Xem mẫu
- Đề cương ôn thi TN môn CHÍNH TRỊ
PHẦN THỨ 1: Những nguyên lý cơ bản của CN
Mác_Lênin.
Vấn đề 1: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vấn
đề vật chất, ý thức. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
1. Vật chất:
• Phạm trù vật chất:
Định nghĩa:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Từ định nghĩa vật chất có thể khẳng định:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với
những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Khi nói vật chất với tư cách là
phạm trù triết học có nghĩa đồng thời không được đồng nhất vật chất với một
hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, tức là
thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người,
dù con người có nhận thức được nó hay không.
Thứ ba, vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. Ý thức của con người là sự
phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Ý nghĩa của định nghĩa:
Một là, với việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính tồn
tại khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm vật
chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là
phạm trù của các khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được sự hạn chế
trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận
thức khoa học cho sự phát triển của triết học và các khoa học khác và là cơ sở lý
luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật vềlịch sử.
Hai là, với việc khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho
con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh” V.I Lênin khẳng định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai,
đồng thời thừa nhận khả năng của con người có thể nhận thức được thực tại
khách quan.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức
tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật
chất.
Vận động của vật chất là tự thân vận động và sự tồn tại của vật chất luôn gắn
liền với vận động.
Vật chất không bao giờ bị tiêu diệt cho nên vận động cũng tồn tại với tính cách
là một phương thức tấc yếu của vật chất.
Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia vận
động thành năm hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động
của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…
- Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân
giải của các chất.
- Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất,
đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa…
- Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa…của đời sống xã hội.
Vận động và đứng im: Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vận động
là tuyệt đối, là vĩnh viễn nhưng điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự đứng
im, cân bằng ; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời
và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại
của vật chất
- Vật chất, không gian và thời gian không tác rời nhau, không có không gian và
thời gian không có vật chất cũng như không thể có sự vật, hiện tượng tồn tại
ngoài không gian và thời gian.
- Không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật
chất đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
- Không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều dài, chiều rộng) còn thời
gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến tương lai).
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, song, những dạng
biểu hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống
nhất với nhau.
Biểu hiện:
- Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật
chất là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
- Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không
-
đượcsinh ra và không bị mất đị.
- Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất
với nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, có nguồn gốc vật chất và chịu sự chi phối của những quy luật khách
quan phổ biến của vật chất.
Nhận thức trên có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ định hướng cho con người
giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho việc tiếp tục
nhận thức tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
2. Ý thức
a. Khái niệm ý thức:
Ý thức là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, hay nói cách khác ý thức
là hình ảnh của thế giới khách được đưa vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi.
• Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của quá trình
tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội
* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thếgiới
khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra
quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
* Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy
nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng
phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngoài ra còn
phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngôn ngữ.
Tóm lại: ý thức ra đời do hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên, đó là kết quả
sự tiến hóa của bộ não và thuộc tínhh phản ánh của nó. Nguồn gốc xã hội của ý
thức là lao động, ngôn ngữ. Sự tiến hóa tự nhiên là tiền đề vật chất không thể
thiếu được của ý thức. Tuy nhiên, điều kiện xã hội giữ vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự ra đời của ý thức.
• Bản chất và kết cấu của ý thức
Bản chất của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của thế
giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung vàhình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được
cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các
- quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng
động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của
ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành
nó thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan
trọng nhất. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ
biểu hiện của các yếu tố khác.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là
cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức
là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần tuý, cũng không
phải có nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản thân
thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất là
nguồn gốc của ý thức.Vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản thân
ý thức tự nó không trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện
thực cần phải có hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người
đều được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan trên cơ sở đó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa
chọn biện pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình. Sức mạnh của ý
thức là biết dựa vào điều kiện vật chất.
c.Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan
để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện
pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những
nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành
động. Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
- sáng tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và
phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa
học...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thực tiễn cuộc sống và trong cách mạng Việt Nam.
( Chưa làm được )
Vấn đề 2: Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật Quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Sự vận
dụng quy luật này trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
• Sản xuất vật chất:
Sản xuất vật chất làquá trính con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn
tại, phát triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là
một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
Bất cứ quá trình sản xuất nào cũng gồm ba yếu tố cơ bản: sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động:
Sức lao động: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có khả năng được vận
dụng, sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất.
