Xem mẫu
- Câu 1
1. Khái niệm
- Thuật ngữ “giao lưu và tiếp biến văn hoá” được sử dụng khá rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học xã hội như dân tộc học, xã hội học, văn hoá học.v.v... ở
phương Tây, khái niệm này được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh dùng
Cultural Change (trao đổi văn hoá). Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ
được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen
văn hoá, hỗn dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhi ều ng ười ch ấp
nhận là giao lưu và tiếp biến văn hoá.
- Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát tri ển văn hoá di ễn ra
theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nh ận s ự phát tri ển văn hoá
trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ
phát triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.
- Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nh ập và
học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá
bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự bi ến đ ổi, phát tri ển và
tiến bộ văn hoá.
- Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các n ền văn hoá.
Quá trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để lựa chọn
tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó đ ể làm giàu, phát tri ển văn hoá
dân tộc. Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị xã h ội và tâm
thức dân tộc có vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" đ ể ti ếp nh ận nh ững y ếu t ố
văn hoá của các dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát tri ển mà v ẫn gi ữ đ ược
sắc thái riêng của mình.
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức:
+ Hình thức tự nguyện: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm h ỏi, du
lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.
+ Còn hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm
lược thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đ ối v ới m ột qu ốc
- gia khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này lắm khi không thuần nh ất. Có
khi trong cái vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính c ưỡng b ức. Ho ặc trong quá
trình bị cưỡng bức văn hoá, vẫn có những yếu tố tiếp nhận mang tính tự nguyện.
2. Giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, văn hóa Vi ệt Nam đã có nh ững
cuộc tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa phương Đông và phương Tây bằng
những con đường và hình thức khác nhau. Cùng với sự hình thành các y ếu tố văn
hóa bản địa, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã tr ở thành đ ộng l ực to
lớn cho sự biến đổi, phát triển và làm nên những sắc thái riêng c ủa n ền văn hóa
Việt Nam.
a. Giao lưu và tiếp biến với văn hoá Đông Nam Á
- Quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Đông Nam á của ng ười Vi ệt c ổ,
theo GS Hà Văn Tấn(1), diễn ra qua hai giai đoạn: Giai đoạn th ứ nh ất, tr ước n ền
văn hoá Đông Sơn, và giai đoạn thứ hai là từ văn hoá Đông S ơn (thiên niên k ỷ th ứ I
tr.CN) trở đi đến thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ I tr.CN.
+ Giai đoạn thứ nhất, việc tiếp xúc và giao lưu văn hoá ch ủ y ếu di ễn ra gi ữa
các bộ lạc hay nhóm bộ lạc trong phạm vi đất nước ta. Lúc ấy văn hoá Việt Nam
vẫn mang các đặc trưng Đông Nam Á cả về vật chất cũng như tinh thần.
- Dựa vào cứ liệu của cỏc ngành khoa học xã h ội và nhân văn, khoa h ọc ngày
hôm nay đó xác định được vùng Đông Nam Á có một cơ tầng văn hoá riêng biệt,
phi Hoa, phi Ấn. Vùng Đông Nam Á tiền sử đã sáng tạo nên một n ền văn hoá có
những nét tương đồng:
+ Thứ nhất, đó là một phức thể văn hóa lúa nước với ba y ếu t ố: văn hóa núi,
văn hóa đồng bằng, văn hóa biển, trong đó yếu tố đồng bằng ra đời sau, chiếm diện
tích không lớn nhưng đóng vai trò chủ đạo. Đông Nam Á trong lịch s ử đã từng đ ược
mệnh danh là cái nôi của cây lúa nước và một trong năm trung tâm cây trồng lớn
nhất thế giới. Vì vậy, Đông Nam Á mang những đặc trưng của vùng văn hóa, văn
minh nông nghiệp lúa nước. Cùng với sản xuất lúa nước, trâu bò được thuần hóa và
- dùng làm sức kéo, đặc biệt là trâu. Công cụ dùng trong sản xuất, sinh hoạt, chi ến
đấu, dụng cụ nghi lễ chủ yếu được chế tác bằng đồng và sắt .v.v..
+ Thứ hai: Hoạt động kinh tế chính của Đông Nam Á là s ản xu ất nông
nghiệp. Cư dân thành thạo nghề trông lúa nước và nghề đi biển.
+ Thứ ba: Trong cơ cấu gia đình truyền thống Đông Nam Á, người phụ nữ có
vai trò quyết định trong hoạt động gia đình. Đây cũng là m ột đ ặc đi ểm t ạo nên d ấu
ấn riêng của văn hóa Đông Nam Á so với các quốc gia trong khu vực văn hóa
phương Đông và phương Tây.
+ Thứ tư: Về mặt văn hóa tinh thần, ngay từ buổi đầu cư dân Đông Nam Á
đã hình thành cho mình một diện mạo văn hóa tinh thần khá phong phú và phát tri ển
ở trình độ cao. Điều đó thể hiện ở sự phát triển của tư duy nhận th ức v ề xã h ội và
thế giới, quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp của thế giới .v.v.. Tín
ngưỡng Đông Nam Á buổi đầu là bái vật giáo với việc thờ các th ần: th ần đ ất, th ần
mưa, thần lúa, thờ mặt trời, thờ cây, thờ đá, thờ cá sấu, đặc biệt là tín ngưỡng phồn
thực và thờ cúng tổ tiên.
- Giai đoạn thứ hai, vào thời kỳ Đông Sơn- th ời kỳ k ết tinh tinh th ần dân t ộc,
kết tinh văn hoá. Không chỉ giữa các nền văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và
văn hoá Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp xúc lẫn nhau, mà các nền văn hoá này đã có
trao đổi tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hoá Đông Nam Á. Ch ứng cứ là, ng ười ta tìm
thấy khá nhiều trống đồng Đông Sơn ở Thái Lan, Ma Lai, Inđônêxia, và miền nam
Trung Quốc (thuộc khu vực văn hoá Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa văn,
hình người, hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (Nam Trung Quốc) mang phong cách
Đông Sơn. Rất nhiều rìu đồng đuôi én tìm thấy ở Inđônêxia được s ản xu ất theo
phong cách Đông Sơn (kiểu rìu làng Vạc- Nghệ An). Các đồ đồng này hoặc bằng
con đường buôn bán mà có mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế tạo tại
chỗ theo phong cách Đông Sơn mà họ chịu ảnh hưởng.
- Nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam ngay từ th ời kỳ ti ền s ử
và sơ sử đã mang những sắc thái của văn hóa Đông Nam Á.Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển của lịch sử, giao lưu với văn hóa Trung Hoa, Ấn Đ ộ, nh ững ảnh
hưởng mạnh mẽ của chúng đã khiến cho văn hóa cổ Đông Nam Á bị giải thể về
- mặt cấu trúc. Những yếu tố, những mảnh vụn của chúng trở thành c ơ t ầng sâu văn
hóa Đông Nam Á trong các nền văn hóa của mọi quốc gia trong khu vực và đ ược
bảo lưu như các yếu tố, các giá trị chung tạo nên những nét tương đồng văn hóa.
- Vào thời kỳ sơ sử, người Việt Nam đã tạo dựng cho mình m ột n ền văn hóa
bản địa rực rỡ: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn hoá Đ ồng Nai. Tr ước khi
tiếp xúc và giao lưu với văn hoá Trung Hoa và Ấn Đ ộ, Vi ệt Nam đã hình thành m ột
nền văn hoá bản địa vừa có những nét tương đồng với Đông Nam Á v ừa có cá tính,
bản sắc riêng. Điều này được thể hiện ở một số điểm như sau:
+ Địa bàn cư trú của người Việt đã tương đối ổn định, theo mô hình làng.
+ Phương thức sản xuất chính là nông nghiệp, trồng trọt, có kết hợp với chăn
nuôi và đánh bắt thuỷ hải sản. Trong sản xuất nông nghiệp, n ổi b ật là n ền văn
minh lúa nước, dùng sức kéo là trâu bò.
+ Trình độ luyện kim đồng, sắt, chế tác các dụng cụ lao động, v ật d ụng, các
đồ trang sức…bằng đồng, sắt đạt đến một trình độ điêu luyện và có cá tính văn hoá
Việt.
+ Đã có tiếng nói tương đối ổn định, đó là hệ ngôn ngữ Việt- Mường.
+ Đã có một hệ thống huyền thoại trở thành "mẫu gốc", thành tâm th ức c ộng
đồng trong đời sống tinh thần người Việt. Hệ thống huyền thoại này phản ánh năm
lĩnh vực trụ cột lớn của đời sống cộng đồng dân tộc quan tâm nh ư : ngu ồn g ốc
giống nòi, làm ăn dựng xây đất nước, đánh giặc giữ nước, đời sống tâm linh và tình
yêu lứa đôi của con người. Tất cả, hoặc từng phần những nội dung đó được th ể
hiện trong những huyền thoại rực rỡ như: Lạc Long Quân và Âu C ơ, S ơn Tinh-
Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, An Dương Vương, Chử Đồng Tử và Tiên Dung… Đó là
một tài sản tinh thần to lớn có ý nghĩa tập h ợp sức mạnh đoàn kết, ý th ức t ự c ường
văn hoá của dân tộc Việt Nam trong suốt hành trình lịch sử.
- Một nghìn năm dưới ách đô hộ của các đế chế phương Bắc, văn hóa Đông
Sơn bị giải thể về mặt cấu trúc nhưng văn hóa Việt Nam vẫn phát triển. Nh ững
yếu tố của văn hóa Đông Sơn vẫn được lưu giữ trong các xóm làng. Đây chính là
- sức mạnh để chủ nhân văn hóa Việt Nam đủ bản lĩnh trong giao lưu ti ếp bi ến v ới
văn hóa Trung Hoa mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
b. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa
Giao lưu và tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao
lưu, tiếp biến liên tục qua nhiều thời kỳ của lịch sử. Trung Hoa là m ột trong nh ững
trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền văn hóa lâu đời và phát triển rực rỡ.
- Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông nghiệp xuất phát từ nông nghi ệp
trồng khô (trồng kê và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà.
Do nằm trên ngã ba đường của các luồng giao lưu kinh tế - văn hóa Đông - Tây,
Nam - Bắc trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung
Hoa vừa mang những đặc điểm văn hóa du mục của các cư dân phương Bắc và Tây
Bắc, vừa thâu hóa nhiều tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các
cư dân phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn
liền với lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh ph ạt v ề m ặt quân s ự và
truyền bá văn hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây l ưu vực sông Hoàng Hà
theo hướng từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Cùng với s ự bành trướng v ề
phương Nam của các triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra quá trình Trung
Hoa thâu hóa văn hóa phương Nam, Hán hóa các nền văn hóa phương Nam. V ị trí
địa lý và những diễn biến của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và ti ếp xúc
thường xuyên giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không th ể
phủ nhận ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn.
Vấn đề đặt ra là trong cuộc tiếp xúc không cân sức này, ng ười Vi ệt làm th ế nào đ ể
văn hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát triển, vẫn khẳng định được bản s ắc văn hóa
của mình?
- Quá trình giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa
diễn ra với hai hình thức: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
+ Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I
đến thế kỷ X và từ 1.407 đến 1.427. Suốt thiên niên kỷ th ứ nh ất sau Công nguyên,
các đế chế phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hoá v ề ph ương di ện
- văn hoá nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của Trung Hoa. Từ 1.407
đến 1.427 là giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Trong số các k ẻ thù t ừ
phương Bắc, giặc Minh là kẻ thù tàn bạo nhất đối với văn hóa Đ ại Vi ệt. Minh
Thành tổ ban lệnh cho viên tướng Trương Phụ chỉ huy binh lính vào xâm l ược Vi ệt
Nam: "Binh lính vào Việt Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không
thiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay
sách dạy trẻ nhỏ ... một mảnh, một chữ đều phải đốt h ết. Kh ắp trong n ước, phàm
những bia do người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều gi ữ gìn c ẩn th ận, còn
các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn".
+ Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng th ức th ứ hai c ủa
quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Trước th ời kỳ B ắc thu ộc đã
từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc người Hán với cư dân Bách Việt. Nghiên
cứu lịch sử văn minh Trung Hoa người ta thấy có nhiều yếu tố văn hóa ph ương
Nam đã được người Hán tiếp nhận từ thời cổ đại, nh ững y ếu tố này nh ập sâu vào
văn hóa Hán, được hệ thống hóa, nâng cao "chữ nghĩa hóa" rồi truy ền bá tr ở l ại
phương Nam dưới dáng vẻ mới. Có thể nói, đó là sự giao lưu ti ếp xúc hai chi ều
học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa. Hiện nay đã phát hi ện đ ược tr ống đ ồng và
nhiều đồ đồng Đông Sơn trên đất Trung Hoa, đồng thời cũng phát hiện nhiều vật
phẩm mang dấu ấn Trung Hoa trong các di chỉ khảo cổ học ở Việt Nam. Trong n ền
văn hóa Đông Sơn, người ta đã nhận thấy khá nhiều di v ật c ủa văn hóa ph ương
Bắc nằm cạnh những hiện vật của văn hóa Đông Sơn. Chẳng hạn những đồng tiền
thời Tần Hán, tiền Ngũ thù đời Hán, các dụng cụ sinh hoạt của quý tộc Hán nh ư
gương đồng, ấm đồng .v.v.. Có thể những sản phẩm ấy là kết quả của sự trao đ ổi,
thông thương giữa hai nước.
- Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô ph ỏng
theo mô hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Nhà Lý, nhà Trần về tổ chức chính
trị xã hội lấy cơ chế Nho giáo làm gốc tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật
giáo. Đến nhà Lê đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc.
- Cũng cần nhận thức rõ rằng ngay cả trong giao l ưu c ưỡng b ức, người Vi ệt
luôn có ý thức chống lại sự đồng hóa về phương diện văn hóa, chuy ển th ế b ị đ ộng
- thành thế chủ động bằng cách bản địa hóa văn hóa Hán để tự làm giàu cho b ản thân
mình mà không bị đồng hóa về phương diện văn hóa.
- Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguy ện
giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Trung Hoa đều là nhân t ố cho s ự v ận đ ộng c ủa
văn hóa Việt Nam trong diễn trình lịch sử. Người Việt luôn có ý th ức v ượt lên, thâu
hóa những giá trị văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân t ộc và đã đ ạt
được những thành tựu đáng kể trong giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa.
+ Về văn hóa vật thể: Người Việt tiếp nhận một số kỹ thuật trong s ản xu ất
như: kỹ thuật rèn đúc sắt gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thu ật
dùng phân bón để tăng độ màu mỡ cho đất, kỹ thuật xây c ất n ơi ở b ằng g ạch
ngói. Người Việt còn học hỏi kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng bi ển, bi ết c ải
tiến kỹ thuật làm đồ gốm (gốm tráng men)…
+ Về văn hóa phi vật thể: Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người Trung
Hoa (cả từ vựng và chữ viết), tiếp thu hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại (Nho gia, Đạo
gia) trên tinh thần hỗn dung, hòa hợp với tín ngưỡng bản địa và các h ệ tư t ưởng
khác, mô phỏng hệ thống giáo dục theo tinh thần Nho giáo, ti ếp nh ận một s ố phong
tục lễ Tết, lễ hội .v.v..
c.. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ
Ấn Độ là một trung tâm văn hóa văn minh lớn của khu vực phương Đông và
thế giới. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á và trên nhi ều bình
diện có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình.
Các thương gia, các nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam với mục đích th ương m ại, truy ền
bá, văn hóa, tôn giáo.
- Giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kỳ lịch s ử khác nhau, không gian
văn hóa khác nhau thì nội dung giao lưu cũng khác nhau. Ở thiên niên k ỷ đ ầu Công
nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có ba nền văn hóa: Văn hóa cùng châu th ổ
Bắc bộ, văn hóa Chăm Pa và văn hóa Óc Eo. Ảnh h ưởng c ủa văn hóa Ấn Đ ộ đ ến ba
vùng văn hóa này có khác nhau. Văn hóa Óc Eo ch ịu ảnh h ưởng c ủa văn hóa Ấn Đ ộ
- khá toàn diện. Trên nền tảng cơ tầng văn hóa bản địa, các đ ạo sĩ Bà la môn đ ến t ừ
Ấn Độ đã tổ chức, xây dựng một quốc gia mô phỏng mô hình của Ấn Độ ở tất cả
các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã h ội, đô th ị, giao thông cùng v ới vi ệc truy ền
bá các thành tố văn hóa tinh thần như chữ viết, tôn giáo .v.v..
- Văn hóa Ấn Độ đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành vương
quốc Chăm Pa và một nền văn hóa Chăm Pa phát tri ển r ực r ỡ. Ng ười Chăm đã ti ếp
nhận mô hình văn hóa Ấn Độ từ việc tổ chức nhà nước cho đến việc tạo dựng và
phát triển các thành tố văn hóa. Họ đã rất linh hoạt trong tiếp biến văn hóa Ấn Độ
để tạo dựng nên nền văn hóa Chăm Pa với nh ững sắc thái văn hóa đan xen gi ữa Ấn
Độ, Đông Nam Á và văn hóa bản địa Chăm đặc sắc. Đi ều này th ể hi ện trên các lĩnh
vực, đặc biệt là chữ viết, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.
- Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ của người Việt ở vùng châu th ổ
Bắc bộ lại diễn ra trong đặc điểm hoàn cảnh lịch sử riêng. Trước khi tiếp xúc v ới
văn hóa Ấn Độ, văn hóa của người Việt đã định hình và phát triển. Dưới th ời B ắc
thuộc, người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ vừa trực tiếp qua các thương gia, các
nhà sư từ Ấn Độ sang và vừa gián tiếp qua Trung Hoa. Những th ế k ỷ đầu Công
nguyên, người Việt tiếp nhận văn hóa Ấn Độ trong hoàn cảnh đặc biệt: nước mất
và phải đối mặt với văn hóa Hán. Bởi vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Đ ộ ch ỉ di ễn
ra trong tầng lớp dân chúng nhưng lại có sức phát triển lớn. Vùng châu th ổ B ắc B ộ
trở thành địa bàn trung chuyển văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo. Giao Châu trở
thành trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á. Người Việt ti ếp nh ận Ph ật giáo m ột
cách dung dị bởi đạo Phật ở một số nội dung giáo lý phù hợp với tín ngưỡng bản
địa Việt Nam.
