Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BỌ MÔN NGÔN NGỮ ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH MÃ HỌC PHẦN: VIU 121N Thái Nguyên, năm 2018
  2. Chương 1 RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VỀ CHÍNH ÂM, CHÍNH TẢ, DÙNG TỪ, ĐẶT CÂU 1.1. Rèn kĩ năng về chính âm, chính tả 1.1.1. Rèn kĩ năng về chính âm 1.1.1.1. Một số quan điểm về chính âm tiếng Việt Hiểu theo nghĩa hẹp, chính âm là cách phát âm phù hợp với chuẩn phát âm đã được thừa nhận trong một ngôn ngữ, là hệ thống các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ đó. Theo quan điểm của Nguyễn Lân (Tạp chí Văn Sử Địa - số 19, năm 1956): Tiếng Việt phải lấy thanh điệu vùng đồng bằng Bắc Bộ làm chuẩn. Hệ thống phụ âm cuối lấy vùng đồng bằng Bắc Bộ làm chuẩn. Trong hệ thống âm đầu, ba phụ âm quặt lưỡi phải phát âm giống Trung Bộ, đồng thời phải giữ sự phân biệt giữa d và gi theo cách phát âm của Hà Tĩnh và Quảng Bình. Hồng Giao trong bài viết Vài ý kiến về tiếng Việt hiện thời (1957) chủ trương lấy âm Hà Nội làm cơ sở và hoàn toàn theo hệ thống này. Cụ thể là không phân biệt ba phụ âm quặt lưỡi với các phụ âm không quặt lưỡi tương ứng. Như vậy, theo Hồng Giao, hệ thống âm đầu của tiếng Việt chỉ có 15 âm vị. Hoàng Tuệ trong Giáo trình Việt ngữ, tập 1 cho rằng riêng về mặt ngữ âm tiếng Việt ở Hà Nội chưa có giá trị cơ sở. Hệ thống ngữ âm của tiếng Việt phải có đủ ba âm uốn lưỡi chứ không như Hà Nội chưa có ba âm này. Ông cũng thống nhất với Nguyễn Lân ở quan điểm là cần có sự khu biệt giữa d và gi. Theo ông, tiếng Việt phải lấy vùng Vinh làm chuẩn khi phát âm. Hoàng Phê (1961) trong báo cáo của mình về vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ đã đề nghị nên lấy âm Hà Nội làm cơ sở, bổ sung thêm ba phụ âm quặt lưỡi, bỏ sự phân biệt giữa d và gi trong phát âm. Các tác giả Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung và Nguyễn Nguyên Trứ (1972) cũng cùng một quan niệm với Hoàng Phê khi cho rằng hệ thống ngữ âm tiêu chuẩn của tiếng Việt hiện đại là hệ thống ngữ âm đã được cố định trên chữ viết với một sự điều chỉnh thích đáng cho phù hợp với thực tế phát triển của tiếng Việt ngày nay. Nhìn chung, các ý kiến thảo luận về hệ thống âm chuẩn của tiếng Việt hiện đại ở các tác giả khác nhau cũng có phần khác nhau. Nhưng, điểm gặp nhau trong quan niệm của các tác 1
  3. giả là ở chỗ: thống nhất lấy phương ngữ Bắc làm phương ngữ cơ sở, trong đó lấy thổ âm của người Hà Nội làm chuẩn nhưng được bổ sung bằng ưu điểm của các vùng phương ngữ khác. Cụ thể là: - Hệ thống thanh điệu gồm sáu thanh như trong thổ âm Hà Nội. - Hệ thống phụ âm đầu được bổ sung thêm ba phụ âm quặt lưỡi có ở phương ngữ Trung và coi sự phân biệt d/ gi chỉ có ở trên chữ viết chứ không phân biệt về thành phần âm vị, nghĩa là trong hệ thống âm đầu tiếng Việt có hai con chữ d/ gi nhưng hai con chữ này chỉ dùng để ghi một âm vị /z/. - Hệ thống vần giống như giống như trên chữ viết. Ở đây, có một điều quan trọng cần lưu ý là: chính âm trong tiếng Việt với nội dung cơ bản như đã nói ở trên đã được nhân dân trên toàn quốc thừa nhận, nhưng nó lại không tồn tại trong thực tế (mà chỉ tồn tại trong ý thức, trong đầu óc của đa số người nói tiếng Việt). Bên cạnh đó, trong giới nghiên cứu tiếng Việt lại tồn tại quan niệm cho rằng “không cần thống nhất giọng nói”, cần phải tôn trọng màu sắc địa phương trong giọng nói. Vì vậy, cần có một quan niệm uyển chuyển và thực tế về vấn đề chính âm trong tiếng Việt, về hệ thống ngữ âm chuẩn trong tiếng Việt. Trong nhà trường, vấn đề chính âm ngoài tính chất khoa học, chính trị còn có tính chất nghiệp vụ. Hiện nay, hiện tượng phạm lỗi chính tả trong nhà trường và ngoài xã hội khá phổ biến. Vì vậy, các kiến thức về ngữ âm có liên quan đến chính tả, trước hết là vấn đề chính âm rất quan trọng. Nếu không nắm vững chính âm thì dễ viết sai chính tả, vì ảnh hưởng của lỗi phát âm địa phương. Những yêu cầu cụ thể của vấn đề chính âm là: - Phát âm đúng (cả âm lẫn thanh). - Chú ý phân biệt các dấu hỏi, ngã, nặng. - Chú ý phân biệt các cặp phụ âm đầu: tr/ ch, s/ x, l/ n, v/ d; các cặp phụ âm cuối n/t, ng/ c... - Chú ý phân biệt các vần: âu/ iu, ây/ ay, iêu/ ươu, iu/ ưu... 1.1.1.2. Các bài tập luyện kĩ năng chính âm a. Luyện phát âm đúng các phụ âm đầu * Luyện phát âm các phụ âm đầu d, gi, r - da dẻ, da diết, dành dụm, dan díu, dào dạt - gia ân, gia đình, gian khó, gian nan, giàn giụa, giản dị 2
