nuôi 55 2.1.2.1. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất 55 2.1.2.2. Đúc kết kinh nghiệm về chăn nuôi 59 2.1.3. Phản ánh các mối quan hệ gia đình, xã hội 60 2.1.4. Phê phán giai cấp thống trị và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, chế 68 giễu những thói hư, tật xấu 2.1.4.1. Phê phán giai cấp thống trị 68 2.1.4.2. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, lối sống trọng tình 70 2.1.4.3. Chế giễu những thói hư, tật xấu 73 2.1.5. Phản ánh văn hoá ẩm thực của nhân dân 78 2.1.6.Tục ngữ Việt phản ánh thực tế người Việt chịu ảnh hưởng Nho giáo 87 2.1.7. Tục ngữ Lào phản ánh thực tế người Lào chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật 94 giáo 2.1.8. Hiện tượng trái nghĩa trong tục ngữ Việt 100 2.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau 107 2.2.1. Sự giống nhau 107 2.2.2. Sự khác nhau 112
  4. Chương 3: So sánh nghệ thuật tục ngữ Việt và tục ngữ Lào 116 3.1. Trình bày sự giống nhau và khác nhau 116 3.1.1. Ngữ nghĩa 116 3.1.2. Kết cấu 125 3.1.3. Vần 150 3.1.4. Nhịp 161 3.1.5. Lối tỉnh lược 165 3.1.6. Lối nói 167 3.1.6.1. Các hình thức tu từ trong tục ngữ 167 3.1.6.2. Hiện tượng “nói ngược” trong tục ngữ Lào 178 3.1.7. Từ ngữ 181 3.1.7.1. Tục ngữ Việt sử dụng nhiều phương ngữ 181 3.1.7.2. Tục ngữ Việt ảnh hưởng của tiếng Hán và văn hoá Hán 183 3.1.7.3. Tục ngữ Lào sử dụng nhiều tiếng Pali - Sanskrit 184 3.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau 184 3.2.1. Sự giống nhau 185 3.2.2. Sự khác nhau 186 Kết luận 189 Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án 192 Tài liệu tham khảo 195 Phụ lục 213
  5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các vấn đề được mô tả, phân tích và tổng kết trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Nguyễn Văn Thông
  6. BẢNG CHÚ GIẢI VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN GS Giáo sư Ngđ Nghĩa đen PGS Phó Giáo sư Ngb Nghĩa bóng TS Tiến sĩ // Ngắt đoạn VS Viện sĩ TN Tục ngữ Nxb Nhà xuất bản / Ngắt ý H Hà Nội ThN Thành ngữ BK Bản khác NCS Nghiên cứu sinh Db Dị bản TCN Trước công nguyên Sđd Sách đã dẫn ĐVTG Đơn vị trung gian tr Trang xb Xuất bản Tp Thành phố ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội TK Thế kỷ ĐHTHHN Đại học Tổng hợp Hà Nội
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Lào có câu xú pha xít1 “Mạy huồm co po huồm xược” (Đay chung dây, cây chung khóm). Quan hệ Việt Nam - Lào như tre chung một bụi, như đay chung một dây. Hai nước liền kề nhau về địa lý và có quan hệ bang giao thân thiết lâu đời vì cùng nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc vùng Đông Nam Á. Cho nên, bên cạnh những điểm khác nhau như là sự tất yếu xuất phát từ bản sắc dân tộc, nền văn hoá hai nước nói chung, tục ngữ hai nước nói riêng có những điểm tương đồng như là bản chất chung trong quá trình sáng tạo folklore nhân loại cũng như sự giống nhau do những điều kiện lịch sử, địa lý tự nhiên và những quan hệ giao lưu văn hoá mang lại. Nghiên cứu sự giống nhau và khác nhau này, về chính trị, sẽ góp phần khẳng định tính độc lập của mỗi dân tộc; đồng thời, những yếu tố về địa lý, lịch sử, xã hội giống nhau giữa hai nước cũng tạo nên những nét giống nhau trong mối bang giao thân thiết giữa hai dân tộc; về khoa học, không chỉ giúp cho những người quan tâm hiểu biết thêm về tục ngữ mỗi nước, hiểu rõ hơn những nét đẹp truyền thống trong tâm hồn và tính cách của chính mình và của người bạn láng giềng mà còn góp phần làm sáng tỏ sự giống nhau kỳ lạ, đến từng chi tiết của một bộ phận tục ngữ hai dân tộc. Qua đó, về lý luận, sẽ góp phần làm rõ hơn bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc; về thực tiễn, cũng góp phần quảng bá nền văn hoá của mỗi nước và thúc đẩy mối quan hệ láng giềng truyền thống Việt Nam - Lào ngày càng phát triển. 