***Nghiên cứu giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ
cần chú ý những đặc điểm sau:
+ Người Việt đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và đặc biệt là đạo Ph ật trên tinh
thần cơ bản là hỗn dung tôn giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với
tín ngưỡng bản địa của dân tộc và đã chung sống với chúng. T ừ tín ng ưỡng th ờ các
hiện tượng tự nhiên, thờ nữ thần nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực của văn hóa
- bản địa, người Việt đã thâu thái những yếu tố của đạo Phật và tạo nên một dòng
Phật giáo dân gian thờ Tứ Pháp hết sức đặc sắc .v.v..
+ Phật giáo Ấn Độ đến Giao Châu không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà
còn là một hiện tượng văn hóa. Cùng với đạo Phật, một tổng th ể văn hóa Ấn Đ ộ
ảnh hưởng đến Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên như: ngôn ngữ, âm nhạc, vũ
đạo, nghệ thuật .v.v..Cũng hình thành ở Việt Nam những công trình văn hóa, nghệ
thuật có giá trị: hệ thống chùa, tháp .v.v..
+ Tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở thời kỳ Bắc thuộc có thể xem là một đ ối tr ọng
với ảnh hưởng của văn hóa Hán, thể hiện tinh thần chống đồng hóa văn hoá c ủa
người Việt.
d. Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây
Giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đặc biệt ở nửa sau của th ế k ỷ XIX
đã tạo bước chuyển có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển của văn hóa Việt
Nam.
- Giao lưu với văn hóa phương Tây đã từng diễn ra rất s ớm trong l ịch s ử.
Nghiên cứu văn hóa khảo cổ, người ta thấy trong văn hóa Óc Eo có nhiều di vật của
các cư dân La Mã cổ đại, chứng tỏ đã có những quan h ệ th ương m ại qu ốc t ế r ộng
rãi. Thế kỷ XVI, các linh mục phương Tây đã vào truyền giáo ở vùng Hải Hậu (nay
thuộc tỉnh Nam Định) và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng nh ư các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phương Tây. Tuy
nhiên, giao lưu văn hóa toàn diện thực sự diễn ra khi Pháp xâm lược Việt Nam.
- Về phía người Pháp, sau khi đã lập được ách đô h ộ ở Việt Nam, h ọ rất có ý
thức dùng văn hóa như một công cụ để cai trị. Víi tinh th ần yêu nước và lòng tự
trọng dân tộc, thái độ trước hết của người Việt Nam là chống trả quy ết li ệt c ả v ề
phương diện chính trị và văn hóa. Có thể thấy thái độ ấy ở các nhà nho yêu n ước ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Công Định, Nguy ễn
Trung Trực... Trong hoàn cảnh mất nước, người Việt có ý thức chống lại văn hóa
mà đội quân xâm lược định áp đặt cho họ: thái độ không h ọc ti ếng Tây, không m ặc
đồ Tây, không dùng hàng Tây... Tuy nhiên, bằng thái độ mềm dẻo, cởi mở, dần dần
- họ đã tiếp nhận những giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc, sử dụng
chúng trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
- Trong lịch sử mấy ngàn năm, các cuộc giao lưu và tiếp biến với các nền văn
hóa trong khu vực chỉ làm đổi thay về phương diện yếu tố của văn hóa Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử, quá trình tiếp xúc toàn diện với văn hóa ph ương Tây giai
đoạn 1858 - 1945 đã khiến người Việt cấu trúc lại nền văn hóa của mình, đi vào
vòng quay của văn minh công nghiệp phương Tây. Diện mạo văn hóa Vi ệt Nam
thay đổi trên các phương diện: Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết
dùng trong nội bộ một tôn giáo được dùng như chữ viết của một nền văn hóa. Th ứ
hai là sự xuất hiện của các phương tiện văn hóa như nhà in, máy in ở Việt Nam
...Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản. Thứ tư là sự xuất hiện của một
loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới như tiểu thuy ết, th ơ m ới, đi ện ảnh, k ịch
nói, hội họa ...
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, mềm dẻo, qua mỗi chặng đường th ử
thách, văn hóa dân tộc lại trưởng thành và phát triển lên một bước mới. Cuộc hội
nhập lần thứ nhất, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Hán đã làm giàu cho văn
hóa Việt Nam, khiến cho dân tộc đủ mạnh, tạo cơ sở cho sự phát tri ển trong k ỷ
nguyên Đại Việt. Hội nhập lần thứ hai, tiếp biến với văn hóa phương Tây đã góp
phần hiện đại hóa văn hóa dân tộc trên mọi phương diện.
e. Giao lưu và tiếp biến trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập l ần th ứ ba, h ướng t ới m ục
tiêu xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
- Những thuận lợi
+ Chúng ta có một quốc gia độc lập thống nh ất và toàn v ẹn lãnh th ổ, t ừ M ục
Nam Quan đến mũi Cà Mau. GLTBVH trong thời đại ngày nay là hoàn toàn tự
nguyện.
+ Cả dân tộc là một khối thống nhất với một nền văn hoá đa dạng phong
phú
- + Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những b ước phát tri ển đáng k ể
trên tất cả các mặt, kinh tế, chính trị, khoa học, giáo dục, công nghệ.
+ Trình độ học vấn, nhận thức về văn hoá và vai trò của văn hoá của tất cả
các cấp lãnh đạo cũng như người dân được nâng cao, ý thức về quốc gia, lòng tự
hào dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ, người dân được thoả s ức sáng t ạo và h ưởng
thụ những giá trị văn hoá vật chất, tinh thần ở mọi khía cạnh.
+ Vị thế của đất nước được nâng cao, bình đẳng với tất cả các qu ốc gia trên
thế giới
+ Nghị quyết trung ương 5 khoá VIII đã xác định rõ: Văn hoá vừa là nền tảng,
vừa là động lực phát triển xã hội.