  4. - ra bộ, ra oai, ra rìa, rả rích, rã rượi, rõ ràng, rì rầm - dao rựa, giẻ rách, gieo rắc, ranh giới, rau dưa, ruột già, rước dâu * Luyện phát âm các phụ âm đầu ch, tr - cha con, chai lọ, chai sạn, chán chê, chán nản, chanh chua, chao chát, chân thực, chóng vánh, chung thủy - tra cứu, kiểm tra, tra tấn, trao đổi, tranh chấp, trân trọng, trìu mến, trừu tượng - trau chuốt, trôi chảy, trốn chạy, trực chiến, trượt chân, truân chuyên, trúc chẻ ngói tan * Luyện phát âm các phụ âm đầu b, v (dành cho SV dân tộc Mường) - ba bề bốn bên, bạc bẽo, bận rộn, biện bạch, bóng bảy, bung bét - va chạm, và cơm, vạc dầu, viện cớ, vung vãi, vướng víu - ba hồn bảy vía, bán vặt, bao vây, bấu víu, bước nhảy vọt, bênh vực, báo cáo viên * Luyện phát âm các phụ âm đầu l, n - la hét, la liếm, lai lịch, la cà, lai rai, luyên thuyên, lóng ngóng, lủng lẳng, lao xao, luẩn quẩn - cây na, này nọ, nơi ở, nơi nơi, nóng nảy, nôn nao, núng nính, nức nở - láng nền, leo núi, lên nước, nai lưng, nản lòng, năng lực, nén lòng, niêm luật, nín lặng, nỗi lòng * Luyện phát âm các phụ âm đầu l, r (dành cho SV dân tộc Tày) - lê la, lã chã, lạng lách, lan man, loạng choạng, lung tung - ra vào, rã rời, rơi rụng, rung rinh, run rẩy, rộng ràng - ra lệnh, rắn lục, rên la, rét lộc, rộng lớn, rủ lòng thương, rượu lậu b. Luyện phát âm đúng các tiếng có nguyên âm đôi iê (yê, ia, ya), ươ (ưa), uô (ua) * Luyện phát âm phân biệt iê với i và ê bia miệng, da diết, điền viên, mái hiên, hiền triết, liên miên, luyên thuyên, khuyết điểm, nghiên cứu, chuyên quyền * Luyện phát âm phân biệt uô với u và ô lá bùa, con cua, cái cuốc, bó đuốc, vào hùa, khua chiêng, gió lùa, mua bán, mong muốn, suôn sẻ, xua đuổi, tuổi tác, vuông tròn * Luyện phát âm phân biệt ươ với ư và ơ bừa bãi, bươn chải, ương bướng, cưa kéo, cương thường, hạt cườm, chườm đá, hứa hẹn, lườm nguýt, đo lường, mưa phùn, mương máng, nương nhờ, phố phường, bừa phứa, vướng víu, xướng danh c. Luyện phát âm các tiếng có vần khó trong từ, cụm từ chếnh choáng, choang choác, đểnh đoảng, đùng đoàng, khuỷu tay, khúc khuỷu, khứu giác, chim khướu, kì diệu, rượu chè, lưu danh muôn thuở, lưu cữu, ngoắt ngoéo, ngoằn ngoèo, quềnh quàng, quều quào, quờ quạng, trìu mến, trừu tượng 3
  5. d. Luyện phát âm đúng các thanh điệu - ca cẩm, dóng dả, lã chã, hàng mã, thắm thiết, ngúng nguẩy, sáng sủa - cằn nhằn, cạu nhạu, liếm láp, lãi lờ, điềm đạm, đẹp đẽ, nặng nề, rùng rợn 1.1.2. Rèn luyện kĩ năng về chính tả 1.1.2.1. Khái niệm "chính tả" Chính tả là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ; cách dùng các dấu câu, lối viết hoa. [Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, tr.47] Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm học. Về nguyên tắc chung, giữa cách đọc (phát âm) và cách viết (viết chính tả) phải thống nhất với nhau. Song trên thực tế, sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc và viết khá phong phú, đa dạng. Cụ thể, chính tả tiếng Việt không dựa hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của một phương ngữ nhất định nào. Cách phát âm thực tế của một phương ngữ đều có những sai lệch so với chính âm cho nên không thể thực hiện phương châm “nghe như thế nào, viết như thế ấy” được. Ví dụ không thể viết là bo vang, Ba Vi... như cách phát âm của phương ngữ vùng Sơn Tây; suy nghỉ, sạch sẻ... ở vùng Thanh Hóa; bắc bẻ, Buông Mê Thuộc... trong phương ngữ Nam Bộ. Đây chính là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng viết sai chính tả của người sử dụng tiếng Việt. Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả có thống nhất thì giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới không bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước cũng như giữa các thế hệ với nhau. Vì vậy, việc rèn luyện viết đúng chính tả là một việc làm hết sức có ý nghĩa không chỉ với học sinh, sinh viên - những người còn đang đi học - mà còn có ý nghĩa với tất cả mọi người. 1.1.2.2. Quy tắc viết hoa và quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài Viết hoa, viết phiên âm tiếng nước ngoài không phải vấn đề lớn nhưng khá phức tạp. Đáng tiếc là kể từ khi Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD & ĐT) công bố “Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” (11/1980) cho đến nay, ở nước ta, vẫn chưa có một văn bản pháp quy nào quy định về chuẩn chính tả nói chung và quy tắc viết hoa, viết phiên âm tiếng nước ngoài nói riêng. Vì vậy, văn bản quy định về chính tả do Bộ GD & ĐT ban hành từ năm 1980 vẫn được xem là cơ sở quan trọng để thống nhất chính tả trong cả nước. [Tham khảo tài liệu học tập bắt buộc [1] tr.238 - 241, phần Phụ lục] a. Quy tắc viết hoa Về cơ bản, viết hoa có hai loại: viết hoa theo quy tắc ngữ pháp và viết hoa tu từ. Viết hoa theo quy tắc ngữ pháp Theo quy tắc ngữ pháp, trước hết các chữ cái đứng đầu câu, đầu tên chương, bài, mục... đều phải viết hoa. Mỗi khi xuống dòng, chữ cái đứng đầu dòng cũng cần được viết hoa. 4