Đối tượng lao động: là những tồn tại của giới tự nhiên mà con người tác động
vào chúng trong quá trình lao động.
Tư liệu lao động: là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng trong
quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động.
• Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành
quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của
nó với những đặc điểm riêng. Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương
diện cơ bản của nó là kỹ thuật và kinh tế.
Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được
tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để biến đổi các đối tượng lao
động.
Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được
tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào.
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại
vàphát triển của xã hội
- Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội,
là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của
con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài
người.
Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải có không chỉ có quan hệ với tự
nhiên mà phải có quan hệ với nhau và trên cơ sở những quan hệ xuất này mà
phát sinh các quan hệ khác như: chính trị, đạo đức, phápluật...Vì vậy, trong quá
trình sản xuất vật chất con người không những làm biến đổi tự nhiên, biến đổi
xã hội đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình.
Nhận thức được vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Trên cơ sở đó trong nhận thức là cơ sở giúp cho chúng ta nhận thức
được rằng, mọi hoạt động thực tiễn và nhận thức phải dựa trên nền tảng sản
xuất vật chất.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
• Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất làtoàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản
xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất
làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực thực
tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri
thức...) và các tư liệu sản xuất (gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động)
trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết định.
Lực lượng sản xuất phản ánh quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong
quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội
dung vật chất của quá trình sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất vẫn
chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực. Để quá trình sản sản xuất diễn ra
còn phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất ấy.
• Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất làquan hệ kinh tế giữa người và người trong quá trình sản
xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Những quan hệ
sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Biểu hiện:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá
trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình
sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất
với nhau.
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Khi lực lượng sản xuất biến đổi quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến
đổi theo.
- Lực lượng sản xuất quyết định cả ba mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết
định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức phân phối
sản phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản
xuất luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động tích
cực, thúc đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Sự vận dụng quy luật này trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
( Chưa làm được )
Vấn đề 3: Đặc điểm của quá trình sản xuất giá trị thặng dưtrong xã hội
tư bản chủ nghĩa. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu.
• Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình
sản xuấtra giá trị thặng dư.
a. Đặc điểm của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nhà tư bản bỏ ra một số tiền để mua tư liệu sản xuất, sức lao động, tiến hành
khâu sản xuất. Mục tiêu cuối cùng của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là
giá trị sử dụng, không phải là giá trị đơn giản mà là giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa có các đặc điểm là:
-Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
-Người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
- Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
→ Đó cũng là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong Chủ nghĩa tư bản.
b. Bài toán chi phí sản xuất của nhà tư bản.
- Xem ví dụ trong sách trang 238 và trang 239 giáo trình những nguyên lí cơ bản
của CN Mác – Lênin.
Những kết luận từ việc nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận sau
đây:
Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra ta thấy có hai phần: Giá trị
những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân được bảo toàn và di
chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ. Giá trị do lao động trừu tượng của
công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới. Phần giá trị mới này
lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng
dư.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. (ký hiệu là m).
Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần:
Thời gian lao động cần thiết: là thời gian người công nhân tạo ra một lượng giá
trị ngang với giá trị sức lao động của mình.
Thời gian lao động thặng dư: là phần còn lại của ngày lao động và lao động
trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Ba là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta thấy mâu thuẫn
của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hoá của tiền
thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực
đó.
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư
bản khảbiến
a. Bản chất của tư bản.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó
giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
• Tư bản bất biến:
Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển
vào sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, được gọi là tư bản
bất biến, và ký hiệu là C.
• Tư bản khả biến:
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao
động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về đại
lượng, được gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v.
- → Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để
sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá
trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
a. Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư
bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m' được xác định bằng công thức:
Có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:
b. Khối lượng giá trị thặng dư
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư
bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định bằng công
thức: M = m' x V
trong đó: V là tổng số tư bản khả biến mà nhà tư bản sử dụng.
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì
trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.
4. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch
a. Sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều
kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao
động thặng dư gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.(xem ví dụ trong sách trang 246)
b. Sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời
gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối. (xem ví dụ trong
sách trang 248)
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong
quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng
máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái
lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động.