+ Đảng ta chủ trương mở cửa giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Đối với
lĩnh vực văn hóa vừa tiếp thu, học hỏi những tinh hoa văn hoá thế giới dưới mọi
hình thức, vừa kiên quyết chống văn hoá độc hại. Đồng thời ra sức gìn gữ và phát
huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Những khó khăn
+ Việc tiếp thu những giá trị văn hoá tiên tiến của thế gi ới v ới m ục đích:
Đưa nước ta ngày càng phát triển, nhất là hạ tầng cơ s ở vật ch ất và khoa h ọc công
nghệ, song một vấn đề lớn đặt ra và ngày càng trở lên gay gắt là sự mâu thuẫn giữa
bảo tồn và phát triển.
+ Tiếp thu khoa học công nghệ cũng đồng nghĩa với việc tiếp thu lối s ống,
tác phong công nghiệp => nếp nghĩ, lối sống, đến cả không gian thôn dã c ủa m ột
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước đang bị mất dần.
+ Một hệ tư tưởng đạo đức không phù hợp với thuần phong m ỹ t ục, v ới các
giá trị đạo đức nhân văn truyền thống đang từng ngày thâm nh ập vào đ ời s ống văn
hoá của nhân dân ta.
+ Môt bộ phận dân chúng, nhất là thanh thiếu niên đang chạy theo l ối sống
hưởng thụ, trong quan hệ ứng xử phai nhạt nghĩa tình, tất cả đều nhuốm màu
thương mại, tiếp thu văn hoá ngoại lai một cách thái quá, phủ nhận các giá trị
truyền thống.
- + Một số cấp lãnh đạo quản lý cũng còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò
của văn hoá đối với đời sống xã hội
+ Hoàn cảnh lịch sử => giao lưu tiếp biến VH thay đổi trên nhi ều ph ương
diện:
+ Giao lưu TBVH trong thời đại tin học, kinh tế tri thức=> GLTBVH tr ở lên
đa dang và phức tạp cả về nội dung, loại hình lẫn phương thức
+ Các thế lực thù địch, phản động quốc tế không ngừng tìm cách ch ống phá
chúng ta về mọi mặt thông qua con đường giao lưu tiếp biến văn hoá, nhằm từng
bước chuyển hoá về tư tưởng ý thức hệ, đạo đức lối sống của nhân dân ta.
Câu 2:
. Môi trường tự nhiên tác động đến văn hoá Việt Nam
Có 3 đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam đã tác động và ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nền văn hoá dân tộc:
- Nước ta nằm ở vị trí địa lý là trung tâm điểm của các trục đ ường giao l ưu
quốc tế. Các nước từ phương Bắc muốn tiến xuống phương Nam, các n ước từ
phương Tây sang phương Đông, và ngược lại, đều đi qua Vi ệt Nam hoặc l ấy Vi ệt
Nam làm một vị trí trung chuyển đều rất thuận lợi. Trước đây, nhiều triều đại
phong kiến Trung Hoa đã tiến đánh xâm chiếm Việt Nam, và t ừ Vi ệt Nam th ực
hiện ý đồ mở rộng về phía Nam và Đông Nam á. Từ cuối thế kỷ XVI một s ố nhà
buôn phương Tây đã đi theo đường biển vào Việt Nam để buôn bán, và từ Vi ệt
Nam, mở rộng buôn bán với các nước khác trong khu vực. Sau này th ực dân Pháp và
đế quốc Mỹ đã xâm lược nước ta cũng thực hiện mưu đồ làm chủ Đông Nam Á...
Việt Nam đã trở thành vị trí có ý nghĩa chiến lược trên bản đồ thế giới. Điều này
tạo thuận lợi cho nước ta có ưu thế giao lưu văn hoá, th ương m ại, du l ịch... Nh ưng
nó cũng cắt nghĩa một điều là tại sao Việt Nam trong suốt hàng ch ục th ế k ỷ l ại
hứng chịu những cơn bão táp ngoại xâm liên tục và khốc liệt đến vậy.
- Nước ta có một hệ sinh thái phồn tạp, nghiêng về phía thực vật, th ực v ật
ưu trội hơn động vật. Cũng chính vì thế, ngành kinh tế trồng trọt, nông nghi ệp
- mạnh hơn chăn nuôi. Điều này ảnh hưởng tới việc hình thành và phát tri ển c ủa văn
hoá Việt Nam rất đậm với những biểu hiện cơ bản sau:
+ Việt Nam có một nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà đỉnh cao là trồng
cây lúa nước. Từ đây nó quy định mô hình bữa ăn đi ển hình c ủa ng ười Vi ệt là c ơm
- rau - cá. Hai trong ba thức ăn đó là thực vật. Cây lúa liên quan rất m ật thi ết đ ến
văn hoá ẩm thực (các sản phẩm vô cùng đa dạng làm ra từ h ạt gạo, rượu nấu t ừ
gạo...). Cây lúa, hạt gạo trở thành biểu tượng tinh thần trong tâm thức Việt...
+ Chúng ta có cả một tín ngưỡng thờ cây. Có hai th ứ cây quan tr ọng nh ất
được người Việt biến thành cây thiêng liêng: Cây lúa và cây cau. Xôi, bánh ch ưng
bánh dầy để thờ cúng, cau cũng trở thành đồ thờ cúng, dẫn cưới... Người dân Bắc
bộ có câu: “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Tết Nguyên Đán dân ta có t ục
hái lộc xuân... Đặc biệt, ngày Tết mùng Năm tháng Năm được coi là ngày kết tinh
tín ngưỡng thờ cây của người Việt. Vào ngày này, người dân ăn rượu nếp cái, ăn
các thứ hoa quả để “giết sâu bọ”, gọi cây bói quả, hái “lá mùng Năm”...
+ Cảm quan của con người đối với thiên nhiên đặc biệt gắn bó với cây cối,
hoa cỏ. Người Việt hay ví con người với hoa cỏ, lấy hoa cỏ làm th ước đo đ ể đo v ẻ
đẹp con người. Ca dao hay ví người phụ nữ với chẽn lúa đòng đòng, củ ấu gai, cây
quế giữa rừng, hoa ngâu, hoa sen...