1 Khái niệm xú pha xít của người Lào đồng nghĩa với khái niệm tục ngữ và khái niệm thành ngữ của người Việt, tức là trong xú pha xít có hai bộ phận, một bộ phận là thành ngữ, bộ phận còn lại là tục ngữ. 1
  8. Qua một số năm chiến đấu, công tác ở Lào và nhiều năm dạy tiếng Việt cho người Lào, tác giả luận án đã đi điền dã và thu thập được một số lượng đáng kể những câu tục ngữ Lào2, đã cảm nhận được một phần tâm thức của người Lào trên mảnh đất thân yêu của họ. Chúng tôi cũng đã công bố một số công trình khoa học và bài viết nhất định về nó3. Về tục ngữ của người Việt, trong giới nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian, đã có nhiều công trình, bài viết với một lực lượng khá hùng hậu và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Còn nghiên cứu so sánh tục ngữ Việt với tục ngữ Lào trên cả hai phương diện nội dung và hình thức là một đề tài hoàn toàn mới. Do vậy, việc so sánh tục ngữ Việt, Lào là một việc làm cần thiết. 2. LÞch sö vÊn ®Ò nghiªn cøu Từ xa xưa, văn học dân gian Lào đã bắt đầu phát triển với những câu chuyện kể, những bản trường ca, những câu thơ Lào hùng tráng mà mượt mà, những câu tục ngữ Lào thâm thúy mà bóng bẩy, trong đó có công đóng góp vô cùng to lớn của đội ngũ sư sãi và “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân gian) Lào. Sư sãi Lào đã góp phần phát triển đạo Phật ở Lào và cũng là những người đáng được ghi tên trong văn học Phật giáo; còn các “mỏ lăm” (nghệ sĩ dân gian) Lào lại là những người có những đóng góp quan trọng đối với nền văn học dân gian Lào. Lùc l-îng nh÷ng ng-êi lµm c«ng t¸c s-u tÇm, biªn so¹n, ®¸nh gi¸, giíi thiÖu v¨n häc d©n gian Lµo nãi chung, tôc ng÷ Lµo nãi riªng ë Lµo tõ tr-íc ®Õn nay cßn rÊt máng vµ ch-a có nhiều thµnh tùu. Từ những 2 Xem Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Lào - Việt (Phần phụ lục luận án) do tác giả luận án sưu tầm, biên soạn. 3 Xem Danh mục những công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án ở tr. 192. 2
  9. năm 1940, khi Lào còn bị Pháp xâm lược, Ma hả Xi La Vị La Vông và nhóm những người bạn trí thức Tây học của ông đã sưu tầm, biên soạn, trích đăng thành sách ngoài một số truyện thơ có nguồn gốc Ấn Độ, còn có ca dao, tục ngữ (sau này đã được tái bản nhiều lần). Đó là những công trình sưu tầm, biên soạn và giới thiệu tục ngữ rất đáng quý. Năm 1987, cuốn Văn học Lào dày 527 trang, một công trình hợp tác giữa Uỷ ban Khoa học Xã hội Lào với Viện Nghiên cứu Đông Nam Á trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam in tại Nhà xuất bản Quốc gia Lào (Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Viêng Chăn in lại theo hình thức rônêô năm 1989), là một công trình đầu tiên ở Lào nghiên cứu dài hơi, tương đối có hệ thống, có độ tin cậy khoa học về văn học Lào từ trước đến nay. Do phải giới thiệu một cách khái quát về văn học Lào, nên phần giới thiệu và nghiên cứu tục ngữ Lào còn quá sơ lược. Vài chục năm nay, Chính phủ Lào đã dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác giữ gìn, phát triển