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
- Ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc
đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất,
hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động,
giảm giá trị của hàng hoá.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn về việc nghiên cứu.
( Chưa làm được )
Vấn đề 4: Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cơ sở khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Liên hệ: Giai cấp
công nhân Việt Nam( sự ra đời, đặc điểm, nội dung sứ mệnh lịch sử).
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và pháttriển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao
động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương
thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
b. Đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề nghiệp),đó là
những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có
tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ
bản để phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời Trung
cổ thay người thợ trong công trường thủ công.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp côngnhân là
những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sảnxuất, làm
thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư.
c.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: Xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa; từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; xoá bỏ áp bức bóc lột; giải phóng mình đồng
thời giải phóng toàn nhân loại.
Đó là nội dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giai cấp là động lực cơ bản phát triển của lịch sử. Để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao
động xung quanh mình, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xoá bỏ xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
- Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
đó chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua
hai giai đoạn:
Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên chính
cách mạng của giai cấp công nhân.
Hai là, sử dụng chính quyền mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp quần
chúng nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
• Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Xét một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Bởi vì:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhấttrong
các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản.Trong nền
sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm
căn bản nhất của nền sản xuất đó.
Thứ hai, xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế
độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể
nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần
chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu
tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân.
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai
cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân gồm:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng, và có tinh thần
cách mạng triệt để nhất.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không gắn với
tư hữu, do vậy họ cũng kiên định trong công cuộc cải tạo xây dựng xã hội chủ
nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu,
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
- Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình
độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc
theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ
luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản
- là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải
đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải phóng
mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có chung một
kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai
cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với
nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân
càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình.
3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp
này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải
thông qua những nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố
chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi
ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công
nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công
nhân.
Trong thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp tư sản đã xuất hiện
ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở rộng nhưng
đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có
lý luận dẫn đường.
Khi Đảng Cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của Đảng làm cho giai cấp
công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con
đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng
giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội, và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi
mặt.
Đảng Cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phải
luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức; phải luôn luôn làm cho Đảng
vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần
chúng nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
b. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân.
- Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu
cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực
lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú
nhất trong giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là
lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
Vai trò của đảng đối với giai cấp công nhân thể hiện ở chỗ:
Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại không thông
qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt động,
làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng
của giai cấp công nhân.
Hai là, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải
có một chính đảng chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến
lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào.
Ba là, với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ
lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc, vì thế không thể
lẫn lộn Đảng với giai cấp.
Liên hệ giai cấp Việt Nam (sự ra đời, đặc điểm, nội dung sứ
mệnh lịch sử).
( Chưa làm được )
PHẦN THỨ 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề 1: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc. Vận dụng trong quá trình giải phóng cách mạng Việt Nam.
1. Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là nhằm đánh đổ ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt cũa mổi giai cấp mà quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những
- mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc,phù hợp với xu thế của mỗi thời
đại cách mạng chống đế quốc.
3. Một số quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc
a.Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có
xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó,
Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm
những nội dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hội
cộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó
là Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
b.Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải
có đảng cách mệnh. Người phân tích: "cách mệnh trước phải làm cho dân giác
ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều
thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung,
muốn tập trung phải có đảng cách mệnh"1
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên
hệ mật thiết với quần chúng.
c. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc .
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người". Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của
nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh
đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ
- đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến)
thì phải đánh đổ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí
Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên
suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt niềm tin ở truyền
thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: "Địch
chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng
nàn yêu nước của nhân dân ta".
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng
lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn.
Đấu tranh ngoại giao Hồ Chí Minh chủ trương: "vừa đánh vừa đàm", "đánh là
chủ yếu, đàm là hỗ trợ".
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.
d.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng:
Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp
vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô
hình chung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở
thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là
mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính
- phụ.
Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-
1924), Người khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa.
e.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
•
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí
Minh cho rằng: "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và
của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền".
- Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình
thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh
cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ
trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng".
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí
quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm
mưu quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt
với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát
triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để
tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện
chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước,
thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh
thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể
tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng
bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và
bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do.
Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân
•
tộ c
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm
chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói:
"Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch
nhất định thua, ta nhất định thắng", "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng
lợi". Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải
chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân.
Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng
chiến... thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau".
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ
vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói,
muốnthắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh.
Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao
tinh thần độc lập tự chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng
thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác".
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân
tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu
quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để kháng chiến thắng lợi.
Vận dụng trong quá trình cách mạng Việt Nam.
( chưa làm được )
Vấn đề 2: Tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh. Ý nghĩa trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
1. Đạo đức là gốc của người cách mạng.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh
trăntrở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy
thoái vềđạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu
dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm.
Vai trò của đạo đức cách mạngcòn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao
thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công
việc, tài năng, vịtrí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai
giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. tha hóa con người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải "là đạo đức, là văn minh".
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có
mối quan hệ mật thiết với nhau.Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang
lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân.Mặt khác, phải thấy trong đức có tài.Tài
càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa
cách mạng đến thắng lợi.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong
thời đại mới
a) Trung với nước, hiếu với dân
Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ một nội dung mới, mang tính cách mạng, đó
là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nước là nước của dân và dân là người chủ của
nước. Vì vậy, "trung với nước, hiếu với dân" là thể hiện trách nhiệm với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất
nước.
• Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích
của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
- - Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
• Nội dung chủ yếu của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức,
vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư,
tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch,
không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn,
đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không
kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà
kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại
cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết
đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây,
Nam,Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì
không thành trời.Thiếu một phương, thì không thành đất.Thiếu một đức, thì
không thành người".
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về
tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền
tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc,
làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá
nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là
giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường riêng, đời
sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó
không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện
để cải thiện đời sống của riêng mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng
của mình.
c) Thương yêu con người
- Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu
tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai
cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng
lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh
luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí
Minh lại là xa lạ.
Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc
mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ
những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con
người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập
của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
d) Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân
và của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc.
Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống
sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định:
bốn phương vô sản đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình
cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả
xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại
thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Nói tới tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải chú ý tới con đường và
phương pháp hình thành đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đặc điểm và quy
luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy một số nguyên tắc cơ
bản xây dựng đạo đức mới sau đây:
a) Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người
quan tâm đặc biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Người để lại nhiều bài viết,
bài nói về đạo đức và quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất
những tư tưởng ấy.
Ngay trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư cách một
người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "nói thì phải làm". Người còn làm
nhiều hơn những điều Người nói, kể cả việc làm mà không nói. Mỗi việc làm,
mỗi hành vicủa Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức sáng ngời. Đây là
một bài học quý giá cho mỗi chúng ta muốn tìm hiểu những tầng sâu bản chất
- của tư tưởng Hồ Chí Minh vềđạo đức thì không chỉ dừng lại ở những bài viết,
bài nói, mà phải khám phá những hành vi đạo đức của Người, nghiên cứu
những bài nói, bài viết của bạn bè quốc tế, những học trò của Người.
b) Xây đi đôi với chống.
Làm cách mạng là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây dựng đạo
đức mới lại càng phải quan tâm điều này.
Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho con
người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải
chú ý tới hoàn cảnh, nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã luôn phát động phong trào
quần chúng rộng rãi và đem lại những hiệu quả thiết thực. Đó là phong trào thi
đua tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu;
cuộc vận động "3 xây, 3 chống": nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản
lý kinh tế - tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
c) Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Tu dưỡng đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc và văn hóa
phương Đông. Hồ Chí Minh đã nói về ưu điểm của Khổng Tử là "vấn đề tu
dưỡng đạo đức cá nhân". Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ,
đoạn tuyệt với conngười cũ để trở thành con người mới không phải là một việc
dễ dàng... Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công".
Đạo đức cách mạng, đạo đức mới khác đạo đức cũ ở chỗ nó gắn với thực tiễn
cách mạng và phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Vì vậy, việc rèn luyện, tu
dưỡng bền bỉsuốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày là một trong
những yêu cầu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hồ Chí Minh viết: "Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong.
Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con
người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, tu dưỡng
đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự
nguyện, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy thì
việc tu dưỡng mới có kết quảtrong mọi môi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa
bàn, mọi hoàn cảnh.
Ý nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
( chưa làm được )
PHẦN THỨ 3: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Vấn đề 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Ý
nguon tai.lieu . vn