- Nước ta có một hệ thống sông ngòi, kênh rạch ch ằng ch ịt kh ắp B ắc, Trung,
Nam. Riêng Nam Bộ chẳng hạn, theo GS. Lê Bá Th ảo đã có 5.700 km đường kênh
rạch. Thêm nữa, lại có trên 3.000 km chiều dài bờ biển. Đặc điểm sông nước đã để
lại dấu ấn rất đậm lên diện mạo văn hoá Việt Nam. D ưới đây là m ột vài bi ểu
hiện:
+ Thành phần thứ ba trong cơ cấu bữa ăn điển hình của người Vi ệt là cá, các
loài thuỷ hải sản khác, và các chế phẩm của chúng, tiêu biểu là nước mắm.
+ Hình thức cộng cư của người Việt hoặc chọn vị trí gần sông theo ki ểu
“Nhất cận thị, nhì cận giang”, hoặc quần tụ trên sông thành các “v ạn chài”. Ng ười
Nam Bộ còn có nghề “Thương hồ”- người buôn bán trên sông nước; hình th ức ch ợ
nổi trên sông...
- + Cư dân Bắc và Trung bộ phải thường xuyên đối mặt v ới n ạn lũ l ụt. Ngay
từ thời xa xưa, công cuộc chinh phục lũ lụt đã đi vào huy ền tho ại “S ơn Tinh Thu ỷ
Tinh”. Chưa bao giờ các triều đại và người dân Việt Nam dám coi nh ẹ vi ệc đ ắp đê
chống lụt. Công cuộc đắp đê trị thuỷ là một kỳ tích vĩ đại của người Việt.
+ Tín ngưỡng thờ sông nước: Thần sông thần suối, “Đất có thổ công, sông có
Hà Bá”. Nhân dân miền duyên hải còn thờ “cá Ông” như m ột con v ật thiêng phù tr ợ
cho cuộc sống của những người làm nghề đánh cá...
+ Từ đặc điểm sông nước này mà nhà học giả Cao Xuân Huy nói tới “tính
thuỷ” trong tính cách người Việt, rộng ra là trong văn hoá Việt.
Ngoài 3 đặc điểm chính trên, có nhà nghiên cứu còn nhắc đến đặc đi ểm đ ịa
hình của nước ta rất đa dạng bao gồm cả miền núi, đồng bằng và bi ển c ả, gi ữa
chúng có vùng trung chuyển. Đặc điểm này khiến cảm thụ về thiên nhiên của
người Việt khá phong phú. Trong các địa hình đó không thể không nhắc đến hang
động vùng rừng núi và cảng vịnh dưới biển. Hệ thống hang động Việt Nam kỳ vĩ,
phong phú trải dài từ Bắc vào Nam, trong đó Phong Nha (Qu ảng Bình) đã tr ở thành
Di sản thiên nhiên thế giới. Người Việt đến với hang động không ch ỉ đ ể th ưởng
thức mà con thiêng liêng hoá chúng, biến thành nơi cầu nguy ện, đáp ứng nhu c ầu
tâm linh. Các cảng vịnh cũng dồi dào, đa dạng, trải dài từ Móng Cái đến Hà Tiên.
Vịnh Hạ Long và Nha Trang đã mang đẳng cấp quốc tế. Hang động và cảng vịnh
thực sự là những món quà vô giá của tạo hoá ban t ặng cho n ước Vi ệt chúng ta.
Cũng cần lưu ý, nhìn trên tổng thể thì như vậy, nh ưng đi vào mỗi vùng mi ền T ổ
quốc lại thấy có những điều kiện tự nhiên cụ thể khác nhau, do đó diện mạo văn
hoá ở mỗi vùng cũng có những nét độc đáo khác biệt. Đến lượt người nghiên cứu
văn hoá, trên mẫu số chung đó, phải chỉ ra được những nét độc đáo khác nhau của
mỗi vùng văn hoá.
Câu 5
Nho giáo Trung Quốc ảnh hưởng đến gia đình Việt Nam, tạo cho gia đình
.
Việt Nam mang tính chất phụ quyền, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Nhưng nhiều
khi ảnh hưởng của Nho giáo đến gia đình truyền thống của người Việt ch ỉ mang
tính hình thức mà nhiều người đã dùng hình ảnh “vỏ Tàu lõi Việt” để so sánh.
- Điều đó được thể hiện rõ nét qua vai trò, vị trí của người ph ụ nữ trong gia
đình người Việt (khác với vị trí, vai trò người phụ nữ trong gia đình Trung Qu ốc:
người vợ, người mẹ thường không có quyền và không hưởng một chút quyền lợi
nào cả).
Ví dụ: Luật Hồng Đức và Luật Gia Long là hai bộ luật ch ịu ảnh h ưởng
đáng kể của luật Trung Hoa, ra đời vào thời kỳ Nho giáo được xem là Quốc giáo.
Nhưng những nội dung của 2 luật này cũng có những sáng tạo thu ộc Vi ệt Nam.
Luật của Trung Quốc đề cao quan hệ cha – con; Luật Việt Nam đ ề cao quan h ệ v ợ
chồng, trọng phụ nữ.
~ Luật Hồng Đức:
Về kinh tế: Bảo đảm con gái được hưởng quyền thừa kế tài sản bình đẳng
như con trai.
Về tâm linh: Con gái, cháu gái có quyền hương khói cho cha m ẹ trong tr ường
hợp nhà không có con trai. Nếu con trai trưởng còn nhỏ, bà qu ả ph ụ có quy ền thay
con tế tự tổ tiên.
Trong hôn nhân: Người phụ nữ có quyền từ hôn nếu vị hôn phu chẳng may bị
ác tật, phạm tội hoặc phá sản; có quyền bỏ chồng nếu trong 5 tháng ch ồng b ỏ rơi
vợ, không đi lại.
~ Luật Gia Long: Cho phép đàn ông có 7 cớ để bỏ vợ (th ất xuất theo luân lý
Trung Quốc): Không con; Dâm dật; Không thờ cha mẹ chồng; Lắm điều; Trộm
cắp; Ghen tuông; Có ác tật.
Nhưng lại đặt ra 3 điều không được đuổi vợ (tam bất khả xuất): Đàn bà
từng để tang ở nhà chồng 3 năm; Khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; N ếu sau khi b ị
đuổi không còn nơi nương tựa.