  6. Ví dụ: Một con lạc đà thò đầu vào cái lu bằng sành, nó bị mắc cứng, không thể nào rút đầu ra được. Mọi người lo lắng, hỏi một vị trưởng lão, được ông bày cách: - Lấy dao chém đầu con lạc đà là xong ngay. Người chủ con lạc đà làm theo lời bậc cao niên dày kinh nghiệm. Đầu con lạc đà lìa khỏi cổ nhưng vẫn mắc trong lu. Cuối cùng người ta đành phải đập chiếc lu để lấy đầu lạc đà. Lạc đà chết và chiếc lu cũng vỡ tan. (Truyện ngụ ngôn Ấn Độ) Cũng theo quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, các tên riêng đều phải viết hoa. Cụ thể: - Đối với tên người, tên địa lí Việt Nam: chữ cái đứng đầu mỗi âm tiết được viết hoa. Ví dụ: Việt Nam, Hà Nội, Triệu Thị Trinh, Trần Hưng Đạo, Tố Như, Đội Cấn... - Đối với tên người, tên địa lí nước ngoài: chữ cái đứng đầu mỗi bộ phận của tên được viết hoa và giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận có dấu gạch nối. Ví dụ: I - u - ri Ga - ga - rin, Vla - đi - mia I - lich Lê - nin, Ê - vơ - ret, Béc - lin, Xanh Pê - téc - bua... Những tên người, tên địa lí Việt Nam phiên âm từ tiếng dân tộc thiểu số có các bộ phận cấu thành gồm nhiều âm tiết thì cũng viết hoa theo nguyên tắc trên. Ví dụ: Ê - đê, Ba - na, Y - rơ - pao... - Đối với tên các cơ quan, đơn vị, tổ chức: chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và các âm tiết biểu thị tính chất riêng biệt của tên được viết hoa. Ví dụ: Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... Lưu ý: Các từ chỉ phương hướng (đông, tây, nam, bắc) chỉ viết hoa khi dùng trong tên riêng địa lí. Ví dụ: bờ biển phía nam của khu vực Đông Nam Á, miền tây của Tây Đức... Ngoài ra, còn có quy định viết hoa cho các trường hợp khác như: tên các năm âm lịch, tên các tiết và tết, từ chỉ số trong những đơn vị là tên gọi các sự kiện lịch sử, tên gọi một số thời kì lịch sử, tên các ngành, lớp, bộ, họ, giống (chi) trong phân loại sinh vật học, các niên đại địa chất, tên gọi các tôn giáo, giáo phái, tên chức vụ,... Ví dụ: năm Quý Tị, tiết Lập thu, tết Nguyên Đán, thời kì Phục Hưng, họ Dâu tằm, chi Tôm he, kỉ Phấn trắng, đạo Thiên chúa,... Viết hoa theo quy tắc tu từ Viết hoa theo quy tắc tu từ để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt đối với người hay sự vật nhất định hoặc nhằm thể hiện một dụng ý nghệ thuật nào đó của tác giả. Ví dụ: Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường Nhớ Người những sớm tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo 5
  7. Người đi rừng núi trông theo bóng người. (Việt Bắc - Tố Hữu) Hoặc tên gọi các phần thưởng, danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Nhà giáo Nhân dân,… b. Quy tắc phiên âm tiếng nước ngoài Trong các văn bản khoa học, chúng ta thường gặp các tên riêng nước ngoài và các thuật ngữ quốc tế. Có ba cách để xử lí các từ ngữ này tùy thuộc vào các loại hình văn bản mà chúng xuất hiện. Cụ thể: - Cách viết nguyên dạng được dùng trong các sách báo, tạp chí chuyên môn, trong các tiểu luận, luận văn, luận án. Ví dụ: John Lyons, Z. S. Harris, cognitive linguistics... - Cách chuyển tự (chuyển từ các chữ cái tiếng nước ngoài thành chữ cái tiếng Việt) cũng được dùng trong các văn bản chuyên môn. Khi chuyển tự, ta viết liền cả từ, không có gạch nối giữa các âm tiết và cũng không đánh dấu thanh. Ví dụ: aspirin, lipit, gluco... - Cách phiên âm được dùng trong sách báo phổ cập. Khi phiên âm, cần viết rời từng âm tiết, giữa các âm tiết trong cùng một bộ phận có gạch nối, các âm tiết không đánh dấu thanh. Ví dụ: Na - pô - lê - ông Bô - na - pac, Vla - đi - mia I - lich Lê – nin, ... 1.1.2.3. Các lỗi thông thường về chính tả a. Các lỗi do vi phạm các quy định trong hệ thống chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm vị. Về nguyên tắc, một âm vị được thể hiện bằng một hình thức chữ viết và ngược lại, một hình thức chữ viết là sự thể hiện của một âm vị. Trên thực tế, chữ Quốc ngữ không đảm bảo được nguyên tắc này. Chỗ hạn chế đó được khắc phục bằng các quy định bổ sung. Nếu viết không đúng theo những quy định này là mắc lỗi chính tả. Ví dụ: viết kung, kàng kua, gi, nge dảng, muô, cươ... [Tìm hiểu thêm quy định thể hiện trên chữ viết của âm /k/ (c, k, q), /ŋ/(ng, ngh), /ɣ/ (g, gh), /z/ (d, g, gi), /-u-/ (u, o), /-u/ (u, o), /ie/ (iê, yê, ia, ya), /uo/ (uô, ua), /ɯɤ/ (ươ, ưa), /i/ (i, y)...] Ngoài ra, người dùng sẽ mắc lỗi chính tả nếu đánh dấu thanh sai vị trí trong âm tiết. Ví dụ: ý kíên, quỷên sách, mựơn... Tất cả các dấu thanh đều phải đánh đúng chữ cái ghi âm chính (ở trên hoặc dưới). Ví dụ: toàn, toán, toản, toãn, toạn... Khi âm chính là nguyên âm đôi thì dấu thanh đánh ở chữ cái thứ nhất nếu âm tiết không có âm cuối. Ví dụ: mía, lúa, nữa... Nếu có âm cuối thì dấu thanh đánh ở chữ cái thứ hai. Ví dụ: muốn, hưởng, luyện, ... b. Các lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương Tiếng địa phương trong tiếng Việt có sự phát âm không đúng với chuẩn mực âm thanh ở các vị trí: âm đầu, âm cuối, thanh điệu và có thể ở cả âm đệm, âm chính. Tình hình đó dẫn đến chỗ trong thực tế thường xảy ra lỗi chính tả ở các vị trí tương ứng trong âm tiết. Sau đây là những lỗi phổ biến cùng với những cơ sở và biện pháp rèn luyện, sửa chữa. 6