nền văn học truyền thống của dân tộc. Người Lào đã đưa văn học dân gian Lào nói chung, tục ngữ Lào nói riêng vào chương trình giáo dục phổ thông và đại học. Do vậy, đã có người sưu tầm, biên soạn tục ngữ Lào thành những tập từ điển mini mỏng, gồm vài chục câu đến vài trăm câu. Cuốn Văn học phổ thông [186] của nhiều tác giả Lào, giới thiệu một cách sơ lược tình hình văn học Lào, trong đó có văn học dân gian dành cho học sinh hệ phổ thông trung học Lào của Nxb Giáo dục Thể thao và Lễ nghi, xuất bản năm 1982; cuốn Câu thơ dân gian Lào [189] của Bò Xẻng Khăm, Xúc Xạ Vàng, Bun Khiển, được biên soạn chung, gồm nhiều phần, trong đó phần tục ngữ gồm một số câu mới được sưu tầm, biên soạn không theo chủ đề hoặc tiêu chí nào; cuốn Tục ngữ cổ truyền Lào [187] của Ma hả Xi La Vị La Vông, 63 trang, gồm năm phần (xuất bản lần đầu năm 1996, in 2000 cuốn) do Đa Ra Căn Nạ Nha giới thiệu, riêng phần tục ngữ có 450 câu (sách được tái bản lần thứ ba, năm 2000, do Công Đươn Nẹt Thạ Vông giới 3
  10. thiệu, in 3000 cuốn) bao gồm những câu tản mạn, không sắp xếp theo cách làm truyền thống; cuốn Từ thông dụng và tục ngữ Lào [190] của Xi Ri Xu Văn Na Xỉ, xuất bản năm 2000, 62 trang, gồm bốn phần, riêng phần tục ngữ Lào mới chỉ được dịch và đối chiếu từ 235 câu tục ngữ Anh; cuốn Tục ngữ dân gian Lào [191] của Đuông Chăn Văn Na Bu Pha xuất bản năm 2005 cũng được biên soạn với cấu trúc tương tự,... Gần đây, Lăm Phon Xay Xa Na đã làm luận văn tốt nghiệp đại học với đề tài Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào về văn hoá ẩm thực, 1999 [137] mới chỉ so sánh tục ngữ hai nước ở một khía cạnh của nội dung. Ở Việt Nam, văn học dân gian Lào nói chung, tục ngữ Lào nói riêng chưa được nhiều người Việt Nam biết đến, vì đội ngũ những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu chúng ở Việt Nam chưa đông, việc giới thiệu chúng với độc giả Việt Nam cũng mới được khởi động. Đinh Việt Anh [1], trong chương 2 viết về văn học dân gian Lào, ngoài phần khái quát chung, tác giả lần lượt khảo cứu từng thể loại, trong đó tục ngữ Lào được nghiên cứu một cách thận trọng, khoa học nhưng còn sơ lược. Trong số không nhiều nhà folklore Lào phải kể đến Nguyễn Năm với một số bài viết trong sách hoặc trên các tạp chí chuyên ngành. Cuốn Hợp tuyển văn học Lào [140] dày 511 trang, do Nguyễn Năm giới thiệu khắc hoạ bức tranh chung về tình hình văn học Lào qua các thời kỳ nhưng chưa nêu được đặc điểm của từng thể loại. Nguyễn Đình Phúc, tác giả cuốn Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào [138], lần đầu tiên sưu tầm, dịch nghĩa 691 câu tục ngữ Lào sang tiếng Việt, giới thiệu, bình giảng sơ lược ở một vài khía cạnh của nội dung mà chưa đi sâu tìm hiểu toàn diện nội dung và nghệ thuật tục ngữ Lào. Trong công trình tập thể Văn học Đông Nam Á [131], Lại Phi Hùng đã nhận diện một cách rất khái lược tục ngữ trong mối tương quan thể loại của nền văn học Lào nói chung, văn học dân gian Lào nói riêng. Những năm gần đây, một số tác giả 4