Người phụ nữ là nơi hội tụ của tất cả những phẩm ch ất tốt đẹp, là linh h ồn
của cả gia đình.
- Vai trò, vị trí người phụ nữ trong gia đình người Việt được thể hiện:
* Về quan hệ với các thành viên trong gia đình
- - Với chồng:
+ Là vợ, là bạn, là tri âm tri kỷ, là người nâng khăn sửa túi.
+ Có mặt trong mọi lúc buồn vui của chồng, trong mọi lúc thành công hay
thất bại. “Đằng sau mọi thành công của đàn ông bao giờ cũng có bóng dáng của
người phụ nữ”…
+ Hi sinh hết lòng vì chồng, ngay cả từ những điều nhỏ nhất. Không ch ỉ
gắn bó với chồng bằng tình mà còn gắn bó với nhau bằng nghĩa.
Ví dụ: Bữa ăn trong gia đình, người phụ nữ bao giờ cũng ngồi ở đầu n ồi,
hạnh phúc của họ là được chăm chút cho ch ồng con, được nhìn th ấy ch ồng con
khỏe mạnh, hạnh phúc. Vì chàng thiếp phải ăn mâm – Như thiếp ăn đứng ăn nằm
cũng nên…
Văn hóa Việt Nam và tư duy người Việt đặc biệt đề cao sự đồng thuận c ủa
tình nghĩa vợ chồng trong quan hệ hai giới nam – nữ: Thuận vợ thuận chồng tát bể
đông cũng cạn; Râu tôm nấu với ruột bầu – Chồng chan vợ húp gật đầu khen
ngon…
- Với con:
+ Yêu thương, lo lắng và chăm sóc cho con từ khi con còn trong bụng mẹ
đến khi con sinh ra, khôn lớn, trưởng thành.
+ Là chỗ dựa bình yên và vững chắc nhất của con ng ười: “ trên thế giới có
nhiều kỳ quan nhưng kỳ quan đẹp nhất là tấm lòng người mẹ”…
+ Vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành tính cách và nhân cách
cho con, trao cho con những giá trị văn hóa từ đời này sang đ ời khác. => ng ười Vi ệt
đúc kết: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang; Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà…
Liên hệ mở rộng: Ngày nay, vi trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình vẫn
được đề cao, coi trọng. Người phụ nữ vẫn được xem là người giữ lửa trong gia đình,
- vẫn là người giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì cuộc sống hạnh phúc gia đình.
Tuy nhiên, cũng có một số luồng ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này: nhiều
người phụ nữ đòi hỏi được giải phóng mình, không muốn bị rằng buộc bởi những lời
ngợi ca, bởi sự tôn vinh trách nhiệm. Họ muốn được sống thoải mái là chính mình,
muốn thoát khỏi những công việc nội trợ hàng ngày, giảm bớt thời gian chăm sóc
chồng con để phấn đấu có vị trí trong xã hội …
* Về kinh tế, lao động sản xuất:
- Trong lao động sản xuất, người phụ nữ là bạn của đàn ông, cùng bình đ ẳng
như đàn ông: Trên đồng cạn dưới đồng sâu – Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa…
- Những công việc mà người phụ nữ đảm nhiệm cũng vất vả, nặng nh ọc và
quan trọng không kém đàn ông: đàn ông cày bừa, ph ụ nữ gieo m ạ, c ấy lúa; đàn ông
săn bắt, hái lượm, đàn bà gieo trồng, dệt vải, quay tơ…
- Trong gia đình, người phụ nữ giữ vai trò là người quản lý kinh t ế, là ng ười
giữ tay hòm chìa khóa: tính toán từng khoản chi tiêu cho h ợp lý với thu nh ập kinh t ế
của gia đình; dành dụm, chắt bóp đề phòng những lúc khó khăn và còn tích lũy để lo
và để dành cho con cháu: đàn ông như cái giỏ, đàn bà như cái hom; Một trăm chìa
khóa em đeo – Việc giang san em gánh, sự đói nghèo mặc em…
* Về tín ngưỡng, tâm linh:
- Mặc dù không trực tiếp thực hiện các công việc giao tế với th ần linh, với
trời đất, tổ tiên… Nhưng mọi cỗ bàn, hương hoa, cỗ mặn, cỗ chay dâng lên bàn th ờ
tổ tiên đều có bàn tay chuẩn bị chu đáo của người phụ nữ.
Luật Hồng Đức còn quy định: con gái, cháu gái có quy ền h ương khói cha m ẹ
trong trường hợp nhà không có con trai. Nếu con trai trưởng còn nhỏ, bà quả phụ có
quyền thay con tế tự tổ tiên.
Câu 6.
Làng được định nghĩa trên 3 khía cạnh chủ yếu, đó là:
- + Dân cư: Làng đơn vị sinh sống, làm việc, sinh hoạt văn hóa c ủa ch ủ y ếu nh ững
người làm nghề nông nghiệp.
+ Vùng lãnh thổ: Làng có một vùng đất chung, có ranh giới rõ ràng.
+ Tổ chức xã hội: Làng có chung một tổ chức xã hội nhất định.
Làng là một đơn vị cộng cư của chủ yếu những người làm ngh ề nông
nghiệp, có một vùng đất chung xác định và có chung m ột t ổ chức xã h ội nông
nghiệp.
Giải thích:
+ Làng là đơn vị cộng cư: Đơn vị cùng chung sống, cùng làm vi ệc, cùng sinh
hoạt văn hóa của một cộng đồng dân cư. Vì thực tế ở làng ngoài bộ ph ận chính
những người làm nghề nông nghiệp, còn có một bộ phận dân cư sinh sống bằng
các nghề khác nữa như: làm gốm, làm mộc, làm nề, làm dệt, làm lụa, làm chiếu…
+ Vùng đất chung xác định, bao gồm: đất cư trú để người dân sinh sống; đất
trồng trọt, thâm canh, người ta có chung sở hữu về tài nguyên thiên nhiên nh ư:
nguồn nước, ruộng đồng, sông ngòi, đê điều, bãi cỏ…
+ Làng có chung một tổ chức xã hội nông nghiệp vì cư dân sống chủ yếu ở
làng là cư dân nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu ở làng là nền kinh t ế nông nghi ệp.