  8. Lỗi về âm đầu Người vùng Bắc Bộ thường mắc lỗi viết sai âm đầu do phát âm lẫn lộn các cặp âm đầu sau đây: * N và L Để sửa lỗi và rèn luyện viết đúng những âm đầu này, có thể căn cứ vào một số quy tắc sau: - L đứng trước âm đệm còn N thì không (trừ noãn): loa, loan, loét, luật, lụy, ... - Trong các từ láy vần, chỉ có L đứng ở âm đầu của tiếng thứ nhất còn N thì không: lò dò, liên miên, linh tinh, loắt choắt, long đong, lụng thụng... - Cũng trong các từ láy vần, nếu xét tiếng thứ hai, thì N chỉ có thể xuất hiện khi âm đầu của tiếng thứ nhất là GI hoặc tiếng thứ nhất không có âm đầu: gieo neo, gian nan, áy náy, ảo não... Ngược lại L xuất hiện với nhiều âm đầu khác của tiếng thứ nhất: bảng lảng, cheo leo, khéo léo... - Những từ có từ đồng nghĩa bắt đầu bằng NH thì viết âm đầu là L: nhỡ - lỡ, nhầm - lầm, nhố nhăng - lố lăng, nhem nhuốc - lem luốc, nhanh - lanh... [Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.249 - 251] * TR và CH Căn cứ để rèn luyện và sửa chữa là: - Trong từ láy vần, trừ vài từ viết là TR (trót lọt, trọc lóc, trụi lủi...), còn lại đầu viết là CH phối hợp với các âm đầu khác: CH - B (chơi bời, chành bành...), CH - L (cheo leo, chói lói...), L - CH (lau chau, lã chã...), CH - M (chếch mếch, chểnh mảng...), CH - R (chộn rộn, chàng ràng...), CH - V (choáng váng, chênh vênh, chờn vờn, chạy vạy...). - Các từ Hán Việt mang dấu nặng hoặc dấu huyền đều viết với TR: trịnh trọng, giá trị, truyền thống, trường hợp, phong trào, trừng trị... - Về nghĩa, các từ chỉ người trong gia đình viết là CH: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng... Các từ chỉ đồ dùng trong nhà cũng thường viết với CH: chổi, chum, chén, chiếu, chăn, chảo, chậu, chai, chày... (trừ tráp) - Các từ đồng nghĩa với GI thì đều bắt đầu bằng TR: tranh - gianh, trai - giai, trăng - giăng, tro - gio, trời - giời, trả - giả... [Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.251 - 253] * S và X - Trong từ láy vần, chỉ có âm đầu X, không có âm đầu S: lòa xòa, loăn xoăn, liêu xiêu, lao xao, xích mích, xo ro...(ngoại lệ: cục súc, sáng láng, lụp sụp (cũng viết lụp xụp)) 7
  9. - Đi với các vần oa, oă, oe, uê là âm đầu X, chứ không phải là S: xuề xòa, xoen xoét, xoay xở, xoắn xuýt... (ngoại lệ: soát trong kiểm soát, soạn trong soạn bài, soán trong soán đoạt, suýt soát, sột soạt, sờ soạng) - Tên các thức ăn và đồ dùng nấu nướng thường viết với X: xôi, xáo, xúc xích, lạp xường, phở xào, cái xanh, xiên nướng... [Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.253 - 255] * R, D và GI - Chỉ có D mới đi trước các vần có âm đệm (oa, oă, uâ, uê, uy) còn R và GI thì không: dọa, doanh, duyên, duệ, doãn, duyệt, duy... (ngoại lệ: dây cu - roa) - Các âm Hán Việt không viết với R, âm nào mang thanh ngã hoặc nặng thì viết với D (duyệt, dũng, duệ...), âm nào mang thanh hỏi hoặc sắc thì viết với GI (giáo, giảo, giả...) - Từ tượng thanh, tượng hình bắt đầu bằng R: rào rào, rì rầm, run rẩy, róc rách, ra rả, réo rắt, rủng rỉnh... - Có những cặp từ đồng nghĩa có các âm đầu phối hợp thành cặp L - R: lấp - rấp, lỗ - rỗ, lắp - ráp... hoặc cặp S - R: siết - riết, sáng - rạng, sắp - rắp... [Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.255 - 256] Lỗi về vần * ƯU và IU Vần ƯU chỉ có ở một số từ (bưu điện, lưu trữ, lưu trú, hưu trí, lựu đạn, cứu, cừu, cửu, sưu, tửu, tựu...) còn lại là vần IU. * ƯƠU và IÊU Vần ƯƠU chỉ có ở một vài từ (rượu, hươu, ốc bươu, con khướu, bướu cổ, bươu đầu) còn lại là vần IÊU. * ƯƠI và ƯI Vần ƯI chỉ có ở vài từ (chửi, gửi, ngửi, khung cửi) còn lại là vần ƯƠI. * UÔI và UI - Trong các từ láy âm không có vần UÔI, chỉ có vần UI. Vì vậy, khi viết các từ này đều phải viết với vần UI: lầm lũi, nhẵn nhụi, đen đủi, ngậm ngùi, hắt hủi... - Những từ đơn mang vần UI thường có nghĩa như sau: + Chỉ hành động hướng xuống dưới: chui, cúi, dụi, chúi... + Chỉ hành động đẩy tới: ủi, dũi, xui, xúi, chũi, dùi... + Chỉ hành động rút lui: lủi, lùi, lui, lụi, vùi... Lỗi về thanh điệu Một số vùng địa phương không phát âm đủ sáu thanh của tiếng Việt mà lẫn lộn một số thanh với nhau, tiêu biểu là lẫn thanh ngã và thanh hỏi. 8
