- Trang Chủ
- Triết học
- ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC - CHƯƠNG III KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC Phần A & B
Xem mẫu
- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC
CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC
CHƯƠNG III
KHÁI LƯỢC
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
TRƯỚC MÁC
Phần A & B
NGƯỜI BIÊN SOẠN
PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG
TS. LÊ HỮU ÁI
- NỘI DUNG CHƯƠNG III
A. Triết học Hy Lạp cổ đại
B. Triết học Tây Âu thời Trung cổ
C. Triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận
đại
D. Triết học cổ điển Đức
- A. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển và đặc
điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
1) Hoàn cảnh ra đời
- Hy lạp (Greece) là một quốc gia ở Đông Nam
châu Âu. Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời từ thế
kỷ VI TCN, trong điều kiện chế độ nô lệ đang
thịnh hành. Người nô lệ bị coi là công cụ, là
“động vật biết nói”. Cuộc đấu tranh giữa giai
cấp nô lệ và giai cấp chủ nô rất gay gắt.
- - Sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân
tay dẫn đến sự hình thành một tầng lớp lao động trí óc.
- Sự phát triển của thủ công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp và hàng hải ở Hy Lạp dẫn đến sự ra đời
của hàng loạt những trung tâm đô thị và tạo điều kiện
cho sự phát triển của triết học, khoa học, văn hóa, nghệ
thuật.
- Hàng trăm nhà nước nhỏ (polis, tiếng Hy Lạp dịch
sang tiếng Anh là city state: nhà nước thành thị, thành
bang). Mỗi nhà nước có một trung tâm đô thị ở giữa,
chung quanh là vùng nông thôn.
Aten (Athens) và Spác (Sparta) là hai thành bang lớn
nhất. Aten là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, theo
- Thành bang Spac đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc
phát triển nông nghiệp, theo chế độ quân chủ.
- Cuộc chiến tranh Pelopone giữa hai thành bang này
kéo dài hàng chục năm làm cho Hy Lạp suy yếu.
- Hy lạp có một nền văn hóa và khoa học phát triển
rực rỡ trong thời cổ đại.
Các môn khoa học như toán học, vật lý học, thiên
văn học, triết học, lôgic học, chính trị học, v.v.. được
nghiên cứu và đưa vào giảng dạy ở các trường học.
Viện Hàn Lâm (Academia) do Platôn sáng lập ở Aten
năm 387 TCN được coi là trường đại học đầu tiên của
thế giới.
- - Aten được coi là quốc gia có nền dân chủ đầu
tiên của thế giới.
- Hy Lạp có sự giao lưu văn hóa với các nước
phương Đông.
Vào thế kỷ VIII-VII TCN, người Hy Lạp đã có hoạt động buôn bán, trao
đổi hàng hóa với các nước Cận Đông, nhất là Babylôn, Ai Cập nên có dịp
tiếp xúc, trao đổi, tiếp thu những yếu tố của văn minh Lưỡng Hà.
Năm 326 TCN, Hoàng đế Alexander Đại đế của Macedonia, sau khi thôn
tính Hy Lạp hình thành một đế quốc lớn mạnh liền đem quân chinh phục Ấn
Độ, nhưng sau đó phải rút quân vì quân lính nổi loạn, nhưng sự giao lưu văn
hóa giữa ấn Độ và Hy Lạp vẫn tiếp tục.
- Đến cuối thế kỷ II TCN, Hy Lạp bị La Mã
chinh phục, nhưng Hy Lạp vẫn giữ vai trò nòng cốt
về văn hóa trong đế chế La Mã.
- 2) Quá trình hình thành và phát triển của triết
học Hy Lạp cổ đại
Sự phát triển của Triết học Hy Lạp được chia thành ba
thời kỳ:
- Thời kỳ sơ khai (hay còn gọi là thời kỳ tiền Xôcrat
(pre-Socrated) từ thế kỷ VII-VI TCN. Gồm có :
- Trường phái Milê có Talet (624-547 TCN), Anaximanđơ
(610-546TCN), Anaximen(585-525 TCN).
- Trường phái Pitago do Pitago (580-500 TCN) sáng lập.
- Trường phái Ephedơ, đại biểu là Hêraclit (520-460
TCN).
- Trường phái Elê có Xênôphan (57-479 TCN), Pacmênit
(540-470TCN), Zênôn (490-430 TCN).
- - Thời kỳ cực thịnh (thế kỷ V-IV TCN)
Các đại biểu xuất sắc:
● Anaxago ( 500-428 TCN)
● Empêđôc(490-430 TCN)
● Đêmôcrit ( 460-370 TCN)
● Xôcrat (469-399 TCN)
● Platôn ( 472-347 TCN)
● Arixtôt ( 384-322 TCN)
- Thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ IV-I TCN)
Nổi bật là trường phái Êpiquya do Êpiquya ( 341-
270 TCN) sáng lập.
- 3. Đặc điểm của Triết học Hy Lạp
- Triết học gắn với khoa học tự nhiên, các nhà triết
học cũng đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên.
- CNDV chất phác và PBC tự phát
- Các trường phái triết học Hy Lạp là TGQ của giai
cấp chủ nô. Các quan điểm của họ không chỉ phản ánh
cuộc đấu tranh bảo vệ chế độ nô lệ, mà còn là cuộc
đấu tranh giữa hai phái dân chủ và quân chủ trong nội
bộ giai cấp chủ nô (đường lối Đêmôcrit và đường lối
Platôn).
- Do có sự giao lưu với văn hóa phương Đông (Ai
Cập, Ấn Độ), nên triết học Hy Lạp cũng chịu ảnh
hưởng của triết học phương Đông.