  11. người Việt cũng góp thêm những tiếng nói nhằm giới thiệu tục ngữ Lào ở Việt Nam. Trịnh Đức Hiển có bài “Sơ bộ tìm hiểu luật hiệp vần và vần trong xú pha xít Lào” [55] và bài “Một số hình thức thể hiện tính hình tượng trong xú pha xít Lào” [56]; tác giả luận án có bài: “Tìm hiểu tư tưởng Phật giáo ở Lào qua mảng xú pha xít Lào về văn hoá ứng xử” [4] và bài “Phong cách ăn uống của người Lào” [6]. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào [14] và hai đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt - Lào [16] và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Lào - Việt [17] của tác giả luận án không chỉ tìm hiểu, so sánh một số khía cạnh của tục ngữ hai nước mà còn đối sánh nghĩa trong quan hệ đối ứng của chúng. Luận văn thạc sĩ: Tìm hiểu tục ngữ Việt và xú pha xít Lào về Văn hoá ứng xử [2] và các bài: “Tìm hiểu mảng tục ngữ Việt và xú pha xít Lào về văn hoá ứng xử” [3], “Về hiện tượng “nói ngược” trong tục ngữ Việt và xú pha xít Lào” [8], “Tìm hiểu lối nói của người Việt và người Lào qua tục ngữ” [12] “Tìm hiểu một số kiểu hiệp vần trong tục ngữ Việt và Lào” [13], “Tìm hiểu một số kiểu kết cấu so sánh của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào” [18] của tác giả luận án, đã góp thêm tiếng nói về một số khía cạnh của tục ngữ, làm phong phú thêm mảng văn học so sánh ở Việt Nam. Ngoài ra, còn nhiều tác giả biên soạn, nghiên cứu, so sánh, đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ một số nước trên thế giới để thấy được cái hay, cái đẹp của tục ngữ Việt. Trước hết, phải kể đến các tập từ điển, luận văn, bài viết so sánh, đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ nước ngoài. Đó là các cuốn từ điển đa ngữ như: Tục ngữ Nga - Anh- Pháp - Việt [7] của Lê Đình Bích, Trần Quỳnh Dân; Tục ngữ, thành ngữ trên thế giới [23] của Lê Du, Lê Hải; Tục ngữ các nước trên thế giới [57] của Vương Trung Hiếu; Tục ngữ Anh - Pháp - Việt [99] của Nguyễn Gia Liên; Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây [170] của Nguyễn Văn Tố; Tục ngữ Anh - Pháp - Việt và một số thành 5
  12. ngữ danh ngôn [178] của Lê Ngọc Tú; Từ điển thành ngữ tục ngữ Pháp - Anh - Việt [181] của Thanh Vân, Nguyễn Duy Nhường, Lưu Hoài...Và sau đó là các cuốn từ điển song ngữ như: Tục ngữ Nga - Việt [8] của Lê Đình Bích; Tục ngữ và câu đố Đức - Việt [71] của Lương Văn Hồng; Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt - Pháp [96] của Nguyễn Lân,... Ngoài một vài cuốn dành một lượng trang ít ỏi tìm hiểu một cách sơ lược tục ngữ hoặc thành ngữ - tục ngữ trên một số khía cạnh, còn phần lớn chỉ là những cuốn từ điển song ngữ hoặc đa ngữ mà chưa có được những câu tục ngữ đối ứng, chưa phân tích đầy đủ các mặt nội dung và hình thức của chúng. Các cuốn từ điển đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ một số nước đồng văn như: Từ điển thành ngữ - tục ngữ Hoa - Việt [79] của Nguyễn Văn Khang; Tục ngữ Nhật - Việt [167] của Nguyễn Thị Hồng Thu; Từ điển thành ngữ tục ngữ Hoa - Việt [175] của Lê Khánh Trường, Lê Việt Anh... cũng được trình bày tương tự. Năm 2005, luận án tiến sĩ Ngữ văn với đề tài Tìm hiểu văn hoá ứng xử Nhật Bản qua Kôtôwaza, có so sánh với tục ngữ Việt Nam [168] của Nguyễn Thị Hồng Thu lấy tục ngữ Nhật làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu nhưng có so sánh với tục ngữ Việt Nam. Tuy còn chưa thật nhiều nhưng những công trình, bài viết nói trên cũng đã góp thêm cho mảng văn học so sánh ở Việt Nam một không khí học thuật mới. Nhìn chung lại, khi nghiên cứu văn học dân gian Lào nói chung, tục ngữ Lào nói riêng, các tác giả Việt Nam và Lào mới chỉ xem xét một cách đơn tuyến, tách rời; cách tiếp cận chưa đặt trong tư duy bối cảnh, nghĩa là chưa đặt sự so sánh tục hai nước trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt không chỉ trong tục ngữ mà còn cả trong giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa các dân tộc đó. Chưa có những công trình nghiên cứu so sánh, đối chiếu nội dung tư tưởng, nghệ thuật và thi pháp của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào do vấn đề nghiên cứu chúng theo phương 6