  10. Việc rèn luyện viết đúng và sửa chữa lỗi khi viết hai thanh này có thể dựa vào hai quy tắc sau đây: - Ở các từ láy âm, thanh của hai tiếng phải cùng nhóm: nhóm bổng (hỏi, sắc, không) hoặc nhóm trầm (huyền, ngã, nặng). Vì vậy, khi một tiếng trong từ láy âm đã rõ ràng mang thanh sắc hoặc thanh không thì tiếng kia cần viết với thanh hỏi. Ví dụ: sắc sảo, ngớ ngẩn, ngổ ngáo, xỏ xiên, vất vả, đen đủi,... Còn khi một tiếng trong từ láy âm đã rõ ràng mang thanh huyền hoặc thanh nặng thì tiếng kia cần viết với thanh ngã. Ví dụ: đẹp đẽ, mạnh mẽ, buồn bã, nhãn nhã, lặng lẽ, tầm tã, trễ tràng, dỗ dành,... Một số ngoại lệ: ngoan ngoãn, khe khẽ, lam lũ,... - Trong các từ Hán Việt, các tiếng bắt đầu bằng một trong các phụ âm M, N, NH, V, L, D, NG (cách nhớ: MÌNH NÊN NHỚ VIẾT LÀ DẤU NGÃ) đều mang dấu ngã chứ không mang dấu hỏi. Ví dụ: mĩ lệ, mãn nguyện, nỗ lực, thanh nhã, vĩnh viễn, lữ thứ, dũng cảm, bản ngã, ngưỡng mộ... [Tham khảo thêm tài liệu học tập bắt buộc [1], tr.244 - 247] Lỗi do biến thể tùy tiện Hiện nay, trong nhà trường phổ thông xuất hiện hiện tượng ngôn ngữ bị các em biến thể một cách tùy tiện, không có căn cứ nào cả. Trong quá trình viết, các em dần biến đổi và quy ước với nhau. Thói quen này dẫn đến tình trạng viết sai chính tả đến mức trầm trọng. Ví dụ: Chữ Biến thể Muốn ➔ Mún I (vui) ➔ J (vuj) Nh (nhưng) ➔ Nk (nkưng) Iêu (nhiều) ➔ Iu (nhìu) B (bó tay) ➔ P (pó tay) BÀI TẬP 1. Hãy viết hoa theo đúng quy tắc những từ cần thiết trong đoạn văn sau: Đầu thế kỉ XX, đứng trước trào lưu âu hóa và những biến động về mọi mặt của đất nước do sự giao lưu với phương tây mang lại, phong trào chấn hưng phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ các đô thị miền nam, với vai trò quan trọng của các nhà sư khánh hòa và thiện chiếu. vào những năm 30, các hội phật giáo ở nam kì, trung kì và bắc kì lần lượt ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng. các cuộc tranh luận về tư tưởng phật giáo đã diễn ra trên báo chí hết sức sôi nổi. 2. Hãy giải thích những trường hợp viết hoa được dùng trong đoạn thơ sau: 9
  11. Vui sao một sang tháng Năm Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ. Suối dài xanh mướt nương ngô Bốn phương lồng lộng Thủ đô gió ngàn. Bác kêu con đến bên bàn Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ. (Tố Hữu) 3. Chữa lại những trường hợp viết hoa không đúng: - Lê hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn văn Huyên, Lê Thánh tông, Quang Trung, Hưng đạo vương. - Các mác, Ăng – Ghen, Giu – li – út Phu – xích - Hà Nội, Đà nẵng, Hải Phòng, Nha trang, Cần thơ, An Giang - Mạc – Tư – Khoa, Bắc Kinh, Plây – Cu, In Đô Nê Xi A 4. Chuyển các từ viết nguyên dạng (trong ngoặc đơn) thành dạng phiên âm: Ông đến các tỉnh ven biển, tìm hiểu các vị thuốc đặc biệt của miền biển như: cá ngựa (hippocampus), rau câu (glacilaria), ô tặc cốt (sepiaescalenta) ở Hòn Gai, trân châu (pteiridae) ở Quảng Ninh. 5. Hãy giải thích vì sao các trường hợp dưới đây lại viết ng/ngh: - ngô, ngày, người, nga, ngân, ngủ, ngáy, ngon, ngoan, ngừng, ngượng, nguội, nguyên, nguyện, ngông, ngờ, ngất, ngậm, ngấm. - nghệ, nghề, nghèo, nghênh, nghỉ, nghĩ, nghiêm, nghĩa, nghi, nghiên, nghìn, nghịt, nghĩa quân, nghị định, nghỉ tay. - nghiệt ngã, nghiện ngập, nghịch ngợm, nghiêm ngặt, nghênh ngang, nghi ngờ, ngốc nghếch, nghề ngỗng, nghi ngút, nghẹn ngào. 6. Hãy giải thích vì sao các yếu tố dưới đây lại viết g/gh: - nhà ga, con gà, gạ gẫm, gả bán, gan góc, gác lửng, gạch hoa, gánh vác, gây gổ, gấp gáp, gần gũi, gầy còm, gây chuyện, gẫy gọn. - dì ghẻ, ghe thuyền, ghen ghét, ghi chép, ghìm nén, ghi âm, ghế tựa, lắp ghép, ghì chặt, trêu ghẹo. 10
  12. 7. Hãy giải thích vì sao các trường hợp dưới đây lại viết c/k/q: - ca hát, cái ca, con cò, chim cút, cách biệt, cách mạng, can đảm, cọ xát, cãi lộn, cạn chén, cạm bẫy, cao kiến, cung cấp. - kè nhè, kem que, kèm nhèm, kém cạnh, kèo nhèo, kẽo kẹt, kế thừa, kềnh càng, kếch xù, kết thúc, kêu nài, kêu van. - qua lại, quả tang, quá bán, quá chừng, quái ác, quái vật, quan hệ, quán triệt, quản lí, quảng cáo, quạnh quẽ, quắc thước. 8. Phát hiện và sửa lỗi chính tả trong đoạn văn sau: Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát chiển. Nông nghiệp đã đạt được những thành tịu lớn ở cả ba phương diện: diện tích, lăng xuất và xản lượng. Nhiều dống lúa mới được nai tạo, hơn nữa còn có phong chào chuyển dịch dống cây trồng. Chăn nuôi cũng có nhiều dống mới cho lăng xuất cao và chất nượng tốt. 9. Điền l hoặc n vào những chỗ trống: Tôi ...àm nghề chở đò đã ...ăm ...ăm ...ay. Nhà tôi ...à chiếc thuyền gỗ ...ênh đênh trên mặt ...nước. Tôi ...ắm vững ...ơi ...ào ...ước chảy xiết, ...