- II. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu
1) Trường phái Milê
The school of Miletus
The
Talet (Thales), 624-547 TCN,
nhà toán học, thiên văn học, triết
học, một trong bảy người thông
thái ở Hy Lạp cổ đại. Ông là nhà
toán học đầu tiên, người sáng lập
ra môn hình học với định lý Talet
nổi tiếng.
- Là nhà triết học, ông đứng trên lập
trường duy vật cho rằng nước là bản
nguyên của thế giới.
Theo Talet, tất cả sinh ra từ nước và tan
biến thành nước trong một vòng tuần hoàn
bất tận, trong đó nước là cơ sở.
Sở dĩ Talet cho nước là bản nguyên của
vũ trụ, vì ông quan sát thấy “Thức ăn của
mọi vật đều ẩm ướt… Hạt giống của mọi
vật đều có bản chất ẩm ướt”.
- Anaximanđơ (Anaximander), 610-546
TCN, học trò hoặc bạn của Talet lại cho
rằng vạn vật được sinh ra từ một dạng vật
chất đầu tiên là Apâyrôn, là cái không xác
định. Từ apâyrôn nảy sinh ra những mặt đối
lập như nóng- lạnh, khô - ướt.
Anaximen (Anaximenes), 585-525
TCN, học trò của Talet, cho rằng không khí
là nguồn gốc sinh ra tất cả.
- 2. Triết học Hêraclit
Hêraclit (Heraclitus), 546-480 TCN,
sinh ở Êphedơ (Ephesus) ở Iony, vùng
Tiểu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Ông là
nhà triết học duy vật, nổi tiếng với
những tư tưởng biện chứng.
- Về bản thể luận: Ông cho rằng bản nguyên của vũ
trụ là lửa. Lửa tắt đi sinh ra vạn vật và vạn vật cháy lên
thành lửa theo con đường chuyển hóa đi xuống và đi lên.
Lửa → hơi → lỏng → rắn
Rắn → lỏng → hơi → lửa
- Ông nói: “Vũ trụ này luôn luôn là như vậy, nó không do
thần thánh hay do con người làm ra; nó đã, đang và mãi mãi
sẽ là một ngọn lửa muôn đời sinh động bùng cháy lên và
tắt đi theo những quy luật nhất định”.
(This universe, which is the same for all, has not been made by any god or man,
but it always has been, is, and will be an ever-living fire, kindling itself by regular
measures and going out by regular measures).
“Tất cả mọi vật đều trao đổi với lửa và lửa trao đổi với
vạn vật như hàng hóa trao đổi với vàng và vàng trao đổi
với hàng hóa”.
(All things are an exchange for fire, and fire for all things, as goods for
gold and gold for goods).
- Ông là người sáng lập ra phép biện chứng duy
vật cổ đại. Tư tưởng biện chứng của ông được
thể hiện trong những câu châm ngôn nổi tiếng.
Ông cho rằng vạn vật không ngừng biến đổi
như một dòng chảy.
“Mọi vật đều trôi chảy và không có gì đứng yên”
(Everything flows and nothing stands still).
“Chúng ta vừa tồn tại, vừa không tồn tại” (We are
and are not).
“Bạn không thể lội hai lần xuống cùng một dòng
sông, vì dòng nước khác đang liên tục chảy về phía
bạn”. (You could not step twice into the same river, for
other waters are ever flowing onto you)..
- Hêraclit nêu ra tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng. Bất cứ sự vật, hiện
tượng nào cũng bao hàm những mặt đối lập.
Ông nói: “Cùng một cái ở trong chúng ta - sống và
chết, thức và ngủ, trẻ và già”.
Các mặt đối lập làm tiền đề cho nhau, có mặt này mới
có mặt kia. “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác
làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ
chịu hơn”.
Các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau. “Cái
nóng lạnh đi, cái lạnh nóng lên. Cái ướt khô đi, cái khô
ướt lại”.
Người đương thời coi ông là nhà triết học tối nghĩa.
- Ph. Ăngghen viết; “Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ,
nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit
trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời
lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không
ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu
vong”
(C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 20, tr. 35).
- Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận
thức bắt nguồn từ cảm giác. Tuy nhiên, ông cho rằng
thị giác thường bị lừa, bởi vì “tự nhiên thích giấu
mình”.
Do đó, nhận thức phải đạt tới cái “logos”, tức
- 3. Trường phái Pitago
Pitago (Pithagoras), 571-497 TCN,
là nhà toán học nổi tiếng. Ông thành lập
một Liên minh (gọi là Liên minh Pitago)
chống lại phái chủ nô dân chủ
Pitago cho rằng bản nguyên của thế
giới là con số. Số 1: điểm; số 2: đường
thẳng; số 3: mặt phẳng; số 4: hình khối.
Số 10 là con số hoàn thiện nhất.
Quy luật của con số chi phối toàn bộ vũ
trụ và con người. Nhận thức chính là
nhận thức những con số.
- 4. Trường phái Elê
(The school of Elea)
Là trường phái duy vật siêu hình
Xênôphan (Xenophanes), 570-487
TCN
Ông cho rằng thế giới là một khối duy
nhất bất động không do thần thánh sinh
ra.
Con người sáng tạo ra thần thánh theo
trí“Nởng tượng a,ủa mình. thể vẽ được thì chúng sẽ mô
tưếu bò, ngự c sư tử có
tả các vị thần theo hình dáng của mình”
(If oxen and horses and lions could draw and paint, they
would delineate the gods in their own image.)
nguon tai.lieu . vn