  13. pháp này còn mới. Bởi vậy, thành tựu của việc so sánh tục ngữ Việt và tục ngữ Lào đang còn trong giai đoạn khởi đầu, kết quả thu được chưa nhiều. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận án Theo tương đối luận, giữa các nền văn hoá không có sự hơn, kém mà chỉ có sự giống và khác nhau. Do vậy, chúng tôi sẽ không đi tìm sự hơn kém giữa tục ngữ Việt với tục ngữ Lào mà thống kê, phân tích, so sánh nội dung và nghệ thuật của hai hệ thống tục ngữ Việt và Lào để phát hiện sự tương đồng và khác biệt, chỉ ra nguyên nhân của sự giống nhau và khác nhau, qua đó làm rõ bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc trong bối cảnh Đông Nam Á. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ còn góp phần để nhân dân hai nước Việt Nam - Lào không chỉ hiểu nhau hơn mà còn góp phần quảng bá nền văn hóa của mỗi nước và thúc đẩy mối quan hệ láng giềng truyền thống Việt - Lào ngày càng phát triển. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là 16.098 câu tục ngữ của người Việt trong bộ Kho tàng tục ngữ người Việt (2 tập) [90] do Nguyễn Xuân Kính chủ biên; - Phần tục ngữ Lào gồm 691 câu trong cuốn Xú pha xít và lời nói giao duyên Lào [138] của Nguyễn Đình Phúc cũng là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án; Tuy nhiên, nếu lấy 16.098 câu tục ngữ Việt (một lượng câu quá lớn) để so sánh với 691 câu tục ngữ Lào (một lượng câu còn rất hạn chế) thì sự chênh lệch về tư liệu là rất lớn. Để khắc phục sự “khập khiễng” khó tránh khỏi này, cách tốt nhất là, “khuôn” chúng lại ở những nội dung cơ bản và hình thức chủ yếu, thông qua những tỷ lệ so sánh có tính chất tương đối. 7
  14. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Thuật ngữ “tục ngữ Việt” mà chúng tôi đề cập đến trong luận án đồng nghĩa với “tục ngữ cổ truyền” của người Việt (người Kinh); - Khái niệm “tục ngữ Lào” trong luận án tương đương với “tục ngữ cổ truyền” của người Lào Thay (Lào Lùm). Như trên đã nói, nội dung phản ánh của tục ngữ Việt và tục ngữ Lào là vô cùng phong phú, nghệ thuật của chúng cũng rất đa dạng. Do vậy, chúng tôi không tìm hiểu, so sánh chúng theo “diện” mà theo “điểm”, ở một số nội dung cơ bản và hình thức chủ yếu. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu ngôn ngữ của một dân tộc là nhằm giải mã tâm thức dân tộc đó thông qua hệ thống các tín hiệu ngôn ngữ trong bối cảnh văn hoá. Vì vậy, trong luận án này, ngoài việc tiếp thu thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi không chỉ sử dụng những kiến thức chuyên ngành mà còn tiếp cận đến những tri thức liên ngành và đa ngành từ nhân học, văn hoá, khảo cổ học, dân tộc học, văn học, địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội… Ngoài hai phương pháp khảo cứu chính là thống kê và so sánh, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác là phương pháp điền dã, phương pháp mô tả, phương pháp phân tích tổng hợp cùng một số thao tác cụ thể khác. 5. Cấu trúc luận án Mở đầu Chương 1: Tổng quan văn hoá - xã hội Việt Nam - Lào. Chương 2: So sánh nội dung tục ngữ Việt và tục ngữ Lào. Chương 3: So sánh nghệ thuật tục ngữ Việt và tục ngữ Lào. Kết luận 8