ơi ...ào có đá. ...úc đêm đến, trong khi con thuyền ...ướt nhẹ trên dòng sông phẳng ...ặng, tôi nhìn chỗ ...ày cây ...ưa thưa, chỗ ...ọ ...óc nhà ...ổi ...ên ...ối tiếp nhau cũng đoán biết được thuyền đã đến ...ơi ...ào. 10. Chữa lại những chữ viết sai s/x trong các từ ngữ dưới đây: sé rách tờ giấy tóc sõa trước trán nâng cao năng xuất xợi dây sích đẩy mạnh suất khẩu nói xen vào dư luận xôn xao quanh quẩn só nhà xa cơ lỡ vận ăn gió nằm xương thật là xáng dạ con chim xáo ngã xấp mặt xóng to gió lớn sức khỏe xuy xụp 11. Điền d, gi hay r vào chỗ trống: (1) Cha tôi ...ao ...u rộng. (2) ...iễn ...ả nói rất hay. (3) ...áo ...ục chúng ta kết hợp học với hành. (4) Thầy ...áo nói năng ...ản ...ị. (5) Văn học ...ân ...an có nhiều tác phẩm xuất sắc. (6) Phải chú ý tới ...anh ...ự của mình. (7) người nào cũng rét …un cầm cập. (8)Không 11
  13. nên ...ao ...ịch với người xấu. (9) Nó hay nói lai ...ai. (10) Công việc đang ...ang ...ở. (11) lò ...ò như cò chết đói. (12) …út …ây động rừng. 12. Chữa những chữ sai trong các câu sau đây: (1) Nó cứ hay rấu riếm tôi. (2) Không biết run rủi thế nào tôi lại gặp anh ta. (3) Câu chuyện thật là giùng giợn. (4) Mặt nó dạng dỡ hẳn lên. (5) Nước chảy dóc dách. (6) Phải nói năng dành dọt, dõ dàng. (7) Chiếc thắng xuân qua thật là ròn rã. (8) Đừng có rại rột nghe theo những lời đồn nhảm. (9) Nó cứ ru rú ở nhà không đi đâu cả. (10) Sức khỏe phải rẻo rai, tinh thần phải giắn giỏi. 13. Chữa lại những chữ viết sai tr/ch trong các từ ngữ dưới đây: chài lưới chanh chấp chống trải chà chộn chiến tranh trong tróng trung thủy chấn giữ chân thật trù trừ con chai trách cứ trẻ chung trạnh lòng trung cuộc trinh phu trung thủy chinh nữ trà đạp chưng dụng 14. Với mỗi vần sau đây, hãy tìm 10 từ có vần đó: uyên, uyêt, ươc, ươt, oăn, oăt, ươi, ươu, oac, oat. Hãy đọc các từ tìm được. 15. Điền vần thích hợp vào chỗ trống: gà kêu quang q…. đau q… bụng dốt đ… cán mai cành lá xum x… băn kh… lo lắng làm lụng quần q… chạy loăng q… lam lũ q… năm t… đất, t… vàng ướt lướt th… kh… trương thanh thế không chịu q… gối con đường khúc kh… chớp loằng ng… thắt lưng b… bụng mặt mũi lem l… 12
  14. chạy cuống c… say lướt kh… no ph… bụng r… chè be bét 1.2. Rèn luyện kĩ năng dùng từ 1.2.1. Khái quát về từ tiếng Việt 1.2.1.1. Khái niệm Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng vận dụng độc lập để tạo câu. Ví dụ: sách, bút, nói, khóc, xinh, bẩn... Chú ý phân biệt từ với hình vị: Hình vị (tiếng) có thể trùng với từ (ví dụ trên) nhưng cũng có thể không trùng với từ (hỏa, thủy, sơn...) Không ai nói cho xin ít hỏa, tưới thủy cho rau hay đi leo sơn đi 1.2.1.2. Một số đặc điểm của từ tiếng Việt a. Tính không biến hình Từ tiếng Việt không biến hình biểu hiện ở chỗ khi hoạt động với các chức năng cú pháp khác nhau ở trong câu, từ tiếng Việt không thay đổi hình thức. Ví dụ: Tôi uống trà. (BN) Trà này ngon. (CN) b. Đặc điểm về cấu tạo Xét về mặt cấu tạo: từ tiếng Việt được chia thành: - Từ đơn: tức những từ gồm 1 tiếng: ăn, học, đi, nhà… - Từ phức: tức những từ gồm nhiều tiếng. Từ phức lại được chia làm 3 loại chính: + Từ ghép gồm: Ghép đẳng lập như: cha con, vợ chồng, nhà cửa, ăn uống… Ghép chính phụ như: nhà máy, đường sắt, hoa hồng… + Từ láy gồm: Láy hoàn toàn (có thể không biến thanh hoặc biến thanh và thay đổi phụ âm ở vị trí phát âm cuối cùng) như: xanh xanh, đo đỏ, man mát, khang khác,… Láy phụ âm đầu như: long lanh, nhấp nháy, thấp thỏm... Láy vần như: hấp tấp, bịn rịn, tươi cười… * Lưu ý: - Về mặt cấu tạo, mặc dù từ là đơn vị cố định được dùng nguyên khối nhưng từ tiếng Việt khi hoạt động trong lời nói, có khả năng biến đổi về mặt cấu trúc. Các kiểu biến đổi thường gặp là: + Rút gọn số tiếng: Bungari → Bun + Tách từ: lả lơi → biết bao bướm lả ong lơi, giữ gìn → gìn vàng giữ ngọc… 13
  15. + Đảo trật tự giữa các từ: tốt tươi → tươi tốt, gìn giữ → giữ gìn… - Ngoài việc biến đổi về mặt hình thức cấu tạo, đôi khi từ còn được biến đổi cả về hình thức ngữ âm. Ví dụ: Vênh vênh váo váo như bố vợ phải đấm nguyên thể là vênh vênh váo váo như khố rợ phải lấm. Hay: Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm nguyên thể là vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm… 1.1.2. Một số lỗi thông thường khi dùng từ 1.1.2.1. Dùng từ sai về hình thức ngữ âm Giữa mặt âm thanh và mặt ý nghĩa của từ thực ra chỉ có mối quan hệ quy ước mang tính võ đoán. Chúng ta không thể lí giải được vì sao cùng nội dung chỉ vật đem lại ánh sáng và sức nóng cho trái đất thể hiện bằng hình thức âm thanh mặt trời (tiếng Việt), sun (tiếng Anh)… Tuy vậy, đó là một sự thỏa thuận ngầm mang tính xã hội tồn tại trong lịch sử, được các thế hệ tôn trọng và