Và tổ chức xã hội nông nghiệp ấy phải thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia
đình, với dòng họ.
Khái niệm này chủ yếu gắn với làng quê truy ền th ống ở B ắc B ộ và B ắc
Trung Bộ, với khoảng thời gian hình thành hàng nghìn năm; còn ở Nam B ộ ch ưa
hẳn đã vậy.
+ Làng được hình thành, tổ chức dựa vào hai nguyên lý cơ bản:
- Nguyên lý cùng huyết thống:
- Nguyên lý cùng nơi chốn
Người trong làng đều có họ, đều có quan h ệ máu m ủ, huy ết th ống v ới nhau.
Nguyên lý cùng huyết thống này xuất hiện chủ y ếu ở thời công xã th ị t ộc. Lúc đ ầu
- làng là nơi ở của 1 họ, về sau có nhiều dòng h ọ cùng cư trú, trong đó th ường có 2-3
dòng họ lớn. Có nhiều làng là nơi ở của một họ mà cho đến nay người ta v ẫn còn
tìm thấy dấu vết qua hệ thống các tên gọi của làng như: Làng Đặng Xá, Ngô Xá,
Nguyễn Xá, Lê Xá… Vì thế dân gian có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Khi công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện, các thành viên trong
làng còn gắn bó với nhau bằng quan hệ sản xuất để đ ối phó với môi tr ường t ự
nhiên, môi trường xã hội. Vì thế, bên cạnh câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã
còn có câu Bán anh em xa mua láng giềng gần. Hai câu tục ngữ, hai cách ứng xử
tưởng như mâu thuẫn nhưng thực chất lại là một cách kết hợp độc đáo cùa làng
Việt Nam.
Cơ cấu dân cư và tổ chức hành chính
- Kỳ mục (Hội đồng kỳ mục. Miền Nam gọi là Hội tề): Gồm Tiên chỉ,
Thứ chỉ… có trách nhiệm bàn bạc tập thể và quy ết định các công vi ệc c ủa làng xã.
(cơ quan lập pháp).
- Kỳ dịch (Lý dịch): Gồm Lý trưởng, xã trưởng, Hương trưởng, Trương
tuần, Cai lệ... Do Hội đồng kỳ mục cử ra, trực ti ếp thi hành các quy ết đ ịnh c ủa Kỳ
mục, trực tiếp tổ chức, quản lý đời sống của dân làng. (cơ quan hành pháp).
- Cộng đồng dân cư: Chiếm số lượng đông đảo nhất, góp phần tạo nên
diện mạo văn hoá của mỗi làng. Gồm có: Dân chính cư (dân gốc ở làng); Dân ng ụ
cư (dân từ nơi khác đến trú ngụ).
Mối quan hệ giữa dân chính cư và dân ngụ cư: Dân ngụ cư luôn bị cái nhìn
định kiến của dân chính cư, bị xem thường, nghi ngờ về nhân cách. Họ bị đối xử
bất công: Phải sống ở rìa làng, phải làm tất cả các nghĩa vụ v ới làng nh ưng không
được hưởng quyền lợi gì; muốn trở thành dân chính cư h ọ ph ải tho ả mãn các đi ều
kiện: phải cư trú ở làng từ ba đời trở lên, phải có một ít điền s ản, ph ải nộp l ệ phí
và khao làng.
Việc phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư cũng tạo nên đ ặc đi ểm c ủa Làng
Việt và tính cách người Việt truyền thống: thích suốt đời gắn bó với quê cha đất tổ,
sợ rơi vào thân phận dân ngụ cư tạo nên tính chất khép kín, hạn chế sự phát triển
- của làng xã; tạo nên tư tưởng bản vị, địa phương chủ nghĩa, tẩy chay người khác
đến, tư tưởng “ma cũ bắt nạt ma mới”…
- Ngoài các tổ chức hành chính do Kỳ mục, Kỳ dịch điều hành, làng xã Việt
Nam xưa còn có các tổ chức ẩn tàng, do dân lập ra như: Giáp, Phường, Hội. Giáp:
Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới, chỉ có đàn ông tham gia. Ph ường:
Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp. Hội: Liên kết những người cùng thú vui,
đẳng cấp, sở thích. Những tổ chức này, nếu hoạt động đúng sẽ có lợi cho người
dân. Nhưng cũng có nhiều trường hợp gây phiền hà cho dân cư, tạo nên nạn cường
hào ác bá ở thôn quê.
Chức năng của làng
Làng gồm nhiều chức năng. Ở đây, tập trung làm rõ hai chức năng
+ Sản xuất nông nghiệp
- Lãng xã Việt Nam chủ yếu sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước mang tính
chất tự cấp, tự túc, trình độ sản xuất thấp, nâng suất bấp bênh, phụ thu ộc nhi ều
vào thiên nhiên, thời tiết.
- Chính vì sản xuất nông nghiệp là ch ủ y ếu, trong đó cây lúa là ch ủ đ ạo, cho
nên vấn đề ruộng đất là vấn đề quan trọng nhất, là đặc trưng c ủa n ền kinh t ế nông
nghiệp làng xã. Mâu thuẫn cơ bản ở làng xã là mâu thuẫn v ề ru ộng đ ất. Vì th ế,
chức năng kinh tế của làng được thể hiện rõ nét qua vi ệc phân chia ru ộng đ ất theo
định kỳ và theo lệ làng. Làng đứng ra phân chia ruộng đất theo định kỳ và theo l ệ
làng.
+ Quản lý đất đai
Cách quản lý và phân chia đất của làng xã rất đa dạng, làng nào qu ản lý đ ất
của làng đó. Trước khi phân chia ruộng đất, làng thường dành một phần đất công
để dùng vào việc công cộng. Số đất còn lại được phân chia theo nhiều loại người
khác nhau (gồm 3 hạng: nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng) để người dân cày c ấy,
hưởng hoa lợi và nộp thuế. Đất ở làng cũng gồm nhiều loại khác nhau (nh ư:
Thượng đẳng điền, Trung đẳng điền, Hạ đẳng điền). Việc phân chia đất ph ải di ễn
ra đồng đều, tốt – xấu cùng san sẻ.
nguon tai.lieu . vn