  15. Chương 1 nhằm cung cấp một bức tranh toàn cảnh mang tính khái quát về đất nước, con người Lào và quan hệ Việt Nam - Lào từ xa xưa, nhận diện đặc trưng văn hoá hai nước từ cái chung đến những nét riêng để có cơ sở giải thích kết quả so sánh nội dung và nghệ thuật tục ngữ hai nước ở hai chương sau. Ở chương 2, chúng tôi so sánh nội dung tục ngữ hai nước trên các bình diện: môi trường tự nhiên và xã hội, quê hương xứ sở, kinh nghiệm sản xuất và chăn nuôi, quan hệ gia đình xã hội, phê phán thống trị và các thói hư tật xấu. Qua đó, chúng tôi chỉ ra sự giống nhau; đồng thời, tập trung phân tích các bình diện có những nét khác nhau khá rõ ràng. Đó là tục ngữ Việt nói đến văn hoá ẩm thực đậm đặc và sâu sắc, văn hoá đậm ảnh hưởng Nho giáo của người Việt và văn hoá đậm ảnh hưởng Phật giáo của người Lào. Sau đó, tác giả luận án tìm hiểu lý do dẫn đến sự giống và khác nhau đó. Trong chương 3, NCS so sánh ngữ nghĩa, kết cấu, vần, nhịp, tỉnh lược, lối nói, ngôn ngữ...; đồng thời, giải thích nguyên nhân sự giống nhau và khác nhau ấy. 9
  16. Chương 1 TỔNG QUAN VĂN HOÁ - XÃ HỘI VIỆT NAM - LÀO 1.1. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào 1.1.1. Sơ lược lịch sử - xã hội nước Lào Thời phong kiến, xã hội Lào thuộc chế độ quân chủ tập quyền. Đây là thời kỳ dài nhất trong lịch sử nước Lào và cũng là thời gian chủ yếu để ra đời những câu tục ngữ cổ truyền. Lịch sử nước Lào còn thấp thoáng hình ảnh và chiến tích của các vị vua, những người mà tên tuổi còn được lưu giữ qua các truyền thuyết và kỳ tích. Nói một cách khác, các truyền thuyết Lào còn lại đều thấy thấp thoáng hình ảnh những ông vua trong lịch sử nước Lào. Ở Lào, có ba vị vua được ghi danh trong lịch sử nước Lào dưới hình thức huyền thoại và truyền thuyết. Người thứ nhất là Khún Bu Lôm, người mở đầu cho các dòng họ vua Lào được phản ánh trong truyền thuyết Khún Bu Lôm, Khún Bu Lo. Theo dã sử, Khún Bu Lôm từ phía Bắc xuống giành quyền làm chủ đầu tiên vùng Mường Xoa (Luông Pha Băng ngày nay), vốn là nơi có cuộc gặp gỡ lịch sử tất yếu giữa người Khạ (Lào Thơng) và người Lào - Thay (Lào Lùm) đến đây sinh sống. “Nị than” (truyền thuyết) Khún Bu Lôm, Khún Bu Lo cũng tương tự như huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ của người Việt. Người Lào coi Khún Bu Lôm là thánh Tổ của dân tộc Lào, người mở đầu cho lịch sử Lào từ thế kỷ thứ VIII mà Xiêng Đôông Xiêng Thoòng (Luông Pha Băng) được chọn làm kinh đô. Người thứ hai được ghi danh trong lịch sử Lào là Chậu Phà Ngừm (1316 - 1371). Năm 1353, với uy quyền và tài năng của mình, Phà Ngừm đã lên ngôi vua, lấy Luông Pha Băng làm kinh đô. Năm 1356 ông đem quân đánh dẹp các mường ở phía Bắc và quay về Xiêng Đôông Xiêng Thoòng (Kinh đô Luông Pha Băng) rồi tiếp tục hành quân tiến về Viêng Chăn, đánh 10
  17. dẹp các mường ở đó và thống nhất quốc gia Lạn Xạng làm một vào năm 1357. Phà Ngừm đã thống nhất quốc gia Lạn Xạng và tổ chức lễ mừng chiến thắng khai sinh quốc gia Lạn Xạng tại Viêng Chăn. Trong buổi lễ long trọng đó, ngoài việc tuyên dương công trạng quân đội, tổ chức lại bộ máy chỉ huy cai trị hành chính theo các mường, Phà Ngừm đã có một “Lời huấn thị” lịch sử, còn được ghi trong chính sử mà người Lào coi như là bản hiến pháp đầu tiên của mình. Người thứ ba có ảnh hưởng sâu sắc đến đất nước Lào là vua Sệt Tha Thi Rạt (1534 -1572). Phải đến năm 1553, nghĩa là 200 năm sau, vì lý do địa lý chính trị đối với các vương hầu phía