duy trì. Vì thế, nó có tính ổn định, thống nhất. Trong điều kiện, ngữ cảnh bình thường, không ai được phép tùy tiện thay đổi mặt âm thanh và mặt ý nghĩa của từ nếu muốn đảm bảo chất lượng của hoạt động giao tiếp. Nếu tùy tiện thay đổi thì sẽ ảnh hưởng đến chính hoạt động giao tiếp của bản thân mình hoặc ít ra cũng “làm trò cười cho thiên hạ”. Tức là khi dùng từ, phải đảm bảo dùng đúng hình thức ngữ âm của chúng. Ví dụ: - Đội ngũ tri thức ngày nay được đào tạo rất bài bản, có đầu óc. Từ tri thức dùng không đúng âm thanh và hình thức cấu tạo làm cho câu văn trên không có nghĩa. Bởi lẽ, tri thức (danh từ) với ý nghĩa là: những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội (nói khái quát). Ví dụ: Có tri thức về công nghệ thông tin. Trong khi đó, trí thức: Người chuyên làm việc trí óc và có trình độ chuyên môn nhất định, cần thiết cho nghề nghiệp của mình. Ví dụ: Tầng lớp trí thức. Con nhà trí thức. Do đó, dùng từ tri thức ở đây là sai, và phải dùng trí thức mới đúng. Dùng từ không đúng hình thức ngữ âm của nó là lỗi có quan hệ với các lỗi về phát âm và chính tả; không nắm được hình thức âm thanh chuẩn của từ thì sẽ viết sai. Những hiện tượng bị coi là sai khi viết giống cách phát âm đơn giản hóa hay đọc chệch âm so với âm gốc, 14
  16. nhất là từ Hán Việt. Ở đây, ta chỉ xét trường hợp những từ thường bị viết sai hình thức ngữ âm thành một âm tương tự. Ví dụ: Xem xét cột A và B trong những trường hợp sau bằng cách khẳng định đúng/sai trong các cặp từ: A B xán lạn sáng lạn việt vị liệt vị biểu ngữ biển ngữ phản ánh phản ảnh cảm khái cảm khoái sáp nhập sát nhập thủy mặc thủy mạc tham quan thăm quan đào ngũ đảo ngũ giao lưu giao liu bất trắc bất chắc uống rượu uống riệu bổ sung bổ xung chia sẻ chia xẻ khuyến mãi khuyến mại khúc chiết khúc triết mạn tính mãn tính bàng quan bàng quang Hầu hết đó là trường hợp của những từ Hán Việt với nghĩa gốc Hán không phải là dễ hiểu đối với tất cả người Việt. Chẳng hạn: Tham quan là một từ Hán Việt đã được chúng ta sử dụng từ lâu. Trong tiếng Hán tham có hai nghĩa, và được mượn vào tiếng Việt trong hai dãy từ phái sinh khác nhau. Với nghĩa “tham gia”, tham có mặt trong các từ Hán Việt: tham chiến, tham chính, tham dự, tham gia, tham luận… Với nghĩa “tham khảo”, tham có mặt trong: tham bác, tham khảo, tham quan, tham vấn…Trong tiếng Việt, tham quan có nghĩa “xem, nhìn tận nơi để thêm hiểu biết và học hỏi kinh nghiệm”. Nghĩa đầy đủ của tham quan không được phản ánh trong thăm quan, vì 15
  17. thăm chỉ là đến hỏi han, xem xét tình hình. Như vậy, thăm quan xuất hiện do đọc nhầm tham thành thăm, hai tiếng có âm và nghĩa na ná nhau. (Tạp chí Ngôn ngữ số 7/ 2000); Hay sán lạn nghĩa là rực rỡ. Nhầm âm sán thành sáng mà viết thành sáng lạn là không đúng… Lưu ý: Trong quá trình phát triển của ngôn ngữ, cách phát âm thường biến đổi trước và nhanh hơn chữ viết. Có những từ do thói quen phát âm từ xưa, ta có thể chấp nhận hai khả năng. Do đó, ở một số từ vẫn tồn tại song song hai dạng chuẩn và biến thể. Ví dụ: sứ mệnh sứ mạng khảng khái khẳng khái sự thực sự thật sáp nhập sát nhập án ngự án ngữ 1.2.2.2. Dùng từ sai về ý nghĩa Nguyên nhân của việc dùng sai ý nghĩa của từ là do không nắm vững ý nghĩa của từ. Nghĩa của từ là một hiện tượng rất phức tạp, không phải cứ là người bản ngữ là có thể phân biệt được những nét tinh tế về ngữ nghĩa của một từ trong những ngữ cảnh khác nhau, cũng như nhận định rõ những dị biệt, tinh tế giữa hai từ khác nhau. Cách khắc phục là ta nên tra từ điển khi dùng những từ còn cảm thấy mơ hồ về nghĩa. Sau đây là một số trường hợp dễ dẫn đến nhầm lẫn mà chúng ta cần biết để tránh: a, Những từ có hình thức ngữ âm gần nhau nhưng nghĩa khác nhau Ví dụ: Văn chương và văn học Nhược điểm và yếu điểm Mạc khách và mặc khách Phong thanh và phong phanh Liên quan và liên can b, Những từ có âm gần nhau, nghĩa gần nhau Ví dụ: Cổ nhân và cố nhân Thường xuyên và thường trực… c, Những từ không phù hợp với nghĩa hạn chế mà nó vốn có Ví dụ: - Ông giơ tay chỉ ba hoa 16