Nam và để tránh sự dòm ngó đặc biệt của quân Miến Điện, quốc vương Sệt Tha Thi Rạt mới là người tiếp tục thực thi những ý tưởng của Phà Ngừm, thiên đô từ Luông Pha Băng xuống Viêng Chăn (cách 210 km), mang theo tượng Phật bằng ngọc bích (cao 0,70 cm), cho xây “Vắt Pha kẹo” (Chùa ngọc) để an vị tượng Phật đó, đồng thời dựng “Thạt Luổng” (Tháp lớn) năm 1566, lưu giữ xá lợi là một sợ tóc (hay một đốt xương?) của Đức Phật. Vua Sệt Tha Thi Rạt băng hà trong một cuộc thân chinh dẹp loạn người Khạ ở phía Nam năm 1572. Sau đó là thời kỳ hỗn quan, hỗn quân vô chính phủ của nước Lào. Mãi đến nửa đầu thế kỷ XVII mới tái lập được sự ổn định dưới triều vua Sou Ri NaVong Sa (1637 -1694), một đại vương của nước Lào trị vì hơn 50 năm, người có công lớn trong việc giữ được sự ổn định lâu nhất của quốc gia Lạn Xạng. Dưới triều đại Sou Ri NaVong Sa, Viêng Chăn là trung tâm Phật giáo lớn, nơi sư sãi các nước Khơme, Phù Nam hay Xiêm (Thái Lan) đến tu học. Từ đó đến nay, Viêng Chăn luôn là thủ đô, một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của nước Lào. Sự kiện thống nhất quốc gia Lạn Xạng của Phà Ngừm (1357) và sự kiện dời đô của Sệt Tha Thi Rạt (1553) là hai biến cố lớn có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ về chính trị mà còn đến đời sống văn hoá, văn học Lào hơn cả. Giờ đây, 11
  18. vương quyền đã gắn chặt với một biểu tượng mới bao trùm lên tất cả các mường là ông Phật. Trong số ba vị vua anh minh và có nhiều chiến tích nói trên thì Chậu Phà Ngừm để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất. Trong Historie du Laos francais, Paul de Boulanger coi Phà Ngừm là một vị vua tài giỏi về quân sự, luôn luôn ở trong hàng quân. Không lúc nào sợ hãi (...) Phà Ngừm cũng đã dùng sức mạnh hoặc chỉ bằng uy danh của mình đã khuất phục tất cả các dân tộc ở bán đảo Đông Dương trừ hai nước Việt Nam và Campuchia. Vị hoàng đế vĩ đại đó là người sáng lập thật sự nước Lạn Xạng thống nhất. Đó là một nhân vật kỳ lạ và phi thường, không ngờ lại xuất hiện trong lịch sử một dân tộc vốn yêu chuộng trật tự và yên ổn... Bằng nhiều cách, Phà Ngừm đã quy tụ được thủ lĩnh của các địa phương, các vùng miền, từ những đồng bằng phía Tây, những thung lũng và núi non phía Bắc đến những cao nguyên phía Nam gắn kết lại dưới một cái tên chung: nước Lạn Xạng. Đất nước Lào xuất hiện theo bước chân chinh phạt của người anh hùng dân tộc Phà Ngừm để bước vào một giai đoạn lịch sử mới đầy náo động mà trước đó là cả một thời kỳ dài phát triển gần như âm thầm. Phà Ngừm yêu cầu vua Khơme cử hai mươi ba nhà sư, ba nhà bác học mang theo tượng Phật, kinh sách, cây bồ đề sang Lào. Cùng đi còn có các thợ lành nghề về rèn, nấu đồng, đúc tượng, kim hoàn. Vua Khơme còn tặng vua Lào một số nhạc cụ. Như vậy, tuy là gián tiếp nhưng Lào đã tiếp nhận mạnh mẽ văn hoá Ấn, gần gũi về văn hoá với các nước láng giềng phía Tây và Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện, Khơme. Tuy nhiên, ảnh hưởng văn hoá của các nước này tới Lào hãy còn hạn hẹp, bởi văn hoá Ấn - Phật lúc này vẫn còn do những nhà sư và những người từ Khơme mang đến nên chỉ loanh quanh ở kinh đô mà thôi. Mặt khác, truyền thống Mường Xoa tuy được nâng lên thành truyền thống toàn quốc nhưng chưa kịp được hội nhập vào nền văn hoá chung. Văn hoá Ấn - Phật 12