  18. Chúng ta chỉ có thể dùng “chỉ trỏ lung tung” hoặc “chỉ trỏ vu vơ” mà không thể dùng “chỉ trỏ ba hoa” vì ba hoa có nghĩa là “nói quá nhiều, thường chỉ ý khoác lác” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Đà Nẵng, 1995). Hay: - Họa sĩ Phạm Viết Song nhấp nháy bộ râu quen thuộc … Không dùng nhấp nháy để chỉ cử động của bộ râu mà chỉ có thể dùng để chỉ cử động của mắt… Hay: - Tuy món ăn nhỏ nhen nhưng người đi vẫn nhớ. Phải thay nhỏ nhen bằng bình thường, đạm bạc… Hoặc: - Bên bờ sông Như Nguyệt đã xảy ra nhiều chiến công ác liệt. Nên thay xảy ra bằng diễn ra và chiến công bằng trận đánh. 1.2.2.3. Dùng từ sai về phong cách Từ dùng phải phù hợp với văn cảnh, hoàn cảnh giao tiếp hoặc thể loại văn bản. Không đảm bảo điều đó, việc dùng từ sẽ bị coi là sai về phong cách. * Chẳng hạn, trong văn viết lại dùng từ ngữ của văn nói, ví dụ:` - Sở thích của chúng tôi, mỗi đứa mỗi khác. - Cần phải bảo vệ cái thành quả quý báu đó. Ở đây, cần thay từ đứa bằng từ người và phải bỏ từ cái trong cái thành quả. * Trong thể loại này lại sử dụng từ ngữ của thể loại khác Ví dụ: Sau năm 1945, dân tộc ta đi lên từ trong đêm mờ xa xôi lạnh cóng của lịch sử, bước đi xiêu vẹo, khoác tấm áo tả tơi nhiều mảnh vá. Đây không phải là văn miêu tả mà là văn nghị luận. Vì vậy cần thay các từ ngữ miêu tả trên thành: Sau năm 1945, dân tộc ta bước ra khỏi đêm trường trung cổ, bước những bước đi đầu tiên trong nghèo nàn, lạc hậu. * Có những từ Hán Việt được dùng cho những trường hợp cần sự trang trọng như phụ nữ, thiếu nhi… mà ta không thể thay thế bằng những từ thuần Việt cho dù nó có sẵn. Ví dụ: Không thể gọi Hội Phụ nữ Việt Nam là Hội Đàn bà Việt Nam, hay đội Thiếu niên Tiền Phong là đội trẻ con hay đội con nít Tiền Phong. * Trong hoàn cảnh giao tiếp thân tình lại dùng từ trang trọng như trong hội nghị hoặc từ óng ả như trong thơ ca. Ví dụ: + Người cha nói với các con bên bếp lửa: 17
  19. - Bố đã trình bày hết ý kiến của mình. Các con đã quán triệt chưa nào? + “Trước lúc đi ngủ, San tâm sự với tôi: - Cháu bị số phận hắt hủi. Giờ thì cả cha và mẹ đều không còn. Lẽ ra, khi ngồi bên con trong không khí gia đình thân mật, người cha chỉ cần nói một cách mộc mạc, tình cảm: - Bố nói hết ý nghĩa của mình rồi đấy. Các con thấy thế nào? Hay trong hoàn cảnh nói trên, nhân vật San cần dùng cách nói giản dị: - Cháu chẳng gặp may chút nào,… 1.2.2.4. Dùng từ sáo rỗng và trùng lặp Để câu văn có tính thẩm mĩ, hiệu quả diễn đạt cao, không nặng nề, người viết phải có vốn từ phong phú, phải có ý thức tránh lặp từ và sử dụng từ sáo rỗng. Ví dụ 1: - Lao động chân tay là cao quý lắm thay, vinh quang lắm thay, tự hào lắm thay. Các từ ngữ ca ngợi lao động chân tay ở trên là quá văn hoa, bóng bảy mà không diễn tả chân thực và đúng mức giá trị của lao động chân tay. Đây là lỗi dùng từ sáo rỗng. Cần thay các từ ngữ thành: - Lao động chân tay cũng đáng quý. Ví dụ 2: - Nhân dân ta phải đương đầu chống lại một kẻ thù hung bạo nhất. Ở câu trên, đương đầu và chống lại trùng lặp về nghĩa. Đây là lỗi lặp thừa. Các chữa kiểu lỗi này là cần bỏ đi một trong hai từ ngữ trùng lặp về nghĩa đó. Ví dụ 3: - Các sinh viên phải thi lại phải làm đơn xin thi lại và nộp tiền thi lại thì mới được xét thi lại trong đợt thi lại này. Các từ phải và thi lại ở trên là không thừa, nhưng sự lặp lại chúng đã gây nên cảm giác nặng nề, nhàm chán. Có thể coi đây là lỗi lặp vụng. Cách chữa ở kiểu lỗi này là dùng phép thế, phép tỉnh lược và thay đổi cách diễn đạt. Câu trên có thể được sửa thành: - Các sinh viên phải thi lại cần làm đơn và nộp tiền thì mới được xét trong đợt thi lần hai này. - Để được xét tham gia vào kì thi đợt hai này, các sinh viên thuộc diện thi lại phải làm đơn và nộp tiền kịp thời. * Lưu ý: Lặp từ không phải luôn là lỗi dùng từ. Người viết có thể cố tình lặp từ nhằm các mục đích sau: + Lặp từ để liên kết các câu trong văn bản Ví dụ: 18
  20. - Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động. Tre anh hùng chiến đấu. (Thép Mới) + Lặp từ là để diễn đạt chính xác hơn Ví dụ: - Nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ các bản tuyên bố của chính phủ Việt Nam và của Chính phủ Lào. Nếu không có từ của thứ hai thì người đọc có thể nghĩ các bản tuyên bố đó là những tuyên bố chung của hai chính phủ. + Lặp từ như một biện pháp tu từ để nhấn mạnh một ý nào đó Ví dụ: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai (Chinh phụ ngâm khúc) BÀI TẬP 1. Chỉ ra và nêu cách sửa những lỗi dùng từ trong những câu sau đây: 1. Ban đêm bầu trời đầy những vì tinh túy. 2. Quá trình vượt núi cao là quá trình con người trưởng thành và lớn lên. 3. Chúng nó cười to quá quên cả quy luật của giờ nghỉ. 4. Trong gian phòng thanh tịnh im lặng, chỉ nghe tiếng nước sôi, tiếng than nổ, tiếng gió thổi… 5. Ý thức trách nhiệm đã nhiễm sâu vào cán bộ. 6. Tính tình anh ấy rất hiền lành nhưng khi ra trận đánh giặc thì táo tợn vô cùng. 7. Anh phải vào phòng 302 để được chuẩn đoán bệnh trước đã. 8. Cuốn sách cậu cho tôi mượn có rất nhiều hình thuyết minh đẹp. 9. Anh đã đọc tác phẩm nặc danh đó chưa? 10. Ngoài những ưu điểm trên chúng ta còn một số yếu điểm. 11. Cậu ta vừa được đề đạt lên làm hiệu trưởng. 12. Bằng trí tuệ nhạy bén và thông minh, những người lao động đã đấu tranh chống lễ giáo bảo thủ, lạc hậu. 19
nguon tai.lieu . vn