  19. tuy thế, cũng còn xa lạ và chưa gắn kết được với truyền thống dân gian bản địa. Từ thuở Phà Ngừm lập quốc gia Lạn Xạng thế kỷ XIV (1357), các tộc người từ các mường dần quy tụ lại, hướng về Mường Xoa, tức kinh đô Luông Pha Băng. Từ đó, mỗi dân tộc và bộ tộc đã từng bước xây dựng cuộc sống văn hoá riêng của mình, gia nhập vào đại gia đình các bộ tộc Lào: từ cách thức dựng nhà ở (nhà sàn), việc xây dựng các hệ thống mương phai đưa dẫn nước vào đồng ruộng đến những lời ca, điệu múa, tiếng hát, những đám tang, đám cưới, lễ hội truyền thống đều mang những dáng vẻ riêng. Vào giữa thế kỷ XIV, sau khi lên ngôi (1353), Phà Ngừm đứng ra thống nhất các mường cát cứ, chia rẽ trước đây thành quốc gia Lạn Xạng thống nhất để hình thành một nhà nước tập quyền (trên cơ sở một nền nông nghiệp lúa nước cổ truyền) có cơ cấu ruộng rẫy với một hệ thống thuỷ lợi (mương - phai - lái- lịn) mềm dẻo và thích nghi với điều kiện tự nhiên, khác với hệ thống mương phai của Đại Việt (kết hợp với hệ thống đê điều đồ sộ ở miền Bắc và kênh rạch chằng chịt ở miền Nam). Như vậy, sự kiện Phà Ngừm lên ngôi (năm 1353) và lập ra quốc gia Lạn Xạng thống nhất (năm 1357) đã mở ra một thời kỳ mới của lịch sử quốc gia dân tộc và lịch sử văn hoá văn học Lào. Có thể coi đây là một cột mốc quan trọng khi xem xét những chặng đường lớn của văn hoá văn học Lào. Cư dân Lào Thay ngoài thể nghiệm mô hình kinh tế - xã hội lúa nước như nói trên còn tổ chức xã hội hai cấp: bản - mường. Người đứng đầu mỗi bản là “phò bản” (bố bản). Bộ máy quản lý còn đậm dấu ấn “dân chủ công xã” với chế độ già làng. Ruộng đất thuộc về của công do ông “phò bản” là người đại diện (“Đìn ạt nha, na phò bản”: “Đất của quan, ruộng làng của trưởng bản”) (TN Lào). Vì có sự phân quyền trong quản lý đất đai nên hình thành chế độ bóc lột, xã hội phân chia thành đẳng cấp quý tộc và bình dân. 13
  20. Trong mỗi bản gồm nhiều gia đình hạt nhân (từ gia đình lớn mẫu hệ trong công xã thị tộc phân nhỏ thành gia đình nhỏ phụ hệ trong công xã nông thôn). Mỗi bản đều có ma làng (phỉ bản) do thầy mo (thầy cúng) đảm nhiệm. Thầy mo cũng là người nhưng vì được học hành, nắm được phép thuật nên hiểu được tiếng nói của thế giới ma (phỉ). Nhiều bản hợp lại thành một mường, do một người đứng đầu gọi là “chậu mường” (chủ mường) hình thành những cơ cấu quyền lực của nhà nước. Bản nơi ông chủ mường sống người Thái gọi là bản Chiềng (bản lớn nhất mường) được đặt làm trụ sở ở trung tâm của mường để làm chức năng hành chính và văn hoá. Trụ sở này được xây thành bao quanh gọi là viêng. Trong quá trình tích hợp xã hội lớn hơn mường, người ta vẫn dùng từ mường để chỉ các vương quốc, thậm chí một quốc gia như mường Lào, mường Thái với cấu trúc ba cấp: bản, mường, mường luổng (mường lớn). Người đứng đầu mường lớn được gọi là chậu xi vít (vua) dựa trên quan hệ huyết thống đã lập bộ máy trung ương tập quyền cai quản từ trên xuống dưới. 1.1.2. Mối quan hệ lịch sử - xã hội Việt Nam - Lào Theo Nguyễn Hào Hùng [127, tr.97], quan hệ Việt Nam - Lào đã có từ thời cổ trung đại. Nhưng mối quan hệ này được phản ánh trong các văn bản là rất muộn so với sự thật lịch sử. Cho đến ngày nay, cư dân sống hai bên dãy Trường Sơn còn lưu truyền truyền thuyết Quả bầu mẹ xa xưa về nguồn cội của mình. Trời làm nạn hồng thuỷ khủng khiếp, từ trong quả bầu có hàng loạt người chui ra. Những ai sang phía Đông thì trở thành người Việt, sang phía Tây trở thành người Miến, xuống phía Nam thành người Khơme, còn ở lại đó là người Thái, người Lào, người Khạ (Lào Thơng). 14
nguon tai.lieu . vn